CƯ SĨ VỚI PHẬT SỰ HOẰNG PHÁP
Hỏi: Tôi là một Phật
tử rất tâm huyết với sự nghiệp hoằng pháp. Kính hỏi, hàng Phật tử có thể tham
gia vào sự nghiệp hoằng pháp không, nếu được thì bằng phương thức nào?
Đáp: Hoằng
pháp là đem giáo lý giải thoát, giác ngộ
và các phương pháp tu tập nhằm chuyển hoá khổ đau truyền bá rộng rãi đến
mọi người. Hoằng pháp là nhiệm vụ chung của toàn thể những người con Phật, cả
xuất gia lẫn tại gia, trong đó người cư sĩ tuy không giữ vị trí chủ yếu như chư
Tăng nhưng cũng có vai trò và nhiệm vụ rất quan trọng.
Trước hết, xác định nhiệm vụ
then chót của người cư sĩ là hộ pháp, tức hỗ trợ cho chư Tăng trong sự nghiệp
xây dựng, bảo vệ và phát triển Phật pháp. Trong trọng trách hộ pháp vô cùng to
lớn và đa dạng ấy, tất yếu có lãnh vực hoằng pháp. Tuy nhiên, do giới hạn về
chuyên môn (giáo điển và kinh nghiệm nội chứng) cùng với sự ràng buộc về các
phương diện gia đình, sinh kế…nên hầu hết hàng cư sĩ chỉ có thể tham gia hoằng
pháp trong chừng mực nào đó, khả năng và điều kiện nhất định.
Phương thức hoằng pháp đầu
tiên mà bất cứ người cư sĩ nào cũng làm được, đó là thể hiện Phật chất trong cuộc
sống của mình ở trong gia đình, ngoài xóm giềng, cơ quan và xã hội. Sự thể hiện
những phẩm chất đạo đức của người con Phật như Tam quy, Ngũ giới, Từ bi, Hỷ xả, bố thí,
hoan hỷ, và trí tuệ.v.v… trong cuộc sống là một bài pháp không lời nhưng cực kỳ
sống động và có sức thuyết phục cao. Ở đây, Phật pháp được hoá thân qua thực tiễn
đời sống của hàng Phật tử, thông qua đời sống của người cư sĩ để người khác có
một phần nhận thức, đánh giá về Phật pháp.
Một khi đã hàm dưỡng và thể hiện được Phật chất trong đời sống, dựa
vào uy tín cá nhân, người cư sĩ có thể truyền đạt kinh nghiệm sống quý báu ấy
cho mọi người chung quanh. Mỗi người cư sĩ phải tham gia giáo hoá các thành
viên trong gia đình là cha mẹ, vợ chồng, con cháu có niềm tin Tam Bảo và sống theo
Chánh pháp. Điều này tưởng chừng đơn giản nhưng thực sự không dễ dàng, nhất là
trong bối cảnh khuynh hướng thực dụng, xem nhẹ đạo đức và lãng quên nguồn cội
đang ngày một gia tăng trong giới trẻ hiện nay. Vì thế, sứ mạng hoằng pháp
trong gia đình của người cư sĩ tức Phật hoá gia đình càng trở nên cấp thiết và
có ý nghĩa rất quan trọng.
Ngoài
việc Phật hoá gia đình, mở rộng ra các mối quan hệ trong đời sống và công việc
thường nhật, người cư sĩ có thể nỗ lực giáo hoá bà con, bè bạn và đồng nghiệp bằng
chính sự am tường Phật pháp cùng với tư cách, uy tín của người Phật tử. Vì đây
là môi trường xã hội, do đó người cư sĩ muốn hoằng pháp thành công phải thực sự
có bản lĩnh và kinh nghiệm, nhất là sự kiện toàn về tri thức và đạo đức. Có khá
nhiều người “biết” Phật, đến chùa nhờ nhân duyên đầu tiên là tập học theo bạn
bè hoặc qua những sách, báo chí, băng giảng mà bạn bè giới thiệu. Chính lối sống
lương thiện, minh triết đầy đủ chất liệu trí tuệ, từ bi cùng với nỗ lực giới
thiệu kinh điển, sách báo Phật giáo, người cư sĩ có khả năng cảm hoá người khác
tìm đến Phật pháp.
Đối với đội ngũ cư sĩ tri thức
thì sự hoằng pháp của họ càng sâu rộng và đa dạng hơn, đặc biệt là phương diện
nghệ thuật, văn hoá và giáo dục. Giới thiệu Phật pháp đến với mọi người thông
qua nghệ thuật như hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc là công lao to lớn của những nghệ
sĩ Phật tử. Bên cạnh nghệ thuật, những công trình nghiên cứu văn hoá, lịch sử,
các sáng tác văn học Phật giáo của những Phật tử trí thức đã góp phần rất lớn
trong công cuộc xiển dương Phật pháp. Trong lãnh vực giáo dục, có khá nhiều cư
sĩ tham gia giảng dạy Phật học trong các khoá huấn luyện Phật tử, chủ trì những
cuộc thảo luận Phật pháp tại những đạo tràng, đặc biệt có một số cư sĩ học giả
rất uyên thâm Phật học hiện đang giảng dạy cho Tăng Ni ở một số trường Phật học.
Những đại biểu cư sĩ trí thức đã góp phần
vào sự nghiệp giáo dục và hoằng pháp tại Việt Nam trong thời cận đại như Bác sĩ
Lê Đình Thám (người Quảng Nam), Đoàn Trung Cồn, Cao Hữu Đính, Trịnh Công Sơn .v.v…
Về kinh nghiệm tu chứng, một
cư sĩ nếu thành công về phương diện này thực là một vinh hạnh cho Phật giáo nước
nhà. Sự xuất hiện của các thiền sư cư sĩ như
vua Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng sĩ,
đã góp phần làm cho Phật giáo thời Trần hưng thịnh một thời. Hiện nay,
có khá nhiều cư sĩ niệm Phật biết trước được
ngày giờ và chủ động vãng sanh hoặc
lưu xá lợi, tuy không tham gia vào ngành hoằng pháp nhưng sự vãng sanh của
họ là một minh chứng hùng hồn về giác ngộ và giải thoát, xây dựng niềm tin Tam
Bảo cho rất nhiều người.
Tóm lại, năng lực hoằng pháp của người cư sĩ rất
phong phú và đa dạng, tuỳ vào khả năng và hoàn cảnh của mỗi người mà có sự đóng
góp khác nhau. Nhưng quan trọng nhất vẫn là những bài thuyết pháp sinh động từ thực tiễn cuộc sống của người Phật
tử./.
Trích Phật pháp Bách vấn tập II
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét