Ý NGHĨA ĐÁNH CHUÔNG MÕ
Trước khi hành lễ, vị chủ lễ đánh ba tiếng
chuông để mọi người biết sửa soạn áo lễ chỉnh tề đến trước chánh điện. Báo hiệu
giờ làm lễ sắp bắt đầu, nên mọi việc nói năng đi lại phải sớm hạn chế lại.
Trong nghi lễ có hai pháp
khí làm chủ lực là chuông và mõ chính trong buổi lễ tụng đọc và lễ lạy. Chuông
có nhiệm vụ báo cho mọi người biết sắp hành lễ, báo qua một tiết mục trong phẩm
kinh, hay cho biết sắp hết một phẩm kinh, hoặc sắp kết thúc cuộc hành lễ.
Chuông ý chính là giúp cho hành giả giữ chánh niệm, không cho tâm ý tán loạn chạy
ra khỏi việc đang làm. Còn mõ có nhiệm vụ giữ cho đại chúng biết tụng, hay đọc
theo nhịp nhanh hay chậm mỗi khi tụng niệm. Tụng kinh văn thì mõ đánh đều đều
không nhanh và không chậm, tụng kệ thì đánh mõ chậm và có khoảng cách từng câu
hơi khác tụng kinh văn một chút, còn tụng chú thì nhanh hơn tụng kinh và tụng kệ.
Tụng kệ thì mỗi khi qua một câu nghỉ lơi ra một chút rồi qua câu khác, để nghe
rõ từng câu một khác với tụng kinh văn thì tụng liên tục không ngắt quãng.
Vị đánh mõ gọi là Duy na,
người đánh chuông gọi là Duyệt chúng. Duy na là người có nhiệm vụ kiểm tra, xem
xét các thao tác trong một buổi lễ như đến đoạn hết một phẩm, lúc nào lễ lạy
v.v.. Còn Duyệt chúng, duyệt có nghĩa là vui, tức người đánh mõ làm cho đại
chúng vui trong việc tụng đọc, nên gọi là Duyệt chúng.
Sau khi vị chủ lễ xướng đảnh
lễ Tam Bảo xong kế đến đại chúng ngồi xuống. Duy na và Duyệt chúng khai chuông
mõ. Khai chuông mõ nội dung có câu: Tiên khởi tam, thứ lôi thất, hậu diệt tứ.
Nghĩa là trước đánh 3 kế đến đánh 7 sau dứt 4.
Trước đánh 3 tiếng chuông đầu:
Ý nói chúng sanh đều do ba nghiệp của thân, khẩu, ý.
Thân, khẩu, ý: Tạo ác nghiệp
sau bị đoạ 3 đường khổ (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh), cũng có nghĩa là ba độc.
Ba độc: Tham, sân, si. Trừ 3
độc để ra khỏi ba cõi Dục giới, Sắc, giới và Vô sắc giới. Để chứng Tam đức là
Pháp thân đức, Bát nhã đức, giải thoát đức, còn gọi Tam thân, Pháp thân, Bát
nhã thân, và Giải thoát thân.
Tiếp đánh 4 mõ rời, 2 mõ nhập,
1 mõ rời thành 7 mõ, gọi là thứ lôi thất: Là tiêu biểu cho thất chi tội, về
thân và khẩu.
Thân có 3 tội: Sát sanh, trộm
cắp và tà dâm
Khẩu có 4 tội: Vọng ngôn, ỷ
ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu.
7 tiếng mõ trên ý nói 7 thứ
tội do thân và miệng tạo ra. Khi tu tập dùng 7 giác phần gọi là Thất giác tri để
đối trị 7 chi tội.
1/ Trạch pháp: Trạch là chọn
lựa, chọn lựa pháp môn nào thích hợp cho căn cơ của mình để tu tập. Cũng như việc
tu tập phải chọn thầy hay bạn tốt để kết duyên tu tập mới mong giải thoát và hết
khổ.
2/ Hỷ: Là vui vẻ, hoan hỷ với
pháp mình lựa chọn để áp dụng tu tập, không vì hôm nay tu pháp này mai tu pháp
khác; và hoan hỷ với sự kết duyên với thầy và bạn của mình đang tu tập. Không
vì một chút bất mãn mà bỏ đạo tràng này qua đạo tràng khác, hoặc lâu lâu mới đến
tham dự đạo tràng một bữa, thì năng lượng tu tập không đủ để đốn phá phiền não
và vô minh.
3/ Khinh an: Là nhẹ nhàng,
an lạc không còn vướng bận một việc gì.
4/ Xả: Buông bỏ không chấp
trước mọi sự mọi việc, không chấp thiện, không chấp ác được như vậy tâm mới an
tịnh để dễ đi vào tu tập đưa đến giác ngộ giải thoát.
5/ Định: Là tâm ý không còn tán loạn do dự, không thối
tâm chùn bước, như vậy thẳng bước mà đi không còn nhìn ngó lại phía sau nữa.
6/ Niệm là luôn luôn nhớ
nghĩ việc tu tập không bao giờ để tâm ý
tán loạn nghĩ qua việc khác.
7/ Tuệ: Là sáng suốt không
còn mê mờ nữa, phân biệt được đâu là chánh đâu là tà, mọi vọng tưởng đều được
giải quyết xong.
Tiếp đánh 3 chuông, 3 mõ đều nhau
(rời) Gọi là Tịnh đã tam:
1c, 1m; 1c, 1m, 1c. 1m (đánh hoà vào nhau). Tịnh đã tam nghĩa là tu tam học (Giới,
Định, Tuệ) để chứng tam thừa (Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát).
Tiếp đoạn đánh 10 tiếng gọi là (trung đã thập) Gồm:
Mõ 3 tiếng, chuông 1 tiếng. Hai lần như vậy rời. Tiếp đánh 1 tiếng mõ, 1 tiếng
chuông. Vậy là đủ 10 tiếng 2 bên.
Ý nghĩa con số 10 là chúng sanh tạo 10 nghiệp
ác, thân có 3, khẩu có 4, ý có 3, từ ba
nghiệp thân, khẩu, ý.
Ý tạo 3 điều ác là: Tham,
sân và si.
Vậy dùng 10
tiếng chuông, mõ tiêu biểu cho 10 nghiệp thiện để đối trị 10 nghiệp ác, để chứng
10 thân Bồ đề (Bồ đề thân, nguyện thân, hoá thân, lực thân, trang nghiêm thân,
oai thế thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân, trí huệ thân).
Đoạn sau cùng đánh 4 mõ: Là tiêu trừ 4 tướng:
(Sanh, lão, bệnh, tử). Bốn tướng sanh,
lão, bệnh, tử tiêu trừ để chuyển thành Tứ trí.
1-
Thành sở tác trí. (Tiền ngũ thức)
2-
Diệu quang sát trí. (Đệ lục ý thức)
3-
Bình đẳng trí. (Đệ mạc na thức)
4-
Đại viên cảnh trí. (Đệ bát a lại
da thức).
Trong quá trình tu học mục đích là chuyển Thức
thành Trí. Thức là Vọng, Trí là Chơn. Tức chuyển Vọng thức thành Chơn trí,
chuyển Tà thành Chánh, chuyển Vọng thành Chơn, chuyển Phàm thành Thánh, chuyển
phiền não thành Bồ đề.v.v…
Tóm lại chúng sanh từ ba nghiệp thân khẩu ý, tạo
ra ba độc: Tham, sân, si để rồi đoạ vào ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh). Trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi sanh tử, phải chịu sanh, lão, bệnh, tử.
Để đối trị với các nghiệp báo trên tu tập Giới, Định,
Tuệ, thất giác tri, để đối trị ba nghiệp thân, khẩu, ý dập tắt phiền não tham,
sân, si chứng ba thân, Tứ trí ra khỏi tam giới, chấm dứt sanh, lão, bệnh, tử,
vĩnh viễn ra khỏi luân hồi./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét