Ý NGHĨA GIÁO DỤC QUA PHÁP HÀNH TỰ TỨ
Pháp Tự tứ là một
pháp hành độc đáo trong đạo Phật dành cho chư Tăng Ni xuất gia và truyền thống
này được duy trì từ thời Phật còn tại thế cho đến ngày nay. Pháp Tự tứ được thực
hiện định kỳ theo luật mỗi năm một lần vào cuối mùa an cư kiết hạ. Khi ba tháng
an cư tu tập hoàn mãn, chư đệ tử xuất gia của Phật tập trung tại một giới trường
để cùng nhau làm lễ Tự tứ. Tự tứ nghĩa là thỉnh cầu người khác chỉ lỗi của mình
ra, để cho mình biết mà sám hối cho sạch lỗi lầm, trả lại sự thanh tịnh vốn có
cho tâm. Trong phần nội dung của buổi lễ Tự tứ, với tinh thần cầu tiến, mỗi cá
nhân cần phải khẩn thiết thỉnh cầu chư tôn đức và toàn thể đại chúng, qua ba
phương diện thấy, nghe và nghi, hoan hỷ chỉ bảo cho mình biết thêm được những
sơ sót, sai lầm, tội lỗi đã phạm mà bản thân không tự biết. Người Tự tứ, đối
chiếu những lời chư tôn đức nhận xét về mình với giới luật mình đã thọ trì, nếu
có tội, thành khẩn sám hối những lỗi lầm đã phạm và hứa nỗ lực chuyển hóa. Lễ Tự
tứ là cái mốc để sau khi tự tứ xong, chư Tăng hoàn toàn thanh tịnh, sạch lỗi lầm
và được tính thêm một tuổi đạo. Đây là một ngày đặc biệt, đáng nhớ cho mỗi người
đệ tử xuất gia. Vì lẽ đó, ngày Tự tứ còn gọi là ngày thọ tuế, ngày sinh nhật
trong Đạo vậy.
Pháp Tự tứ chứa đựng
nhiều ý nghĩa tốt đẹp, giàu giá trị giáo dục và nhân văn. Từ nghĩa phổ biến nhất
của giáo dục là truyền trao kiến thức đến nghĩa tận cùng của khái niệm này là
quá trình chuyển hóa theo hướng tích cực thông qua con đường tự giáo dục, pháp
Tự tứ thể hiện trọn vẹn tinh thần giáo dục như vậy. Trong quá trình giao lưu và
trao đổi này người học (ở đây là người Tự
tứ) đóng vai trò chủ đạo, còn các yếu tố khác chỉ góp phần hỗ trợ, như tạo
nên môi trường tốt nhất, điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình tự chuyển hóa ấy
diễn ra một cách hiệu quả nhất. Chúng ta thử tiếp cận giá trị giáo dục của pháp
Tự tứ qua các phương diện sau:
Pháp Từ tứ thể
hiện một thái độ khiêm cung, chân thành.
Điểm cốt yếu trong
ngày lễ Tự tứ là thỉnh cầu người khác xét lỗi giúp mình. Khi thực hành pháp
này, Tỳ kheo thỉnh cầu giữa Tăng chúng, xin chư Tôn giả đồng tu chỉ cho mình những
điều sai lệch với giới luật về ba phương diện: thấy, nghe và nghi. Luật dạy mỗi
Tỳ kheo khi thực hiện pháp Tự tứ đều thỉnh cầu rằng: “Bạch các Ngài, con xin thỉnh cầu
hội chúng, do đã được thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ, vì lòng
thương xót, xin các ngài hãy chỉ bảo con. Nếu con thấy có tội sẽ như pháp sám hối
”. Lời tác bạch này được lặp lại ba lần như vậy. (Tứ phần luật, phần 3 chương 4: Tự tứ). Điều này thể hiện thái độ
khiêm cung, chân thành hết mực của người Tự tứ.
Bởi lẽ, tâm lý thường tình của con người là muốn mình được
đánh giá cao hơn những gì mình đang là, muốn hình ảnh của mình hoàn hảo hơn,
lung linh hơn trong mắt người khác, nhưng không chịu nỗ lực sửa đổi cho hoàn
thiện. Do vậy, ai cũng tìm cách tránh né, che giấu khuyết điểm, phủ nhận lỗi lầm
mình đã gây tạo như là một cách để tự vệ, che chắn và bảo vệ cái ngã của mình
không bị thương tổn. Không ai muốn người khác biết lỗi lầm của mình cả. Với cái
tâm lý đó, lẽ dĩ nhiên, khi phạm lỗi, thường người ta cố giấu lỗi cho đến khi
nào không còn giấu được nữa mới chấp nhận. Như vậy, ta hiểu rằng việc tự giác,
hết lòng bày tỏ tội lỗi của mình, công khai chấp nhận mình có lỗi là một việc
khó. Việc tha thiết và trân trọng thỉnh cầu người khác chỉ lỗi cho mình càng
khó hơn; và chân thành thỉnh cầu nhiều người chỉ lỗi cho mình trước tập thể, mà
tha thiết thỉnh cầu đến ba lần, là cả một vấn đề muôn phần khó hơn. Chỉ những
ai trọn đời quy hướng về con đường thiện lành, có thái độ sống khiêm cung hết mực
với chính mình mới có đủ bản lĩnh để làm việc này.
Người nào thật tâm
hành pháp Tự tứ là người có thái độ sống khiêm cung và chân thành rất đáng để
chúng ta trân trọng và học hỏi. Đây là cách để dần hoàn thiện mình một cách hiệu
quả và thiết thực nhất.
Pháp Tự tứ thể
hiện tinh thần dân chủ
Pháp Tự tứ được thực hành từ khi Đức Phật còn
tại thế và được áp dụng cho tất cả thành viên trong Tăng đoàn, kể cả Đức Phật.
Ngài thực hành pháp Tự tứ đúng theo luật Ngài chế định thông qua cách giáo dục
nghiêm túc không thiên vị một ai. Trong lễ Tự tứ, ai cũng có quyền chỉ lỗi, góp
ý trên tinh thần dân chủ. Như tất cả các vị xuất gia khác trong Tăng chúng, Đức
Phật tôn trọng tuyệt đối giới luật, giềng mối của Tăng đoàn. Trong thời điểm Tự
tứ, Ngài xin Tăng chúng nói lên, nếu thấy Ngài có lỗi. Ngài nói: “Hãy để Ta Tự tứ. Chớ để cho thân khẩu ý Ta
có điều đáng hiềm trách ”(Tạp A Hàm –
Kinh Tương ưng bộ kinh, tập I chương
VIII , phần Tự tứ ghi lại rằng, chính Đức Phật, cũng thực hiện pháp Tự tứ
giữa tăng chúng. Ngài nói: Này các Tỳ kheo, nay Ta mời các Ông nói lên, các Ông
có điều gì chỉ trích Ta hay không, về thân hay về lời nói?).
Qua việc Tự tứ ta có thể nói mà không sợ sai rằng,
trong lịch sử nhân loại, chưa có một vị giáo chủ nào thể hiện tinh thần dân chủ
tuyệt đối như Đức Phật. Xử sự một cách dân chủ như thế này, lãnh đạo ở thế gian
hẳn cũng không có. Người toàn thiện như Đức Phật, không có chút mảy may lỗi lầm,
Ngài còn thực hành Tự tứ, công khai mời chúng Tăng chỉ lỗi. Trước thái độ này của
Đức Phật, Tôn giả Xá Lợi Phất tán thán rằng “Bạch Thế Tôn, chúng con không có chỉ trích gì Thế Tôn về thân hay về lời
nói. Bạch Thế Tôn, con đường chưa sanh khởi, Thế Tôn đã làm cho sanh khởi
con đường chưa được rõ biết, Thế Tôn làm cho rõ biết con đường chưa được thuyết
giảng, Thế Tôn thuyết giảng. Thế
Tôn là bậc biết đạo, hiểu đạo, thiện xảo
về đạo “(Kinh Tương ưng bộ kinh).
Đây là gương sáng cho hàng đệ tử bao thế hệ noi theo và sự giáo dục qua thân
giáo này có giá trị muôn đời.
Những vị thánh đệ tử,
những bậc “đã chứng đắc vô trước, dứt trừ
các lậu, phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, hữu
kết đã tận và đã đạt được thiện nghĩa, chánh trí, chánh giải thoát (Trung
A Hàm), noi gương Đức Phật, cũng làm lễ tự tứ sau mùa an cư trong tinh thần
“dạy dỗ lẫn nhau, răn dạy lẫn nhau
“(kinh Thỉnh tỉnh, Trung A hàm), dân
chủ một cách tuyệt vời như vậy.
Tinh thần dân chủ
còn thể hiện ở sự tin tưởng và tôn trọng khả năng tự phán xét, tự phê bình của
mỗi cá nhân qua câu tác bạch Tự tứ rằng: “nếu
thấy có tội, con xin như pháp sám hối”. Điều này có nghĩa là người ngoài chỉ hỗ trợ cung cấp
thêm một số thông tin về mình qua các “kênh”
thấy, nghe và nghi mà không hề có sự ép buộc hay áp đặt. Việc xác định sự việc
cụ thể như thế nào, có vi phạm giới luật hay không, phải dùng sự quán chiếu của
mình, chứ không phải người kia nói mình có lỗi là tự động mình trở thành người
có lỗi. Điều này chứng tỏ rằng, trong tinh thần dân chủ và bình đẳng, đại chúng
tôn trọng tuệ giác của mỗi người mà tin tưởng về sự quán xét khách quan và
trung thực của người tự tứ. Hơn nữa, tự rút ra kinh nghiệm từ sai lầm của chính
mình là cách học sinh động nhất và hiệu quả nhất cho mỗi cá nhân vậy.
Pháp Tự tứ thể
hiện tinh thần vô ngã:
Trong Tự tứ, dẹp
qua sĩ diện hão, không còn tự ái cá nhân, đặt tinh thần học hỏi và tiến bộ tâm
linh lên hàng đầu, tại đây, mọi tâm lý mang tính chất “cái này là của tôi, là tôi, tự ngã của tôi” có thể tự rơi rụng với
tâm chí thành của người Tự tứ tha thiết mong được làm mới chính mình. Thay vào
đó, người Tự tứ thể hiện thái độ sống vô ngã, sẵn sàng lắng nghe và tiếp thu ý
kiến, nhận xét, đánh giá về mình của các bậc thầy và pháp hữu sau thời gian
chung sống trong ba tháng an cư. Không có sự ngăn ngại bỉ thử, ta người gì ở
đây cả. Người Tự tứ chân thành trình lỗi, xin người khác chỉ lỗi, chân thành tự
xét lại mình để được thanh tịnh sạch hết lỗi lầm.
Với quan điểm chỉ có hành động chưa đúng, chứ không có người
sai, chỉ có lỗi lầm, không có người lỗi lầm, Tăng chúng không gắn nhãn mác cố định
nào vào bất kỳ một con người nào khi hiểu rằng các pháp luôn vận hành trong sự
đổi thay không ngừng của thế giới duyên sanh. Trên tinh thần này, người thọ Tự tứ
tận tâm góp ý chân tình mà người Tự tứ tiếp nhận thông tin cũng vô cùng thành
tâm hoan hỷ. Sau khi tiếp nhận những ý kiến đóng góp trong lễ Tự tứ, người ấy
quán xét lại bản thân, soi chiếu với giới luật đã thọ, sàng lọc các thông tin một
cách trung thực để thấy rõ những vụng về, thiếu sót, lỗi lầm của mình đã tạo ra
trong thời gian qua mà thành tâm ăn năn, sám hối. Với sự soi rọi của chánh kiến,
mỗi cá nhân kịp thời điều chỉnh hành vi của mình trong tinh thần hòa hiệp “như
nước với sữa” với tất cả thành viên chung sống trong Tăng đoàn. Có vô ngã mới
có cơ hội sửa mình và tiến bộ hơn và nhờ vậy, pháp Tự tứ trở thành một truyền
thống đẹp vô cùng.
Pháp Tự tứ
giúp Tăng Ni hiểu nội dung giới luật tốt hơn.
Giới và luật dành cho người xuất gia nghiêm ngặt hơn nhiều
so với giới luật dành cho người cư sĩ tại
gia, do đó, các quy điều cần được hiểu rõ ràng, tường tận, cặn kẽ thông qua sự
việc cụ thể sinh động trong cuộc sống thường ngày thì mới có thể thực hành trọn
vẹn được. Về phương diện này, Tự tứ là cơ hội để chư Tăng Ni chiếu theo giới luật
xác định những việc nào mình đã làm trong thời gian qua là lỗi lầm, những việc
nào là thanh tịnh thông qua sự phản ánh của đại chúng ở các phương diện thấy,
nghe và nghi về từng cá nhân trong quá trình chung sống. Sự thảo luận, phân
tích xem xét và đi đến kết luận từ việc mổ xẻ một vấn đề cụ thể giúp Tăng Ni hiểu
rõ hơn, nhớ kỹ hơn một nội dung giới cần giữ.
Khi một cá nhân mắc
sai lầm, nếu sự việc ấy được đem ra phân tích, thảo luận với đương sự thôi thì
chỉ có người ấy rút kinh nghiệm để tránh sai lầm tương tự như vậy về sau. Thế
nhưng, nếu đưa việc đó ra phân tích, thảo luận trước một hội chúng đông đảo các
vị đồng tu, thì sự việc ấy trở thành bài học lợi ích chung cho tất cả. Nhờ vậy,
các điều giới luật liên quan đến sự việc hằng ngày được tái xác lập và nhắc đi
nhắc lại nhiều lần như một cách khắc ghi sâu hơn trong tâm người nghe. Sự tái
khẳng định này tạo nên một hiệu ứng tích cực, gây ấn tượng và có tác dụng nhắc
nhở chư Tăng Ni hiểu các điều giới cặn kẽ và cụ thể hơn, nhớ lâu hơn và nhờ đó
sẽ giữ giới trọn vẹn hơn.
Pháp Tứ tứ thể hiện tinh thần cầu tiến để
hoàn thiện mình.
Người Tự tứ (người cầu thỉnh được chỉ lỗi) và người
thọ Tự tứ (người nhận lời cầu thỉnh và
hoan hỷ chỉ lỗi) đều được Đức Phật khen ngợi là người trí. Một bài kinh ghi
nhận lời Ngài dạy rằng “Này các Tỳ kheo,
có hai loại người trí. Thế nào là hai? Người có phạm tội là thấy có phạm tội, và người chấp nhận người
khác như pháp phát lộ tội của mình. Này các Tỳ kheo, có hai loại người có trí
này”. (Tăng chi bộ kinh). Đức Phật ngợi khen như vậy vì cả người Tự tứ và
người thọ Tự tứ đều có cơ hội nuôi dưỡng tâm mình trong các pháp lành: trân trọng
tinh thần cầu tiến của mỗi cá nhân trong Tăng đoàn.
Sự thỉnh mời và nhờ người chỉ lỗi trong Tự tứ thể hiện tinh
thần tha thiết sửa đổi để hoàn thiện mình của người xuất gia. Trong ba tháng an
cư, chư Tăng Ni đã thúc liễm thân tâm, trau giồi đạo hạnh rất miên mật rồi. Dù
đã tinh tấn nỗ lực, không ai dám chắc mình hoàn thiện không lỗi lầm và có thể tự
nhận thấy hết được việc làm của mình. Do vậy, đối với người cầu tiến, tự xét lỗi,
còn chưa đủ nên phải nhờ người khác giúp mình chỉ lỗi. Trong quá trình thực hiện
pháp Tự tứ, tinh thần cầu tiến ấy được thể hiện ở việc tác bạch Tự tứ: “Bạch Đại đức chúng Tăng, nay là ngày Tự tứ,
con Tỳ kheo…cũng Tự tứ, nếu có thấy, nghe nghi có tội cúi xin Đại đức Trưởng
lão xót thương chỉ bảo, nếu thấy có tội, con xin như pháp sám hối”.
Câu này được nói ba lần, nói rõ ràng, âm lượng vừa phải, không quá lớn, không
quá nhỏ, không quá nhanh, không quá chậm để cho vị Đại đức Trưởng lão và cả đại
chúng cùng nghe. Sự chừng mực trong cách nói và nội dung lời tác bạch nghiêm
túc, chí thiết chí thành, thưa thỉnh đến ba lần như thế này thể hiện tinh thần
mong mỏi làm mới mình, muốn hoàn thiện mình trên con đường tu tập của người Tự
tứ.
Ngay cả tư thế Tự tứ,
Đức Phật dạy “Không được ngồi tại chỗ mà
Tự tứ. Phải rời chỗ ngồi, và quỳ để Tự tứ” (Luật Tứ phần, Phần ba, Chương 4:Tự
tứ). Tư thế quỳ thể hiện tâm rất đổi cung kính đối với người đối diện, chí
thành trong việc mình làm, hết mực trân trọng với pháp Tự tứ truyền thống, chứ
không phải qua loa chiếu lệ, làm theo hình thức cho lấy có. Rồi luật cũng quy định,
người Tự tứ phải rời chỗ ngồi thể hiện sự tôn trọng và quý kính người đối diện
biết dường nào, lòng mong mỏi tha thiết được biết lỗi và sẵn sàng sửa lỗi dường
bao ! Luật quy định là những người đợi đến phiên mình Tự tứ cũng quỳ với cùng ý
nghĩa trên, nhưng sau khi Tự tứ xong, cho phép đương sự tự ý ngồi.
Sự tha thiết chí
thành của người Tự tứ thể hiện tinh thần cầu tiến đã có tác dụng đánh động tâm
thức của người thọ Tự tứ nên chư tôn đức mở lòng và chân tình chỉ dạy, góp ý để
cá nhân ấy ngày càng hoàn thiện hơn.
Pháp Tự tứ thể
hiện tinh thần hòa hợp trong Tăng đoàn.
Đức Phật dạy có bốn
loại Tự tứ: “Có bốn loại Tự tứ: Tỳ kheo Tự
tứ phi pháp biệt chúng, Tự tứ phi pháp hòa hợp, Tự tứ như pháp biệt chúng, Tự tứ
như pháp hòa hợp” (Luật tứ phần, Phần III chương IV: Tự tứ). Trong đó Ngài chỉ chấp nhận chúng Tăng Tự tứ
trong tinh thần hòa hợp gọi là “Như pháp
hòa hợp Tự tứ ”.Điều này có nghĩa là cần phải tiến hành Tự tứ đúng pháp giữa
đại chúng hòa hợp thanh tịnh. Như vậy đủ biết hòa hợp và đúng pháp là cốt tủy,
là điều kiện cần và đủ để pháp Tự tứ có hiệu lực và hiệu quả.
Nếu được thực hành
đúng theo tôn chỉ và thâm ý của Đức Phật, pháp Tự tứ là cơ hội để chư Tăng Ni
trong Tăng đoàn thể hiện sự quan tâm, gắn bó và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Lấy
giới luật làm chuẩn chung để điều chỉnh hành vi của mình theo nội quy tu viện
như vậy, mỗi một thành viên trong cùng một tổ chức tuân thủ những quy định
chung sẽ cùng chung sống hòa hợp với nhau, tạo nên sự gắn kết với nhau. Với mục
đích cùng chung sức đồng lòng xây dựng một cộng đồng thanh tịnh và hòa hợp, người
Tự tứ cầu thỉnh chư vị Tỳ kheo khác, vì lòng thương dành cho chư pháp hữu, hoan
hỷ chỉ ra những hành vi, lời nói không phù hợp với giới luật của bản thân mình
qua những gì thấy, nghe và nghi. Trong tinh thần hòa hợp, xây dựng, tương kính
và hòa thuận, với nhận xét khách quan nhất có thể, vị ấy chỉ ra những điều mà vị
ấy thấy là chưa đúng so với những gì được quy định trong giới luật. Nếu xét thấy
mình có sai phạm thì đương sự sám hối đúng như pháp. Nếu không đúng, đương sự
cũng có lời giải thích để hóa giải nghi ngờ trong Tăng chúng. Hóa giải nghi ngờ
giữa các thành viên trong Tăng đoàn qua pháp Tự tứ là cách để nuôi dưỡng tính
hòa hợp và thanh tịnh, an lạc và hạnh phúc lâu dài trong Tăng đoàn.
Ngoài ra, trong tiến
trình Tự tứ, có vị Tỳ kheo nào chưa từng phạm tội mà bản thân vị ấy không tự ý
thức được để sám hối, đại chúng không biết, hoặc quên đi mà không có ai cử tội,
xem như đã thông qua. Tuy vậy, sau khi Tự tứ, nếu ai cố tình cử tội lại thì phạm
luật. Điều này cho thấy rõ ràng lễ Tự tứ mà chư Tăng Ni thực hiện chứa đựng giá
trị nhân bản, giáo dục, giáo hóa và nhất là chú trọng đến tinh thần hòa hợp của
Tăng đoàn hơn là chỉ trích hay trừng phạt. Pháp Tự tứ giúp mỗi cá nhân không những
tự ý thức, tự giác hành trì và sống đúng luật nghi, sự tôn trọng phẩm hạnh của
mình còn đảm bảo tính hòa hợp thanh tịnh của đoàn thể Tăng già nữa.
Pháp Tự tứ thể hiện trí tuệ và từ bi.
Trí tuệ và từ bi là
nét đặc trưng của đệ tử Phật. Trong pháp Tự tứ, người được xin chỉ lỗi và người
chỉ giùm lỗi đều thể hiện trí tuệ và từ bi ấy một cách nhất quán từ trong bản
chất. Với người Tự tứ, có trí tuệ mới thấy được việc nhờ người khác giúp mình
nhận ra lỗi lầm để kịp thời sửa đổi, hoàn thiện đời sống phạm hạnh là cách học
thiết thực nhất, sinh động nhất để nuôi dưỡng giới thân huệ mạng của mình. Có
trí tuệ và từ bi mới mong mỏi mình tiến bộ, thanh tịnh để những người chung sống
không phải chịu đựng những tập khí không dễ thương của mình.
Pháp Tự tứ cũng thể
hiện trí tuệ sáng suốt cũng như lòng thương yêu trong sáng và hướng thượng của
người chỉ giùm lỗi… Trên tinh thần đó, người thọ Tự tứ đối với các pháp hữu
công tâm, khách quan và chân tình hết mực để chỉ lỗi, với mục đích giúp người ấy
ngày càng tốt hơn, chứ không hề có ý chỉ trích chê bai. Theo luật định, người
thọ Tự tứ cần có đầy đủ “5 đức Tự tứ” là: 1/
Không ái, tức là không thương yêu, thiên vị trong khi chỉ lỗi người
khác; 2/ Không nhuế, tức là không hiềm khích, oán hận gì hết; 3/ Không
bố, là không sợ, không bị áp lực gì khi thực hiện việc chỉ lỗi. Thấy pháp hữu
mình có lỗi, vì từ tâm, thương yêu muốn giúp đỡ huynh đệ mà vị ấy nói mà không
sợ người kia oán trách; 4/ Không si, là biết chính xác, rõ ràng chứ
không phải u mê, phạm biết phạm, không phạm biết không phạm; 5/ Người nào Tự
tứ rồi, người nào chưa. Tiếp đến khi cử tội (chỉ lỗi), người thọ Tự tứ cần
đủ năm pháp gọi là “5 đức cử tội” sau: 1/ Biết thời chứ không phi thời.
Trí tuệ và từ bi sẽ mở lối cho người ấy biết khi nào nên nói điều gì là cách
giúp huynh đệ mình hiệu quả nhất; 2/ Như thật chứ không hư dối. Đã nói là nói sự
thật khách quan, không phải chọn một số thông tin có chủ ý để lạc dẫn mọi người
với thông tin què quặt ấy; 3/ có lợi chứ không vô ích. Tất cả sự chỉ lỗi này nhằm
đem lại lợi ích cho người Tự tứ; 4/ Dịu dàng chứ không thô lỗ. Cách nói nhẹ
nhàng là sản phẩm được tinh chiết từ tấm lòng từ bi thật sự, có sức cảm hóa lớn
và đưa đến kết quả tốt đẹp; 5/ từ tâm chứ không sân hận. Đây là yếu tố căn bản
hàm chứa trong các yếu tố nêu trên.
Thêm vào đó, tâm từ
còn thể hiện ở việc thông cảm cho những vị Tỳ kheo bệnh duyên, chịu sự thúc
bách của bệnh mà thân thể bất an, không được khỏe mạnh, không hề dễ chịu. Với
trí tuệ và tâm từ, Đức Phật cho phép những vị Tỳ kheo bệnh này không nhất thiết
phải bỏ giày dép, quỳ đợi đến lượt mình Tự tứ hoặc trong lúc đang Tự tứ, mà có
thể trong bất cứ tư thế nào mà người ấy cảm thấy thỏa mái, dễ chịu thì cứ ở tư
thế ấy mà thọ Tự tứ.
Pháp Tự tứ thể
hiện niềm tin yêu lẫn nhau trong Tăng đoàn.
Niềm tin là sợi dây
thắt chặt mối quan hệ đầy đạo vị giữa những người đồng tu. Một khi rời bỏ gia
đình sống chung trong một đoàn thể cùng hướng đến một lý tưởng giải thoát, niềm
tin yêu lẫn nhau là dưỡng chất tâm linh nuôi lớn đời sống tâm linh mỗi cá nhân
và sưởi ấm tình cảm cao quý giữa những người đồng phạm hạnh, đồng chí hướng.
Tin yêu trong tinh thần hòa hợp là nét đặc trưng của chúng đệ tử Phật để tạo
nên một sức mạnh cộng hưởng cho Tăng đoàn. Niềm tin yêu này được thể hiện qua
nhiều phương diện trong đời sống cộng đồng và tinh thần sống tích cực này có thể
dễ dàng nhận ra qua pháp tự tứ. Vì tin tưởng rằng, bản thân mình không đủ sáng
suốt và khách quan để thấy hết lỗi lầm mình đã gây tạo nên, trong khi mình muốn
làm một người hoàn thiện hơn trên con đường tu tập phạm hạnh, nên tin tưởng tuyệt
đối vào sự chỉ lỗi cùng những lời nhận xét, đánh giá của những vị đồng tu mà
tha thiết cầu thỉnh chư tôn đức thọ tự tứ cho mình. Người thọ Tự tứ vì trân trọng
sự tin yêu của huynh đệ dành cho mình mà khách quan, công tâm và chân thành
trong quá trình chỉ lỗi. Mặt khác, người thọ Tự tứ đặt trọn niềm tin vào sự làm
mới, tinh thần cầu tiến của người Tự tứ mà dốc hết tâm để nói lên sự thật về những
điều thấy, nghe và nghi để hỗ trợ cho người Tự tứ sửa đổi hành vi và tâm ý cho
được trọn lành.
Không những vậy, Tự tứ giúp chư Tăng Ni giải tỏa
những nghi ngờ, đồng thời giải quyết những mâu thuẫn (nếu có) khi còn ở dạng tiềm
ẩn, manh nha thể hiện qua việc thấy nhưng không thật sự rõ ràng, nghe nhưng
chưa thật thấu đáo và những phân vân, nghi ngờ lẫn nhau khi thấy những biểu hiện
“có vẻ như…” của những huynh đệ cùng chung sống. Nhờ pháp Tự tứ, những điều
chưa được rõ ràng có cơ hội được giải bày cho rõ ràng. Lấy giới luật làm chuẩn,
nếu người Tự tứ có lỗi, thành tâm như pháp sám hối; nếu vị ấy không có lỗi, mọi
hiểu lầm và nghi ngờ tan đi, niềm tin yêu lại về. Điều này làm tăng thêm lòng
tin yêu lẫn nhau giữa chư huynh đệ đồng tu, để đảm bảo cho mọi thành viên chung
sống hòa hợp như nước với sữa, thương yêu nhau chân tình, hướng đến mục đích
thành tựu giải thoát.
Thay lời kết: Tự
tứ, nếu thực hành đúng pháp, là một pháp hành giàu giá trị giáo dục trong đạo
Phật. Nếu giáo dục được hiểu theo nghĩa hẹp là sự truyền trao kiến thức, Tự tứ
là quá trình như thế. Sau khi thẩm định và sàng lọc những cái sai lạc, người thọ
Tự tứ chỉ ra kiến thức cần học tập và thực hành khi liên hệ và đối chiếu với
các điều luật. Nếu giáo dục được hiểu theo nghĩa rộng hơn có liên quan đến việc
rèn luyện nhân cách, pháp Tự tứ càng thể hiện rõ nét chức năng này. Những yếu tố
cốt lõi tạo nên các giá trị đáng quý của pháp Tự tứ là sự khiêm cung, chân
thành, tôn trọng, hòa hợp, vị tha, bao dung độ lượng, công tâm và bình đẳng của
người Tự tứ cũng như của người thọ Tự tứ được nuôi dưỡng qua pháp hành Tự tứ. Nếu
thiếu đi sự chân thành, lỗi lầm không được phô bày mà giấu kín, người chỉ lỗi
cũng không sự công tâm vô tư cần thiết thì pháp Tự tứ không đem lại hiệu quả và
chẳng có ý nghĩa gì trong việc xây dựng đời sống Tăng già hòa hợp thanh tịnh. Nếu
giáo dục được hiểu theo nghĩa tận cùng là tự giáo dục, tự chuyển hóa nội tâm mỗi
cá nhân trên cơ sở tiếp thu những góp ý quý báu từ đại chúng thì pháp hành Tự tứ
mở ra cơ hội tuyệt vời để tự thân tu tập phạm hạnh tinh khiết, cùng hướng đến mục
đích cao viễn nhất của giáo dục Phật giáo là giải thoát.
Với những ý nghĩa
mang đậm chất nhân văn giàu tính giáo dục vừa trình bày ở trên, truyền thống Tự
tứ được chư huynh đệ xuất gia của Phật trân trọng gìn giữ suốt 26 thế kỷ qua. Để
có thể bảo lưu những giá trị cao đẹp này, hàng đệ tử xuất gia của Phật cần duy
trì pháp hành này đúng với tinh thần nguyên thủy của nó, đừng biến pháp Tự tứ độc
đáo của “phiên bản gốc” từ thời Đức Phật thành một thứ
nghi lễ mang tính hình thức sáo rỗng để kết thúc mùa an cư kiết hạ thì thật uổng
phí một gia tài vô giá của bậc đạo sư mà nhân danh đệ tử Ngài ta lại không được
thừa hưởng chút ít nào.
(Trích: Ý
nghĩa giáo dục qua pháp hành Tự tứ: Liên Trí – NSGN số 233 - 8
/2015)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét