GIẢI NGHI “NHẤT TÂM BẤT LOẠN”
VÀ “THIỆN CĂN” TRONG KINH DI ĐÀ
Nhiều người
do cảm nhận cuộc đời vô thường, ngắn ngủi nhiều khổ đau, lo buồn nên tiến đến học
Phật, mong mỏi có thể từ trong Phật pháp, vượt thoát sự trôi lăn trong luân hồi
sanh tử, chấm dứt khổ đau.
Thế nhưng
người học Phật thì nhiều, còn thực sự để đạt thành tựu an tâm lại hiếm có một người. Đây là điều cần phải
suy nghĩ. Mọi người đều biết, thuốc không đúng bịnh, thì bịnh tình khó thuyên
giảm, đạo lý cũng vậy. Hành giả tu tập chọn pháp môn không thích hợp với căn cơ
của mình, thì khó tránh “dã tràng se cát”, chỉ lần lữa hết thời gian, thậm chí
tâm ý chán nản, thoái thất sơ tâm, uổng phí một đời tu, cuối cùng không có ích
lợi. Bởi do tu không đúng pháp hợp cơ.
Phật pháp có
nhiều pháp môn tu, có pháp khó pháp dễ. Chúng sanh trong thời mạt pháp, phiền
não nhiều, nghiệp chướng sâu nặng, trí mỏng nghiệp dày, sinh mạng ngắn ngủi. Vì
thế phải chọn pháp môn dễ, bỏ pháp môn khó. Chọn con đường tắt, bỏ con đường
dài quanh co. Cũng vậy, người đang bịnh nặng cần đi đến bệnh viện nên đi đường
tắt, bỏ đường dài, mới kịp chữa trị cơn bịnh. Nên chọn con đường tắt dễ đi mau
đến để cầu thầy chữa bịnh. Thế nên, đức Phật dùng lòng từ bi vì chúng sanh rộng
mở pháp môn Tịnh độ, nhiếp thọ tất cả chúng sanh, niệm Phật vãng sanh Tịnh độ
không còn để sót chúng sanh nào.
Người niệm
Phật tuy nhiều, song có rất ít người đạt “bình sanh nghiệp thành” ngay trong cuộc
sống bình thường an tâm niệm Phật thì lại
rất ít. Bởi vì phần nhiều người niệm Phật đều do lý giải văn kinh không thông,
ưu tư vì khó đạt đến “ nhất tâm bất loạn” khó đạt tiêu chuẩn “thiện căn phước đức”
nên lo lắng hoài nghi, tâm sinh bất an. Tình cảnh như thế ai cũng có, khiến sự
niệm Phật trở thành hoài nghi không tinh tấn.
Trong kinh A
Di Đà diễn tả cuộc sống con người trên cõi Cực Lạc “không có các điều khổ, chỉ
hưởng những điều vui vĩnh viễn, được bất thối chuyển, thành tựu Phật quả. Nhưng
sao người niệm Phật lại không an, không vui lại còn hoài nghi thoái tâm là vì
sao? Vì không thông được lý vãng sanh
trong kinh nên lòng tin bị thối thất. Trong kinh nói pháp niệm Phật là pháp dễ
tu dễ thành, sao nay lại nói khó thành. Niệm Phật nhất định được vãng sanh, nay
lại nói khó vãng sanh….là vì hai đoạn kinh văn “nhất tâm bất loạn, bất sanh bỉ
quốc” và “ bất dĩ thiểu thiện căn bất sanh bỉ quốc”. Tức người niệm Phật không
nhất tâm thì không sanh bỉ quốc, người có ít thiện căn phước đức thì không được
vãng sanh.
Chữ “nhất
tâm” ta nên hiểu là chuyên tâm, chữ “bất loạn” ta hiểu là không tạp. Nghĩa là
người nào chuyên tâm niệm Phật không gián đoạn, không thay đổi, thì người đó nhất
định vãng sanh. Còn thiện căn phước đức là người nào có lòng tin vào pháp môn Tịnh
độ, niệm Phật cầu vãng sanh thì người đó có thiện căn phước đức. Thiện căn của
người có lòng tin, chứ không phải thiện căn của việc làm lành lánh dữ, làm thiện,
nó thuộc thiện căn hữu lậu, hưởng phước thế gian, không thể sánh với thiện căn
của sự niệm Phật là thiện căn vô lậu, ra khỏi sanh tử.
Nếu tất cả
hành giả thông hiểu được hai đoạn kinh
trên thì niệm Phật sẽ được vãng sanh, và nhất định vãng sanh. Vì phẩm vị vãng
sanh có ba bậc chín phẩm, gồm thâu tất cả
chúng sanh từ phàm phu đến thánh vị, nên không ai là không có phần. Miễn là có
lòng tin, có sự phát nguyện, có sự hành trì thì không có một hành giả nào ở lại
Ta bà. Cũng vậy, thuyền từ của Phật giống như một chiếc thuyền lớn chỡ tất cả mọi
người không thiếu sót ai.
Kinh A Di Đà
có 1858 chữ, lại có ba lần Phật khuyên chúng sanh nên phát nguyện vãng sanh về
cõi Cực Lạc.
1/ Chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện,
nguyện vãng sanh bỉ quốc.
2/ Văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện sanh
bỉ quốc.
3/Nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ
quốc.
-
Chúng sanh nghe rồi,
phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
-
Nghe lời ấy rồi, phải
nên phát nguyện sanh về nước kia.
-
Nếu có người tin, phải
nên phát nguyện, sanh về cõi nước kia.
Lòng từ của Phật Thích Ca vô cùng sâu sắc, Ngài
nhiều lần nhấn mạnh, khuyên bảo mong muốn chúng sanh nhất định phải vãng sanh về
thế giới Cực Lạc.
Thông thường, mọi người hay hiểu lầm về “ thiện
căn phước đức nhân duyên” trong kinh A Di Đà theo ý tiêu cực nói là: “Bất khả
dĩ thiểu thiện căn phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc” (không thể đem chút ít thiện căn phước đức
nhân duyên, mà được sanh về cõi nước kia). Vậy thì ý nghĩa của 14 chữ
này là thế nào?
Người ta giải
thích: Thiện căn là chỉ cho Bồ đề tâm, phước đức chỉ cho lục độ vạn hạnh. Lấy
thiện căn của Bồ đề tâm làm nhân, lấy phước đức của lục độ làm duyên, nhân
duyên hoà hợp mới có thể vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Thế nhưng, lại
“không thể đem chút ít thiện căn” thì nhất định phải nhiều, nghĩa là “đa thiện
căn”, tức là phải phát tâm vô thượng Bồ đề. Như vừa nói, thiện căn thường giải
thích là bồ đề tâm, thế nhưng lại “không thể dùng chút ít Bồ đề tâm”, vậy thế
nào gọi là ít? Người đã đắc quả A la hán, cũng thuộc về “thiểu thiện căn”. Bởi
người này không phát Bồ đề tâm, không hành Bố tát đạo, cho nên không thể thành
Phật.
Vãng sanh về
thế giới Cực Lạc là để thành Phật. Thông thường người ta giải thích là người tu
hành, nhất định phải tự mình phát tâm vô thượng Bồ đề làm nhân vãng sanh, đã
phát tâm Bồ đề thì nhất định phải hành Bồ tát đạo, do đó phải rộng tu vạn hạnh,
đây gọi là phước đức. Lấy nhân “tâm vô thượng Bồ đề” , cộng với duyên “phước đức
lục độ vạn hạnh” nhân duyên hoà hợp mới đủ vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Góc độ giải
thích này không hề sai, nhưng chúng ta cần hiểu cho rõ ràng. Theo sự giải thích
như trên, thì chúng sanh nhất định phải tự mình tích luỹ, thành tựu phước đức
nhân duyên của tâm Bồ đề, cộng với lục độ vạn hạnh. Còn đối với chúng ta, phước đức là do Đức Phật
A Di Đà tích luỹ, thành tựu, then chốt của vấn đề là ở chỗ này.
Vã lại việc
Phát tâm Bồ đề chỉ cho những hạng người có trí, chứ hạng ngu phu , ngu phụ biết
gì về Bồ đề tâm mà phát. Vậy phước đức nhân duyên ở đây là do có lòng tin nơi
Phật A Di Đà, phước đức thiện căn nơi danh hiệu Phật A Di Đà chứ không phải của
ta. Người có lòng tin, người có niệm Phật là người có phước đức, là người có
thiện căn, là người có nhân duyên. Nếu nói phải có Bồ đề tâm thì chẳng có được
bao nhiêu người vãng sanh là vậy./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét