NIỆM PHẬT
Hỏi: Đã từ lâu, tôi phát tâm tu tập pháp môn Niệm
Phật, niệm danh hiệu Nam mô A Di Đà, cầu vãng sanh Tịnh độ. Tôi cảm nhận được sự
an ổn thân tâm và dần thiết lập được niềm tin vững chắc vào pháp môn. Gần đây,
một người bạn cho tôi mượn 2 bộ dĩa VCD, “Tiến trình niệm Phật” và “Đất” của thầy
Chơn Quang. Xem xong 4 đĩa VCD này, tôi thật bàng hoàng vì những lời giảng vô
cùng lạ lẫm, đơn cử như “Niệm Phật đừng nguyện thành Phật mà nguyện thành đất…”
(VCD-Đất) hay “Niệm Phật thành đất, chắc gì được vãng sanh mà nguyện…” (VCD- Tiến
trình niệm Phật). Vậy, xin cho biết quan điểm của đạo Phật về pháp môn Niệm Phật
mà tôi đang trì để giữ vững niềm tin trong quá trình tu tập.
Đáp: Niệm danh hiệu Phật A Di Đà, cầu vãng sanh Tịnh
độ là pháp tu phổ biến của các hành giả Tịnh độ tông. Tịnh Độ tông là một trong những
tông phái lớn của Phật giáo Bắc truyền,
có kinh luận y cứ rõ ràng, được chư vị Tổ sư thế thứ truyền thừa, rất nhiều
hành giả niệm Phật được vãng sanh (Tứ chúng vãng sanh truyện). Đặc biệt, Tịnh độ
tông có lượng tín đồ đông đảo, nhất là ở các nước Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật
Bản và Việt Nam. Vì vậy, thật xác đáng khi nhận xét “Ở các xứ Bắc tông Phật
giáo, những người xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà chiếm phần tối đa” (Thích
Thiền Tâm, Niệm Phật Thập Yếu).
Khởi nguyên, giáo nghĩa Tịnh
Độ được hình thành và phát triển ở Ấn Độ, là một đường lối tu tập nhưng chưa
hình thành tông phái. Khi Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Quốc (cuối thế kỷ thứ
I), khoảng thế kỷ thứ III, giáo nghĩa Tịnh Độ mới xuất hiện và đến thế kỷ thứ
VI thì giáo nghĩa Tịnh Độ tông xem như hoàn chỉnh. Ngoài ra ba bộ kinh nền tảng
là kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ còn có Vãng sanh Tịnh
độ luận (Thế Thân) và rất nhiều kinh điển Đại thừa ca ngợi tư tưởng Tịnh độ như
Hoa Nghiêm, Phương Đẳng, Bửu Tích…
Khai sáng Tịnh Độ tông Trung
Quốc là Sơ tổ Huệ Viễn (333-416). Ngài thành lập Bạch Liên xã, tổ chức tu tập
niệm hồng danh Phật A Di Đà tại chùa Đông Lâm ở Lô Sơn. Sau đó, Liên tông chư Tổ
thế thứ truyền thừa đến Ấn Quang đại sư (1862-1940), Tổ thứ 13. Tại Việt Nam,
giáo nghĩa Tịnh Độ được truyền vào rất sớm, “sự có mặt của giáo lý Tịnh Độ ở Việt
Nam được đánh dấu chậm lắm là vào khoảng giữa thế kỷ thứ 11” (Nguyễn Lang, Việt
Nam Phật giáo sử luận). Theo Thiền uyển tập anh, năm 1141 chùa Quỳnh Lâm đã tạc
tượngPhật Di Đà. Đời Trần, Trần Thái Tông (1218-1277) đã chủ trương tu tập niệm
Phật (Khoá hư lục). Đến Trần Nhân Tông (1258-1308) đã xác định rõ, “Phật tử nước
ta thời ấy, niệm Phật là niệm Đức Phật A Di Đà” (Lê Mạnh Thát, Toàn tập Trần
Thái Tông).
Đường lối tu tập của Tịnh Độ
tông dựa trên ba nguyên tắc Tín-Nguyện-Hạnh. Tín thâm, nguyện thiết và hạnh
chuyên là cơ sở vững chắc để thành tựu vãng sanh. Có nhiều phương thức niệm Phật
nhưng trì danh niệm Phật rất thích hợp với quần chúng, số đông. Vãng sanh Cực Lạc
là kết quả của những hành giả tu tập niệm
Phật đạt đến nhất tâm. Dù quả vị trong chín phẩm có cao thấp, thượng hạ song được
vãng sanh về Tịnh độ chắc chắn sẽ “bất thối”, không còn đoạ lạc, theo thời gian
sẽ đến ngày chứng quả Vô sanh. Mặt khác,
theo kinh Vô Lượng Thọ, với 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, thì ngoài tự lực
còn có tha lực nên niệm Phật trở thành pháp môn “dễ tu, dễ chứng”. Do vậy, Tịnh
độ tông truyền bá rất rộng rãi, được nhiều người hưởng ứng, tu tập.
Như vậy, niệm Phật A Di Đà,
cầu vãng sanh Tịnh độ là pháp môn tu tập chính thống của Phật giáo, không một
ai có thể bài bác, đả kích hoặc phủ nhận. Thiền sư Thiên Như khẳng định “Đời mạt
pháp về sau, bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh. Nếu ai không tin, tất sẽ
bị đoạ địa ngục” (Thiên Như ký ngữ- Thích Thiền Tâm). Những ai có duyên với
pháp môn Niệm Phật thì hãy giữ vững niềm tin vào Chánh pháp, nỗ lực và tinh tấn
hơn nữa để niệm Phật đạt đến nhất tâm.
Trở lại vấn đề 2 bộ đĩa VCD,
“ Tiến trình niệm Phật” và “Đất” của thầy Chơn Quang, theo chúng tôi, trong
thuyết pháp có vấn đề đối cơ, tức tuỳ căn cơ của hội chúng mà nói pháp. Bạn
nghe xong 2 bộ VCD ấy cảm thấy “bàng
hoàng vì những lời giảng vô cùng lạ lẫm” có thể do bạn không phải là người
đương cơ để cảm nhận những vấn đề thuộc “ý tại ngôn ngoại”!? Đã xác định
mình không phải đối tượng của “pháp thoại” ấy thì hãy xem như “gió theo
gió, mây đường mây”, do đó bạn cứ an tâm tu tập với pháp môn của mình./.
Trích Phật pháp Bách vấn tập II.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét