BỐN ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA TÔNG TỊNH ĐỘ
1/ Bản nguyện
xưng danh
2/ Phàm phu nhập báo
3/ Bình sanh
nghiệp thành
4/ Hiện sanh bất thối.
Thế nào gọi là
đặc sắc? tức là đặc biệt, chỉ có pháp môn nầy mới có, các pháp môn khác không
có. Học tập tông Tịnh Độ nếu không nắm vững các điểm đặc sắc này, thì bạn tu học
tông Tịnh Độ, cũng giống như các pháp môn khác, vì thế phải nắm điểm đặc sắc
này rất trọng yếu.
Điểm đặc sắc thứ I: Bản nguyện xưng
danh.
Tám tông
phái lớn của Phật giáo, mỗi tông đều có điểm đắc sắc của mỗi tông riêng.
- Điểm đặc sắc của Luật tông là trì giới thanh tịnh, ba
nghiệp thanh tịnh.
- Điểm đặc sắc của Thiền tông là Minh tâm kiến tánh
- Điểm đặc sắc của Mật tông là Tam mật tương ưng
- Điểm đặc sắc của Thiên thai tông là chỉ quán song vận,
nhất tâm tam quán.
- Điểm đặc sắc của Duy thức tông là chuyển thức thành
trí.
- Điểm đặc sắc của Tịnh Độ tông là Bản nguyện xưng danh.
Xưng danh là xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật là điểm đặc sắc của tông Tịnh Độ.
Vì sao nói hai chữ “Bản nguyện” và “xưng danh”
thì các tông phái đều có nói đến, họ muốn cầu sanh Tịnh Độ, nên họ cũng xưng
danh, nhưng họ giảng giải xưng danh khác với chúng ta. Xưng danh của tông Tịnh
Độ chúng ta là xưng danh của Bản nguyện. Sao gọi là xưng danh của bản nguyện. Bất
luận bạn có công phu hay không công phu, trì giới thanh tịnh hay không thanh tịnh,
có phát Bồ đề tâm hay không phát Bồ đề tâm, chỉ cần miệng bạn xưng niệm Nam mô
A Di Đà Phật, tức là thuận theo bản nguyện của Phật A Di Đà, thì chắc chắn vãng
sanh do “bản nguyện” xưng danh.
Câu nói Thiền phải được định, niệm Phật phải được
nhất tâm, mới được vãng sanh đó gọi là Thiền định xưng danh, chẳng
phải là điểm đặc sắc của tông Tịnh Độ.
Có người nói, bạn tuy niệm Phật, nhưng trì giới
không thanh tịnh, thì bạn niệm Phật cũng vô dụng. Đây gọi là trì giới xưng danh
không phải bản nguyện xưng danh.
Có người nói, tuy xưng danh mà không phát Bồ đề
tâm, thì xưng danh cũng vô dụng, đây gọi là phát Bồ đề tâm xưng danh, chưa phải
xưng danh theo bản nguyện tông Tịnh Độ.
Bản nguyện trì danh, bạn có năng lực phát Bồ đề
tâm cũng được, không phát Bồ đề tâm cũng được, mười phương chúng sanh chỉ cần
xưng danh thì được cứu.
Bản nguyện của Phật A Di Đà là muốn cứu độ mười
phương chúng sanh, đã bao quát chúng sanh trì giới, không trì giới, thiền định
hay tâm tán loạn, không phân biệt chúng sanh nào. Vì thế xưng danh của tông Tịnh
Độ là “bản nguyện xưng danh”, là chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, bất luận
công phu sâu hay cạn, tâm thanh tịnh hay không thanh tịnh, xuất gia hay tại
gia, không phân biệt thân phận nào, chỉ cần miệng xưng danh hiệu, là nương nhờ
nguyện lực của Phật thì chắc chắn được vãng sanh, đây là điểm đặc sắc của tông
Tịnh Độ.
Điểm đặc sắc thứ 2: Phàm phu nhập báo.
Các tông phái khác tiếp nhận căn cơ chủ yếu là thượng
căn, trung căn. Thí như trì giới phải thanh tịnh, phải minh tâm kiến tánh, chỉ
quán song vận, chuyển thức thành trí, tất
cả việc nầy đâu phải dễ. Các tông phái này lấy căn cơ Thánh nhân làm đối tượng
chính, chẳng phải phàm phu làm gốc.
Đặc biệt “bản nguyện xưng danh” lấy phàm phu làm gốc,
chúng ta nghiệp chướng sâu nặng, tâm ý tán loạn, ba nghiệp không thanh tịnh, chỉ
cần miệng niệm Nam mô A Di Đà Phật là được rồi, vì thế nói là “phàm phu”.
Tông Thiên Thai chia Tịnh Độ làm bốn cõi: Thường Tịch
Quang Tịnh Độ; Thật Báo Trang nghiêm Tịnh Độ; Phàm Thánh Đồng cư Tịnh Độ và
Phương tiện Hữu dư độ.
Người niệm Phật từ thân phận phàm phu nhập vào cõi
Thánh độ, không phải trải qua các tầng cấp như các pháp khác, như Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền, Tứ thiền… hay 53 địa vị tu chứng v.v… nên gọi là phàm phu nhập
báo độ. Đó là điểm đặc sắc của “bản nguyện xưng danh”, mà các pháp khác không
có. Ví dụ như gọi “A lô” vào chiếc điện
thoại thì những người ở xa họ đều biết đến chỗ mình, không cần phải vượt suối
băng đèo đến nơi mà kêu mời họ.
Điểm đặc biệt thứ 3: Bình sanh nghiệp thành.
Niệm Phật cầu vãng sanh không phải đợi đến lúc lâm
chung mới vãng sanh, mà hiện tại đã hoàn thành vãng sanh, gọi là hiện tiền vãng
sanh, còn gọi “bình sanh nghiệp thành”
nghĩa là còn đang sống mà đã thành tựu việc vãng sanh. Tức niềm tin và sự
hành trì cùng sự phát nguyện đã viên mãn, nên tuy chưa chết mà vốn luyến vãng
sanh đã đầy đủ rồi, không đợi đến lúc lâm chung mới thành. Đây gọi là nhân quả
đồng thời, niệm Phật là nhân, vãng sanh là quả, ngay trong hiện đời gọi là “bình
sanh nghiệp thành”. Ví như học sinh giỏi, suốt cả khoá học không một môn nào yếu
kém, thế thì việc chưa thi đã chắc chắn sẽ đậu rồi.
Như thân thể chúng ta hiện đang còn khoẻ mạnh mà
việc vãng sanh của ta đã chắc chắn rồi, nên gọi là “bình sanh nghiệp
thành”. Lúc gần chết, biết trước giờ chết,
thân không bịnh tật, tâm không tán loạn, ý không mê hoặc, chánh niệm phân minh
gọi là “lâm chung nghiệp thành”, nghĩa là lâm chung thành tựu vãng sanh.
Người suốt đời chưa có duyên gặp Phật pháp, không
có niệm Phật, đến lúc lâm chung, mới gặp thiện tri thức dạy cho niệm Nam mô A
Di Đà Phật, người đó tin nhận và niệm theo, người đó sẽ được vãng sanh vào hạ
phẩm hạ sanh. Người ấy niệm mười câu danh hiệu Phật, Phật đến cứu, người ấy
theo Phật A Di Đà vãng sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Đây gọi là “lâm
chung nghiệp thành”.
Điểm đặc biệc thứ 4: Hiện sanh bất thối.
Khi ta niệm Phật được Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ,
nên chúng ta được bất thối, đây là Phật lực, chẳng phải dựa vào tự lực. Nếu dựa
vào tự lực thì chúng ta dễ bị thối chuyển, dễ bị đoạ lạc.
Điểm đặc biệt của tông Tịnh Độ là chúng ta ở thế
giới Ta bà này, đem thân phàm phu đắc quả vị Bất thối chuyển, vì sao thế? Vì
như đã bước lên chiếc máy bay rồi thì không thể trở xuống. Danh hiệu A Di Đà Phật
đã nhiếp thủ chúng ta rồi, chỉ có tiến mà không có thối. Ngồi trên thuyền đại
nguyện của Phật A Di Đà, thì chỉ có tiến không có thối. Được ánh sánh của Phật
A Di Đà nhiếp thủ, chẳng rời bỏ, nên chúng ta bất thối. Đây là Phật lực, chẳng
phải dựa vào tự lực, nếu dựa vào tự lực chúng ta dễ bị thối chuyển, dễ bị đoạ lạc.
Một khi chúng ta đến thế giới Cực Lạc thì mau
thành Phật, không còn việc tu dần dần, từ từ thành Phật. Mau đầy đủ công đức,
vì thế pháp tu Tịnh Độ gọi là pháp “siêu việt” thường luân chư địa chi hạnh (tức
vượt qua hạnh của các Địa theo lệ thường), nghĩa là các lớp bình thường từ Sơ địa
đến Nhị địa, Tam địa, Tứ địa v.v….Nhưng đến thế giới Cực Lạc thì không phải trải
qua thứ lớp như thế, ví như lên lầu nhiều tầng, đi bộ phải bước từng cấp mới
lên tầng lầu trên, còn nếu đi thang máy thì không phải bước từng nấc thang như
đi bộ. Đây gọi là “siêu việt” vượt qua.
Vãng sanh thế giới Cực Lạc, chẳng cần tu tập dần dần
trải qua 50 giai vị như ở thế giới Ta bà, mà một mạch thẳng lên địa vị Bất thối
chứng quả Vô sanh, cho nên gọi là “vượt qua hạnh của các Địa lệ thường”.
Tu tập pháp môn niệm Phật khi còn ở thế giới Ta
bà, là pháp môn dễ tu, dễ hành, không có điều kiện khắt khe, không có sự gò ép,
nên ai tu cũng được, nên ít người thối tâm, pháp môn dễ tu dễ nhớ dễ hành, nên
ít người thối tâm là vậy. Còn tu các pháp lo sợ, phạm điều này, lỗi điều quy luật
kia, tạo nên tâm lý lo sợ bất an dễ thối tâm, còn pháp môn niệm Phật không quan
tâm đến nội quy giới luật, nên tâm lý không bị hạn chế, vì thế dễ an tâm tu tập.
Nói như vậy, không có nghĩa người tu Tịnh Độ không quan tâm giới luật. Mà niệm
Phật tâm an tịnh, ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh đồng như giữ giới. Không lo
giữ giới mà không phạm giới là vậy./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét