CÁC HÌNH THỨC CHIẾN TRANH
Chiến tranh bao giờ cũng
đem lại thiệt hại cho cả hai bên, thế nhưng con người từ xưa đến nay không ngừng
đấu tranh. Chiến tranh là một sự thiệt hại, không những thiệt hại mà còn thảm hại
về lâu về dài, đưa đến đất nước đói nghèo, nhân dân đau khổ, lạc hậu nhưng con người không ngừng chấm dứt
chiến tranh. Nói đến chiến tranh càng ngày càng tinh vi khốc liệt. Sau đây
chúng ta thử liệt kê các loại hình thức chiến tranh từ xưa đến nay như:
1/ Chiến tranh sắc tộc:
Sắc tộc này đánh với sắc tộc kia, bộ tộc này đánh với bộ tộc kia, thời xưa cùng
như thời nay.
2/ Chiến tranh tôn giáo:
Tôn giáo này đánh với tôn giáo kia, như Hồi giáo, Do Thái giáo, Công giáo, Tin
lành giáo, các tôn giáo này hay gây chiến tranh với nhau.
3/ Chiến tranh bằng vũ khí: Như bom đạn, cung tên …khi đấu tranh nhau họ
dùng binh khí, cung tên, bom đạn để tiêu diệt nhau v.v…
4/ Chiến tranh hoá học:
Họ không dùng vũ khí mà dùng chất hoá học để tiêu diệt nhau: Như chất độc màu
da cam.
5/ Chiến tranh sinh học:
Từ chiến tranh hoá học họ chế ra thứ vũ khí sinh học, Như virus sinh học. Thảm
hại nhất năm 2019 dịch Cô vit đã lấy đi hàng triệu sinh mạng con người trên
toàn thế giới. Không những tổn hại sinh mạng mà còn kéo theo kinh tế khủng hoảng
toàn cầu cả mấy năm liền.
6/ Chiến tranh biên giới:
Tức đánh chiếm với nhau những vùng đất giáp biên, nước nào có sức mạnh, có uy
thế thường hay đánh chiếm các vùng biên giới nước nhỏ. Như Trung Quốc với Việt
Nam năm 1979. Ấn Độ với Trung Quốc v.v..
Biên giới có hai loại: Biên giới cứng và biên
giới mềm, biên giới cứng là biên giới đường bộ , đường sông, đường biển, hải đảo
gọi là biên giới cứng dễ giữ dễ thấy.
Còn biên giới mềm là: Hàng hoá và Văn hoá, là loại biên giới mềm, hàng hoá đi đến đâu là
biên giới nước đó đi đến đó, văn hoá đến đâu biên giới đi đến đó. Hàng hoá nước ngoài đến làm cho hàng hoá nội
địa tê liệt không sản xuất được. Ví dụ một món đồ nội địa bán ra 10 đồng, hàng
hoá ngoại nhập bán ra 4 đồng, người mua bao giờ cũng chọn hàng giá rẻ, thế là
hàng nội địa phải dẹp nghề. Ví như chiếc xe Honda của Nhật bán giá 35 triệu một
chiếc, xe Trung Quốc họ bán 5 triệu một chiếc, mặc dù xe Nhật chất lượng hơn,
nhưng túi tiền của người mua phần đông có hạn, không mua nổi xe của Nhật, họ chọn
mua xe Trung Quốc tiện hơn. Hàng hoá và văn hoá cũng là một loại chiến tranh, một
loại biên giới mềm. Rất khó giữ .
Ví như Anh độ hộ Ấn Độ thời gian khiến cho
dân Ấn Độ nói tiếng Anh rất rành, nhiều người quên tiếng bản địa mà nói toàn tiếng
nước ngoài, đó là loại biên giới văn hoá mềm.
Các nước Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc v.v. họ
dùng văn hoá nước họ phát huy ra các nước, nếu các nước không biết tiếng và chữ viết của nước họ thì không biết dùng
hàng hoá của họ và không thể giao lưu với họ. Vì thế vô hình trung Văn hoá là một
loại biên giới mềm.
7/ Chiến
tranh tư tưởng: Tư tưởng chủ nghĩa Cộng
sản đấu tranh với tư tưởng Tư bản. Việt Nam nội chiến 30 năm giữa tư tưởng Tư bản
và tư tưởng Cộng sản. Chỉ vì khác tư tưởng mà phải đánh nhau 30 năm, cha giết
con, anh giết em, thù hận nhau, trải qua hơn 50 năm mà hận thù vẫn còn. Chúng
ta thấy khác tư tưởng là một loại chiến tranh dai dẳn lâu dài nhất khó giải nhất.
8/ Chiến
tranh đảng phái: Trong một thể chế chính trị nếu có nhiều đảng thường hay tranh
chấp phe phái xảy ra chiến tranh, biểu tình tranh đấu v.v..
9/
Chiến tranh phe nhóm: Trong một xã hội, trong một thể chế chính trị, thường
có nhiều phe, nhóm. Phe nào mạnh, nhóm nào mạnh thì bao giờ phe yếu phải rút
lui. Sự tranh giành quyền lực thường hay xảy ra giữa nhóm này, phe này với nhóm
kia.
10/ Chiến tranh nguồn tài nguyên: Nước nào có nhiều nguồn tài nguyên thường bị
các nước mạnh đánh chiếm. Việt Nam là nước có nhiều tài nguyên nên bị các nước
như Trung Quốc, Pháp, Mỹ luôn dòm ngó đe doạ.
11/ Chiến tranh địa thế: Nước nào có địa thế
thuận lợi giao thương quốc tế, hay tài nguyên thường bị các nước có thế lực lấn
chiếm. Việt Nam có địa thế trung tâm châu Á, về đường biển cũng như đường hàng
không nên thường bị các nước Trung Quốc,
Pháp, Mỹ liên tục đe doạ.
12/ Chiến tranh ma tuý: Ma tuý là loại làm
cho giới thanh niên truỵ lạc hư đốn, bỏ công ăn việc làm mà còn phá hoại sự
nghiệp gia đình. Người ta muốn chiếm nước khác không bằng vũ khí, họ dùng cờ bạc,
ma tuý dụ dỗ thành phần lao động chính bị mê hoặc, nghiện ngập khiến cho nền
kinh tế nước đó suy sụp họ dễ thao túng v.v…
13/ Chiến tranh công nghệ:
Chiến tranh công nghệ hiện nay không chỉ là
khái niệm quân sự thuần túy, mà là một dạng xung đột toàn diện trong kỷ nguyên
số, nơi công nghệ trở thành vũ khí, lá chắn, và cả môi trường chiến trường. Nó
diễn ra âm thầm nhưng có tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế, an ninh và
xã hội toàn cầu.
1. Bản chất của chiến tranh công nghệ:
• Không gian chiến trường mở rộng: Từ đất,
biển, không trung, vũ trụ cho đến không gian mạng (cyberspace).
- Vũ khí mới: Không chỉ là súng đạn, tên lửa,
mà còn là AI, dữ liệu lớn, điện toán lượng tử, vũ khí siêu thanh, drone, vệ
tinh, virus máy tính.
- Tính chất vô hình: Nhiều cuộc tấn công không
để lại dấu vết rõ ràng, gây khó khăn cho việc quy trách nhiệm (ví dụ: tấn công
mạng).
• Kết hợp quân sự – kinh tế – chính trị: Công
nghệ được dùng để giành ưu thế chiến lược, vừa trên chiến trường, vừa trong thương
mại và ngoại giao.
2. Các dạng chiến tranh công nghệ hiện nay:
a.
Chiến tranh mạng (Cyber warfare)
• Tấn công hạ tầng quan trọng (điện, nước,
ngân hàng, hệ thống phòng không).
• Đánh cắp dữ liệu mật, bí mật quốc phòng, bí
mật công nghệ.
• Gây nhiễu loạn dư luận bằng tin giả
(disinformation, deepfake).
b. Chiến tranh trí tuệ nhân tạo (AI warfare)
• Drone tự động, robot chiến đấu, hệ thống ra
quyết định quân sự bằng AI.
• AI dùng trong phân tích tình báo, giám sát
vệ tinh, dự đoán hành vi đối thủ.
- Rủi ro: vũ khí tự động có thể vượt ngoài
kiểm soát con người.
c. Chiến tranh không gian (Space warfare)
• Cạnh tranh hệ thống vệ tinh (GPS, Beidou,
GLONASS, Galileo).
• Vũ khí chống vệ tinh (ASAT) có thể làm tê
liệt liên lạc và định vị toàn cầu.
• Nguy cơ “chiến trường vũ trụ” ngày càng rõ
rệt.
d. Chiến tranh kinh tế – công nghệ
(Techno-economic warfare)
• Các nước dùng cấm vận công nghệ, kiểm soát
chip, AI, 5G, bán dẫn để kiềm chế đối thủ.
• Cuộc đối đầu Mỹ – Trung trong lĩnh vực bán
dẫn, AI, và viễn thông (Huawei, TSMC, NVIDIA…).
• Công nghệ trở thành “vũ khí mềm” nhưng tác
động kinh tế khổng lồ.
3. Hệ quả toàn cầu
• Mất cân bằng quyền lực: Quốc gia đi sau về
công nghệ dễ bị phụ thuộc, thậm chí bị khống chế.
• Gia tăng bất ổn: Một cuộc tấn công mạng có
thể gây khủng hoảng kinh tế, chính trị lớn mà không cần nổ súng.
• Cuộc
chạy đua vũ trang mới: Thay vì bom nguyên tử, giờ là AI, chip, năng lượng lượng
tử, siêu máy tính.
• Nguy cơ phi nhân tính: Khi máy móc thay thế
con người trong việc “quyết định sống chết”, đạo đức chiến tranh trở nên mờ
nhạt.
4. Tương lai của chiến tranh công nghệ
• AI + Lượng tử + Sinh học sẽ hợp nhất, tạo ra
vũ khí thế hệ mới.
• Xung đột phi đối xứng: Các nhóm nhỏ hoặc
quốc gia yếu hơn vẫn có thể đánh bại đối thủ mạnh thông qua công nghệ (ví dụ:
tấn công mạng).
• Quản trị toàn cầu: Cần khung pháp lý quốc tế
về vũ khí AI, chiến tranh mạng, vũ khí vũ trụ, nhưng hiện vẫn chưa thống nhất.
• Chiến tranh lạnh công nghệ giữa các cường
quốc (Mỹ – Trung – Nga – EU) sẽ định hình trật tự thế giới trong vài thập kỷ
tới.
Như vậy, chiến tranh công nghệ hiện nay là
“chiến tranh của trí tuệ và dữ liệu”, nơi thông tin và công nghệ quyết định
thắng bại hơn là số lượng quân hay vũ khí truyền thống.
Còn rất nhiều hình thức chiến tranh, nhưng liệt
kê ra để chúng ta thấy con người luôn sống trong sự bất an và bất ổn bất cứ lúc
nào và ở đâu. Vì thế trong kinh Phật nói Tam giới do như hoả trạch. Con người sống
trên thế giới này như đang sống trong nhà lửa, không biết nó đốt lúc nào. Tất cả
chiến tranh đều do lòng tham, sân, si của con người tạo ra chứ không phải trời
hành hay đất phạt. Thế mà con người mãi chịu khổ với nhau không bao giờ chấm dứt,
chiến tranh càng ngày càng tăng, càng nhiều và càng khốc. Phần đông các nước
không tiếp cận được giáo lý của Phật đà.
Nước Butan từ ngàn năm trở về đây là nước
không có chiến tranh, loạn lạc, bệnh tật vì nước họ lấy lời Phật dạy làm cách sống
hành ngày, lấy giới luật Phật dạy làm pháp luật cho quốc gia. Trẻ con vừa lớn
lên đi học thì cho học lời Phật dạy ngay từ còn bé. Butan là nước điển hình ứng dụng lời Phật dạy,
được bình chọn là nước hạnh phúc nhất trên thế giới. Hạnh phúc không phải kinh
tế đạt mức cao, công nghệ cao v.v.. mà hạnh phúc được đánh giá là sự bình an
trong tâm hồn và sức khoẻ không bịnh tật. Butan là nước cần phải học hỏi và thực
tập để mỗi người, mỗi nước thật sự có hạnh phúc, có bình yên, có an lạc./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét