PHƯƠNG THỨC TU TẬP CHỨNG ĐẮC BỐN QUẢ THÁNH
Bốn quả Thánh là Sơ
quả Tu-đà-hoàn, Nhị quả Tư-đà-hàm, Tam quả A-na-hàm và Tứ quả A-la-hán. Thành
tựu Thánh quả A-la-hán là mục tiêu tối hậu, giải thoát hoàn toàn mọi chi phối
của phiền não sanh tử, chứng đắc Niết-bàn. “Sanh đã tận, lậu đã tận, phạm hạnh
đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
Pháp hành cốt tủy để
thành tựu các quả vị Thánh là tu tập Giới-Định-Tuệ. Tu tập Giới tức giữ Giới và
Luật, thực hành các phương thức phòng hộ, trợ duyên cho thiền định. Tu tập Định
(hay thiền Chỉ) là an trú vào các đề mục để thanh lọc và tịnh hóa tâm. Định tâm
tăng tiến theo các cấp độ từ Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền cho đến Tứ thiền.
Sơ thiền là trạng
thái hỷ lạc nhờ sự xả ly (Ly sanh hỷ lạc), hành giả vượt qua rào cản của năm
triền cái (Trạo cử, Hôn trầm, Dục, Sân và Nghi).
Tăng cường định lực,
hợp nhất chủ thể và đối tượng tư duy (tuy chưa thuần), hỷ lạc sung mãn hơn,
hành giả bước vào Nhị thiền (Định sanh hỷ lạc).
Buông xả các cảm thọ
lạc do định sanh, an trụ trong tĩnh lặng, hành giả bước vào Tam thiền (Ly hỷ
diệu lạc).
Tứ thiền là trạng
thái tâm hành giả trở nên bất động, buông xả tuyệt đối, nhất như (Xả niệm thanh
tịnh).
Tu tập Tuệ (thiền
Quán) là thực hành Bát chánh đạo và Tứ niệm xứ để bước vào bốn quả Thánh. Theo
kinh Sư tử hống (Trung A-hàm, 24), từ Tứ thiền, hành giả
chuyên tâm tu tập thiền quán Vô thường, Vô ngã, đoạn trừ mười kiết sử (Thân
kiến, Nghi, Giới cấm thủ, Dục, Sân [hạ phần], Hữu ái, Vô hữu ái, Mạn, Trạo cử
và Vô minh [thượng phần]) để lần lượt chứng đắc bốn quả Thánh.
Sơ quả Tu-đà-hoàn,
còn gọi Nhập lưu hay Thất lai. Hành giả phát huy tuệ giác thiền quán quét sạch
ba kiết sử Thân kiến, Nghi và Giới cấm thủ. Bậc Sơ quả biết rõ thân và tâm vô
thường; dứt trừ hoài nghi về Tam bảo, hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng; tin tưởng tuyệt
đối vào nhân quả, trì giới, bố thí, tham thiền, không còn mê tín. Bậc Sơ quả
còn bảy lần tái sanh nữa để tiếp tục tu tập chứng đạt quả tối thượng.
Nhị quả Tư-đà-hàm,
còn gọi Nhất lai, là quả vị đã đoạn trừ ba kiết sử đầu và làm suy yếu hai kiết
sử kế tiếp là Dục và Sân. Bậc Nhị quả còn một lần tái sanh nữa để tiếp tục tu
tập chứng đạt quả tối thượng.
Tam quả A-na-hàm,
còn gọi Bất lai, là quả vị đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử (Thân kiến, Nghi,
Giới cấm thủ, Dục và Sân). Bậc Tam quả không bị tái sanh vào cõi Dục, thường
sanh vào cõi Sắc hoặc Vô sắc, từ đó tu hành và chứng đạt quả tối thượng.
Tứ quả A-la-hán, quả
vị đã đoạn trừ hoàn toàn mười kiết sử, gồm năm hạ phần kiết sử nói trên và năm
thượng phần kiết sử (Hữu ái, Vô hữu ái, Mạn, Trạo cử và Vô minh). Hữu ái tức
luyến ái sự hiện hữu, trú vào cõi Sắc. Vô hữu ái tức ưa thích sự không hiện
hữu, trú vào cõi Vô sắc. Mạn là tâm kiêu mạn, chấp thấy có sự chứng đắc. Trạo
cử, sự dấy động của tâm, kể cả sự thao thức về chứng ngộ. Vô minh là si mê, mê
mờ vì các kiết sử ngăn che. Quả vị A-la-hán còn gọi là Vô sanh, không còn tái
sanh, chấm dứt sinh tử luân hồi, chứng đắc giải thoát Niết-bàn.
Ngoài ra, còn một
con đường khác hướng đến Niết-bàn bằng cách từ Tứ thiền, hành giả tiếp tục đi
sâu vào Định, nhập vào cõi Vô sắc của Tứ không định. Từ định Vô sở hữu xứ tu
tập Tứ vô lượng tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xả), nhập Diệt thọ tưởng định trước khi vào
Niết-bàn tối hậu.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét