THIỆN CĂN, NHẤT TÂM BẤT LOẠN,
TÂM KHÔNG ĐIÊN ĐẢO
Trong kinh A Di Đà có ba đoạn: “Bất khả dĩ
thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc”
“Văn thuyết A Di Đà Phật, chấp trì danh
hiệu, nhược nhất nhật, nhược….nhược thất nhật, nhất tâm bất loạn”.
“Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức
đắc vãng sanh, A Di Đà Phật Cực Lạc quốc”
Không thể
đem chút ít thiện căn, phước đức nhân duyên, mà được sanh về cõi nước kia.
Nghe nói về
Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày…. Cho đến bảy ngày nhất
tâm bất loạn.
Người ấy khi
sắp mạng chung, Đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng hiện ra trước mắt người ấy.
Người này
khi mạng chung, tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của
Đức Phật A Di Đà.
Thiện căn
phước đức:
Thiện căn
phước đức nhân duyên: Chấp trì danh hiệu chính là “ Tâm tin nhận Di Đà cứu độ,
miệng xưng Di Đà danh hiệu, đó là thiện căn phước đức.
Nhất tâm
bất loạn
Nhất tâm
nghĩa là “không có hai tâm” không hai
chính là “chuyên”. Bất loạn tức là không
“tạp loạn”, không tạp loạn là “chuyên”
duy nhất có một môn, không 2,3 môn khác xen vào.
Như vậy “nhất tâm bất loạn” nghĩa là chuyên lại chuyên. Chấp trì danh hiệu
nhất tâm bất loạn nghĩa là niệm Phật Di Đà chuyên lại chuyên. Cho nên bất luận
người nào, chỉ cần suốt đời niệm Phật, hoặc một ngày, 2,3,4,5,6 hoặc 7 ngày cho
đến 10 niệm hoặc 1 niệm, chuyên niệm danh hiệu Phật A Di Đà, nguyện vãng sanh về
thế giới Cực Lạc, liền nhờ nguyện lực của Phật sẽ được vãng sanh rất dễ hiểu, dễ
thực hành, không có nghĩa huyền diệu nào khác.
Lâm mạng
chung thời tâm không điên đảo.
Đa số người
ta cho rằng, khi sắp mạng chung nhất định phải tự mình giữ được chánh niệm, tâm
mới không bị điên đảo, mới có thể cảm được
Đức Phật A Di Đà hiện ra trước mắt tiếp dẫn vãng sanh, mà họ không biết rằng “vì
Phật hiện ra trước rồi mình mới được chánh niệm, chứ không phải được chánh niệm
rồi Phật mới hiện. Nghĩa là Đức Phật từ bi gia hộ khiến cho tâm ta không tán loạn,
bởi vì “bình sanh chuyên trì danh hiệu Phật, khi lâm chung Phật nhất định hiện ở
trước. Vì Phật hiện ra rồi nên tự nhiên tâm được chánh niệm và không điên đảo.
Hai tầng nhân quả này trong kinh văn vốn đã phân minh.
Đạo khó
hành và đạo dễ hành:
Căn cơ của
chúng sanh có muôn ngàn sai khác, nên lộ trình tiến tu đến địa vị bất thối chuyển
cũng có rất nhiều pháp môn. Vì thế Bồ tát Long Thọ đem các pháp môn chia thành
hai, đạo khó thành và đạo dễ thành. Đạo
khó thành thì hoàn toàn dựa vào sức mình, hoặc một nữa tự lực và một nữa tha lực.
Như đi bộ thì hoàn toàn dựa vào sức của mình, và đi xe đạp, thì vừa nương sức
mình vừa dựa vào sức xe, đều thuộc về pháp khó hành, là pháp tự lực.
Còn đạo dễ hành chỉ cho pháp môn tu hành được
Phật A Di Đà cứu độ của tông Tịnh Độ, nghĩa là hoàn toàn dựa vào tha lực. Tha lực
ở đây chỉ cho sự cứu độ của Phật A Di Đà. Vì vậy, đạo dễ hành có thể nói hoàn
toàn nương vào từ lực của Phật A Di Đà, không có mảy may nào là sức của mình.
Ví như đi bằng xe, bằng tàu, đều hoàn toàn do xe, tàu chở ta đến nơi đến chốn,
ta không tốn một chút nào cả.
Từ lực của
Phật A Di Đà như một con thuyền miễn phí, hễ ai có bước lên thuyền thì được đưa
sang bờ bên kia, chẳng cần phải mua vé, mau chóng và an toàn. Thuyền đại nguyện
của Phật A Di Đà chuyên đón rước tất cả
chúng sanh trong bể khổ đưa qua bờ an vui. Chúng sanh khổ là đối tượng ưu tiên
mà Phật Di Đà hướng đến. Vì thế chúng sanh chỉ dốc lòng tin và niệm danh hiệu
Ngài thì được nhiếp vào trong bể đại nguyện của Ngài.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét