TÔN GIẢ A NAN
Hỏi: Được biết,
ngài A Nan sinh vào ngày Phật thành Đạo (có tên Khánh Hỷ). Như vậy, Phật thành đạo trước 25 năm thì ngài
A Nan mới xuất gia. Nhưng trong các kinh bắt đầu có câu: “Như thị ngã văn” (Như
vầy tôi nghe) được xem là câu nói của ngài A Nan. Vậy, những bộ kinh Phật thuyết
trước ngài A Nan chưa xuất gia thì làm sao mà ngài nghe được, để sau này trùng
tuyên lại trong các cuộc kiết tập kinh điển?
Chúng tôi hoàn toàn tán thán
trước một “nghi vấn” rất hợp lý của bạn! Khi đọc kinh điển Phật giáo, nếu ai
cũng biết đặt ra những suy tư, thắc mắc thì con đường hoàn thiện tri thức sẽ gần
lại với mỗi người.
Đúng như bạn đã hiểu, ngài A
Nan sinh vào năm mà Đức Thế Tôn vừa thành đạo, đến năm 25 tuổi mới xuất gia.
Trong cuộc đời của ngài A Nan, ngài đã có một sứ mạng đặt thù: Đảm nhận vai trò
hầu cận (thị giả) Đức Phật.
Vì lẽ, trong suốt 25 năm đầu,
Đức Thế Tôn không có thị giả riêng. Khi thì ngài Nagasamla, khi thì ngài
Nagita… thay nhau đảm nhận công việc thị giả. Đến năm 56 tuổi, vì quán sát căn
cơ của chúng sanh và cũng như để thuận lợi hơn trong công việc hoằng hoá tứ
chúng nên Đức Thế Tôn muốn có một vị thị
giả thường trực. Trong lúc ấy, các vị đại để tử như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền
Liên, Kiều Trần Như… đưa ra nhiều ứng viên có khả năng đảm nhiệm công việc thị
giả nhưng không được Phật chấp nhận. Cuối cùng, chư vị Tỳ kheo đề nghị ngài A
Nan làm thị giả. Trước tình hình này,
ngài A Nan nhận lời nhưng với một lời thỉnh cầu mang tính điều kiện. Đó là ngài
sẽ đảm nhận trọng trách làm thị giả cho Đức Thế Tôn nếu như Thế Tôn chịu từ chối
bốn việc và chấp nhận bốn việc liên quan đến A Nan.
Bốn việc từ chối đó là:
Không cho A Nan y, đồ ăn, một phòng riêng và được mời ăn, vì nếu không từ chối
thì ảnh hưởng của tứ chúng đối với ngài A Nan sẽ không tốt. Bốn việc chấp nhận:
Thứ nhất, nếu A Nan được mời thọ trai thì Thế Tôn sẽ sẵn lòng đi dự. Thứ hai,
Thế Tôn sẵn lòng gặp những người ở xa đến và do ngài A Nan giới thiệu. Thứ ba, Thế
Tôn chấp nhận cho A Nan tiếp kiến nếu như A Nan gặp phải những sự phân vân, khó
xử. Thứ tư, Thế Tôn sẽ giảng lại những bài kinh khi A Nan vắng mặt. Trong bốn
điều chấp nhận mà ngài A Nan đưa ra, đáng chú ý nhất là đều cầu thỉnh sau cùng:
Phật sẽ giảng lại những bài kinh mà A Nan chưa được nghe. Trong kinh Đại Bát Niết
Bàn, ngài Xá Lợi Phất đã khẳng định với tứ chúng rằng, ngài A Nan hầu Phật trên
20 năm, có tám điều không thể nghĩ bàn, điều thứ năm là cầu thỉnh Đức Phật thuyết
cho nghe 12 bộ kinh.
Như vậy, căn cứ vào Tiểu Bộ
kinh và Đại Bát Niết Bàn kinh đều đề cập đến một lời thỉnh cầu rất mực quan trọng:
Xin Thế Tôn thuyết cho A Nan nghe những bài pháp mà A Nan không được dự trong
các pháp hội trước đó. Đây là một trong những lời thỉnh cầu quan trọng để rồi từ
dây, ngài A Nan có đủ điều kiện nhân duyên nghe lại toàn bộ pháp thoại mà Đức
Phật đã thuyết, không loại trừ những bài pháp mà Đức Phật đã thuyết trước lúc A
Nan xuất gia. Mặt khác, cũng nên lưu ý rằng, với tư chất thông tuệ, ngài A Nan
có một khả năng ghi nhớ tất cả những lời giảng dạy của Phật. Điều này, Đức Phật
đã khẳng định như sau: “Tỳ kheo bậc nhất trong chúng Thanh văn của Ta: Biết thời,
rõ vật, gặp vật không nghi, ghi nhớ không quên, nghe nhiều sâu rộng, kham nhẫn
kính thờ người trên là Tỳ kheo A Nan”. Do đó, dường như trong tất cả các kinh đều
khởi đầu bằng sự khẳng định của A Nan:
“Tôi nghe như vầy” và sự khẳng định đó
hoàn toàn đầy đủ cơ sở vì chính bản thân A Nan đã nghe.
Suốt 25 năm trời, bất kể thời
gian khắc nghiệt của thời tiết, điều kiện sức khoẻ của bản thân mình; ngài A
Nan đã bất chấp tất cả để thực hiện trọn vẹn sứ mạng thị giả hầu Phật. Ngoài
công việc thường nhật hầu cận Đức Thế Tôn, ngài A Nan còn là một sứ giả truyền
đạt thông tin cho tứ chúng, khởi phát nhân duyên để Phật cho phép nữ giới được
xuất gia, giúp đỡ huynh đệ đồng tu trong lúc khó khăn, bệnh tật… và trên hết,
công hạnh vĩ đại nhất của ngài A Nan là nhờ khả năng ghi nhớ vô song của mình
mà pháp vị của Đức Thế Tôn vẫn còn lưu lộ và làm tươi nhuận thế gian./.
Trích Phật pháp Bách vấn
tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét