PHÓNG SANH VÀ ĂN
CHAY
Hỏi:
Nhận thấy đạo Phật có phương thức tu tập phóng sanh, nhất là vào các dịp lễ hoặc
khi cá nhân có duyên sự thì phóng sanh chim cá rất nhiều, nên không ít người
đánh bắt chim cá (đem vào chùa hoặc gần chùa) bán cho Phật tử phóng sanh. Chúng
tôi biết có một số người đã dùng thủ đoạn tàn ác nhổ bớt lông một bên cánh chim
hay cắt bớt một bên vây của cá nên phóng sanh xong rồi chim không bay xa được,
cá cũng không bơi lặn sâu được nên người ta bắt chúng lại một cách dễ dàng. Và
như thế những sinh vật ấy dù được người phóng sanh, thả về thiên nhiên mà phần
lớn vẫn không thoát chết. Do đó chúng tôi nghĩ rằng, tu tập phóng sanh không nhất
thiết phải mua con này con kia thả ra mà có thể thay thế bằng một hình thức
khác như ăn chay chẳng hạn. Có thể phát nguyện ăn chay một ngày, vài ngày hay
nhiều ngày tuỳ tâm rồi hồi hướng phước báu cho những sở cầu sở nguyện được viên
thành, điều đó sẽ thiết thực và lợi ích hơn. Chúng tôi nghĩ ăn chay tức là đã
phóng sanh rồi, nếu ta không mua chim cá phóng sanh thì họ sẽ không mang vào
chùa bán, tất chùa sẽ được trang nghiêm. Mong được chia sẻ thêm.
Đáp: Phóng sanh và ăn chay, theo chúng tôi, đây là
hai lãnh vực khác biệt nhau dù chúng có liên hệ mật thiết và hỗ trợ lẫn nhau.
Phóng sanh có nghĩa là tự mình hoặc mình cùng với người khác tìm cách phóng
thích, giải phóng cho những chúng sanh đang bị giam cầm, trói buộc; cứu giúp,
giải thoát các chúng sanh đang kề cận hiểm nguy sanh tử, vượt qua tai ách. Do vậy,
phóng sanh là một trong những biểu hiện của tu tập đại bi (bi năng bạt khổ), một
hành vi cứu khổ thiết thực, giúp chúng sanh vượt thoát hiểm nguy và hoạn nạn để
đạt đến an vui. Còn ăn chay là không ăn thịt và các thực phẩm được chế biến từ
động vật, một hình thức tôn trọng và bảo vệ sự sống của muôn loài. Tuy nhiên ăn
chay không phải là hình thức can thiệp trực tiếp để giải cứu, giải thoát cho
chúng sanh thoát khỏi tai ách như phóng sanh. Do đó, không nên xem “ăn chay tức
là đã phóng sanh rồi” mà lý tưởng nhất là đã ăn chay rồi thì nên cần phóng sanh
để trợ duyên thêm.
Chúng tôi đồng
ý với lập luận rằng tu tập phóng sanh thì “không nhất thiết phải mua con này
con kia thả ra” vì đối tượng phóng sanh rất rộng lớn, bao gồm tất cả chúng
sanh. Nên khi người Phật tử chọn mua
chim cá để phóng sanh chỉ mang ý nghĩa biểu trưng và cũng chỉ vì chim cá là những
sanh vật dễ mua để phóng sanh hơn các loài khác. Trong khi phóng sanh có ý
nghĩa cao cả nhất là hướng đến đối tượng
con người, tức nỗ lực cứu thoát con người ra khỏi oan ức, áp bức hay cứu vớt
con người thoát kiếp nô lệ, nợ nần v.v.. Trong ý nghĩa này, người con Phật và
nhân loại tiến bộ trên thế giới đang nỗ lực “phóng sanh” bằng cách đấu tranh
không ngừng với bản thân và xã hội nhằm
kiến tạo dân chủ, công bằng và văn minh.
Ngoài ra, trong cuộc sống hàng ngày, khi phát hiện các sinh vật bị mắc nạn
(từ loài nhỏ như sâu kiến cho đến loài chim, thù lớn như cá voi) thì lập tức ta
khởi từ bi tìm cách giải thoát cho chúng, đưa chúng trở về với môi trường tự
nhiên… những việc như thế là phóng sanh.
Như vậy, đối
tượng phóng sanh không chỉ là chim cá, đồng thời không cần và không nên thay đổi
phương thức tu tạo phước điền thông qua pháp phóng sanh. Tuy nhiên, đối với vấn
đề, ở một số chùa viện hiên nay đang bị một số người lợi dụng lòng từ bi bày
bán chim cá phục vụ cho phóng sanh làm mất vẻ tôn nghiêm, theo chúng tôi cần phải
tăng cường giáo dục để ngăn chặn, chuyển hoá. Đầu tiên, khi Phật tử có tâm nguyện
mua các loài vật để phóng sanh thì phải ra chợ, không nên mua cá phóng sanh được thương lái mang đến bán ngay
trong chùa hoặc gần chùa. Vì sao? Các loài vật bị đem bán ngoài chợ với mục
đích làm thực phẩm cho con người (người bán không có ý phục vụ cho việc phóng
sanh), sẽ bị giết trong nay mai nên chúng cần được phóng sanh, giải cứu. Mặt
khác, nếu nhân đi chùa lễ Phật nên gặp người bán chim cá để tiện mua phóng sanh
luôn, việc làm này không thể hiện được tâm thành và một khi tâm không thành thì
nguyện khó được như ý. Do vậy, để thể hiện tâm thành, người phóng sanh phải đi
mua, không ràng buộc bởi số lượng nhiều hay ít mà chỉ tuỳ tâm và thành tâm. Sau
đó mang đến chùa nhờ chư Tăng chú nguyện rồi phóng sanh mới đúng pháp và gặt
hái được phước báu trọn vẹn. Nhận thức được như vậy, bản thân mình không mua
chim cá phóng sanh được mang đến bán tại chùa, đồng thời luôn nhắc nhở và kêu gọi
những đạo hữu khác làm theo và quan trọng nhất là sự kiên quyết dẹp trừ cảnh
mua bán chim cá trong khuôn viên chùa của những vị trụ trì các tự viện.
Rất nhiều
chùa viện hiện nay, do sự kiên trì vận động, giáo dục của các vị trụ trì mà nạn
bán hàng rong, bán nhang đèn, bán sách bói toán,, bán chim cá phóng sanh được
giải quyết triệt để. Đành rằng chùa viện
là của chung, là nơi lui tới của bá tánh thập phương nhưng các phương diện lên
quan đến một ngôi tự viện phần lớn thuộc về trách nhiệm của vị trụ trì. Trong
Phật giáo, từ bi luôn đi liền với trí tuệ, vì thế không nên để một số người lợi
dụng lòng tốt để làm điều phi pháp, mất trang nghiêm tại chùa viện. Dung túng
cho họ buôn bán chim cá, một mặt phương hại đến mỹ quan chùa viện và mặt khác
không giúp họ chuyển hoá bất thiện nghiệp. Vì thế, chư vị trụ trì, Tăng Ni và
Phật tử cần hợp sức với chính quyền địa phương để chuyển hoá, dẹp trừ nạn bán
cá chim nơi cửa thiền nhằm trang nghiêm chùa viện./.
(Trích Phật pháp
Bách vấn tập III)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét