LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN
(Án Ma Ni Bát Di Hồng)
Hỏi: Trong một chuyến
đi công tác, tôi được tặng một “biểu tượng” có ký hiệu ngoằn ngoèo và được dặn
giữ gìn cẩn thận sẽ được lợi ích. Tôi không biết ý nghĩa của biểu tượng đó là
gì? Tôi có nghe trong Phật giáo có pháp “Kim cương ngữ” nhưng không biết pháp ấy
như thế nào? Xin giải thích để áp dụng vào đời sống tu tập hàng ngày.
Đáp: “Biểu tượng” mà
bạn hỏi chính là Lục tự đại minh chơn ngôn, một trong những thần chú nổi tiếng
và rất thông dụng của Mật tông, nhất là Mật tông Tây Tạng. Nguyên Phạn ngữ là
Om mani padme hum, Hán ngữ phiên âm lá Án ma ni bát di hồng, Án ma ni bát minh
hồng, Án ma ni bát nột minh hồng, Án ma ni bát đầu mê hồng…
Án, theo Bí Tàng ký, có
nghĩa là quy mạng, cúng dường, tam thân, cảnh giác và nhiếp phục. Chữ Án do ba
chữ A, U và Ma hợp thành. A có các nghĩa: Bồ đề tâm, các pháp môn, bất nhị,
tính, tự tại và pháp thân. U có nghĩa là báo thân, Ma có nghĩa là pháp thân. Hợp
ba chữ này thành chữ Án (Om), hàm nhiếp vô biên vô lượng nghĩa, tổng trì, đứng
đầu tất cả Đà la ni. Ma ni (mani) là bảo châu, các loại châu ngọc quý giá. Bát
di (padme) là hoa sen. Hồng (hum) là chủng tử Bồ đề tâm của tất cả Như Lai, hằng
sa công đức từ Chân như diệu thể của tất cả Như Lai đều từ chữ này sinh ra. Hồng
còn được dùng để trấn áp ma quỷ, nghe tiếng
này ma quỷ kinh sợ. Như vậy, Án ma ni bát di hồng, gượng dịch (bởi vì ý nghĩa thậm
thâm, bất khả tư nghì) có nghĩa là: “Quy y châu ma ni trên hoa sen” (Từ điển Phật
học Huệ Quang) hoặc là: “Cầu châu báu trên hoa sen” (Từ điển Phật học Hán-Việt)
hay là: “Cái quý báu trong hoa sen”
(Đoàn Trung Cồn, Phật học Tự điển) và “Ngọc báu trong hoa sen, Aum!
(Thích Minh Châu, Từ điển Phật học Việt Nam).
Hầu hết các hành giả và tín
đồ Mật giáo Tây Tạng đều trì tụng thần chú này.
Theo Phật giáo Tây Tạng thì trì tụng sáu chữ này sẽ được sự tiếp độ của
Bồ tát Liên Hoa Thủ (Padma pani) và được vãng sanh Cực lạc. Giống như niềm tịnh
tín của các hành giả Tịnh Độ tông với Phật A Di Đà, tín đồ Mật giáo rất sùng
kính Bồ tát Liên Hoa Thủ. Không chỉ trì tụng, tín đồ Mật giáo Tây Tạng còn tin
rằng nếu thần chú này được mang theo bên mình, cầm trên tay hoặc cất trong nhà
vẫn được cứu độ. Vì thế, họ thường viết
sáu chữ này lên mảnh vải dài, để vào ống đựng kinh gọi là luân xa. Mỗi người tự
dùng tay quay hoặc dùng sức gió hay sức nước làm quay ống đựng kinh ấy gọi là
chuyển pháp luân đồng thời tin rằng công đức của chuyển pháp luân sẽ giúp vượt
thoát sanh tử. Mặt khác, sáu chữ này còn được thêu vẽ lên cờ xí, làm bia đá dựng
hai bên đường hoặc khắc vào vách núi để người người đều trông thấy và trì niệm.
Trong “biểu tượng” ấy, chữ
Án màu trắng tượng trưng cho cõi Trời, chữ Ma màu xanh tượng trưng cho A Tu la,
chữ Ni màu vàng tượng trưng cho cõi Người, chữ Bát màu lục (xanh sẫm) tượng
trưng cho cõi Súc sanh, chữ Di màu đỏ tượng trưng cho cõi Ngạ quỷ, chữ Hồng màu
đen tượng trưng cho cõi Địa ngục. Kinh Quán Âm (Tạng bản) tán thán công đức của
sáu chữ này là cội nguồn của trí tuệ, giải thoát. Nếu ai xướng chữ Om thì sẽ đoạn
đường luân chuyển trong cõi Trời, xướng chữ Ma thì sẽ đoạn đường luân chuyển
trong cõi A tu la, xướng chữ Ni sẽ thoát khỏi tai ách và được thọ sanh trong
cõi Người, xướng chữ Pad thì sẽ đoạn đường luân chuyển trong cõi Súc sanh, xướng
chữ Me thì sẽ thoát nỗi khổ trong đường Ngạ quỷ, xướng chữ Hum thì sẽ thoát khỏi
nỗi khổ bị đoạ vào Địa ngục.
Với ý nghĩa như đã trình
bày, các hành giả Mật tông ngoài việc trì niệm miên mật không gián đoạn họ còn
thêu, vẽ, in ấn sáu chữ minh chú để mang theo bên mình hoặc ban tặng cho những
người hữu duyên để cùng được ân triêm, gia hộ của Bồ tát Liên Hoa Thủ và đó là
chính nhân của sự tăng trưởng thiện tâm, vượt thoát sanh tử, vãng sanh Cực lạc.
Kim cương ngữ là pháp tu mật
niệm, tức tụng thầm kinh văn mà không phát ra tiếng. Theo Thủ Hộ Quốc Giới
kinh, quyển 2 thì: “Ngồi theo tư thế Kim cương kiết già, răng môi chẳng động,
không phát ra tiếng, chỉ mặc niệm trong tâm, gọi là Kim cương ngữ. Mặt khác,
Nhiếp Chân Thật kinh, quyển hạ ghi: “Lúc trì tụng chân ngôn, nên trụ tâm ngưng
lặng, miệng thầm đọc, chỉ một mình nghe, người khác chẳng biết, trong tâm quán
tưởng chừng chữ, phân biệt rõ ràng, không nhầm lẫn, chẳng chậm chẳng mau, đó gọi
là Kim cương ngữ ngôn”.
Pháp Kim cương ngữ ngày nay
vẫn được hành trì khá phổ biến trong các tự viện cũng như tại gia. Mật niệm
kinh chú, giữ tâm chánh niệm là pháp môn tu đơn giản, hiệu quả, lại có thể thực
hiện mọi lúc, mọi nơi. Tuy nhiên, để hành trì tu pháp này, bạn cần phải có một
vị thầy am hiểu về pháp môn này để hướng dẫn cụ thể cũng như tháo gỡ những vướng
mắc trên bước đường tu./.
Trích Phật pháp Bách vấn tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét