TỨ Y
Hỏi : Xin cho biết xuất
xứ của Tứ y cùng ý nghĩa và phương thức ứng dụng giáo lý này trong sự tu tập.
Đáp : Giáo lý Tứ y, gọi
đầy đủ là Tứ y và Tứ bất y, tức bốn đều nên
và không nên y cứ, nương tựa. Đây là pháp phương tiện thù thắng theo
quan điểm Phật giáo Bắc truyền, với mục đích giúp người tu quyết trạch rõ biết
pháp nào nên hoặc không nên nương tựa, nhằm thành tựu giải thoát, giác ngộ.
Tứ y bao gồm: Y pháp bất y
nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa bất y liễu nghĩa kinh.
Các kinh luận Hán tạng đề cập đến Tứ y gồm: Đại Niết Bàn kinh; Đại Phương Đẳng
Đại Tập kinh; Đại Phương Tiện Phật Báo Ân kinh ; Đại Trí Độ luận v.v…
Y pháp bất y nhân, nghĩa đen
là y theo giáo pháp, chẳng y theo người. Theo giải thích thông thường, Phật
pháp là chân lý, quý giá và khó gặp, vì thế không nên đối chiếu, tỵ hiềm nơi tư
cách người nói pháp để rồi bỏ lỡ cơ hội nghe pháp, tự thân mất sự lợi lạc. Cứ y
theo giáo pháp của Phật mà tu hành, người nói ra giáo pháp ấy tốt hay xấu không
quan trọng. Tuy nhiên, Kinh Đại Niết Bàn, nói cụ thể hơn về vấn đề này, y pháp
bất y nhân có nghĩa là y chỉ vào Pháp tánh tức Phật tánh, Như Lai vì pháp tánh
thường trụ, không y chỉ vào người (nhân) vì là hữu vi tức vô thường, sanh diệt.
Y nghĩa bất y ngữ, tạm dịch
là y theo nghĩa lý, không y theo ngôn ngữ văn tự. Phật thuyết pháp với ý nghĩa
sâu xa nhằm biểu đạt và thể nhập chân lý. Ngôn ngữ, văn tự chỉ là công cụ diễn
đạt Trung đạo đệ nhất nghĩa, giúp người tu nhận ra chân lý để hành trì và thân
chứng, bởi thế không nên bám víu và quá cố chấp vào văn tự, vì “ngôn dĩ tải đạo”
mà thôi.
Y trí bất y thức, nghĩa là y
theo trí tuệ, không y theo vọng thức phân biệt. Chỉ có trí tuệ mới nhận chân được
chân lý, thực tại còn vọng thức là thấy biết theo nghiệp, có tính tương đối và
đa phần sai lầm. Chỉ có trí tuệ mới đầy đủ công năng quét sạch phiền não, thanh
tịnh ba nghiệp. Còn thức dẫu thông minh, nhạy bén và lanh lợi đến đâu đi nữa
cũng là sanh diệt, hư vọng và không đủ sức giác quán để chuyển hoá, diệt trừ
phiền não. Vì vậy, “duy tuệ thị nghiệp” chính là phương châm tu học của hàng đệ
tử Phật.
Y liễu nghĩa kinh bất y bất
liễu nghĩa kinh có nghĩa là y theo kinh điển liễu nghĩa, chẳng y theo các kinh
điển không liễu nghĩa. Theo quan niệm của Phật giáo Bắc truyền, kinh điển được
Phật tuyên thuyết tuỳ căn cơ chúng sanh nên có cao thấp, khác biệt. Dù mục tiêu
cứu cánh vẫn là giải thoát sanh tử, song trên tinh thần phương tiện thì kinh điển thuyết minh về con
đường thể nhập Nhân thừa, Thiên thừa .v.v..được gọi là kinh bất liễu nghĩa (chưa
nói hết ý nghĩa thâm diệu, toàn triệt của giáo pháp). Những kinh điển chỉ thẳng
đến quả vị giải thoát viên mãn (Phật quả) là kinh liễu nghĩa. Người tu hướng về
Vô thượng Bồ đề, tất nhiên phải y cứ vào kinh điển liễu nghĩa để hành trì nhằm
thành tựu giác ngộ rốt ráo, thành Phật.
Việc ứng dụng Tứ y vào trong
thực tiễn tu tập cực kỳ quan trọng. Chính giáo lý Tứ y đã vạch ra những yếu tố
quan trọng cần phải nương tựa, y theo và những vấn đề không nên y cứ, nhằm vượt
qua hết thảy chướng ngại để thành tựu Phật quả. Mặt khác, giáo lý Tứ y là một
phương tiện thù thắng giúp cho người tu vận dụng giáo pháp một cách thông minh,
linh động và nhuần nhuyễn đồng thời khai thác hết tinh tuý, đặc sắc của giáo lý
để ứng dụng tu tập. Giáo lý Tứ y cũng chỉ là một phương tiện trong vô vàn
phương tiện khác của giáo pháp, vì thế khi ứng dụng giáo lý Tứ y cần sự linh hoạt,
nhất là cần phải hiểu một cách chính xác (y nghĩa bất y ngữ) vì “y kinh giải
nghĩa tam thế Phật oan”./.
Trích Phật pháp Bách
vấn tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét