CÁC
SỰ KHỔ CỦA GIÀ, BỊNH VÀ CHẾT CỦA CON NGƯỜI
Đạo Phật nói về cái khổ lớn của con người
gồm có 4 loại : sanh, già, bệnh, chết. Ở đây nói sơ những nổi khổ của bệnh và
chết của con người mà trong văn Cảnh Sách của Tổ Quy Sơn nói “ Chúng khổ oanh
triền bức bách ”. Già và bệnh đến các khổ vây quanh bức bách. Khi bệnh nặng nằm
trên giường chờ chết, thì có rất nhiều thứ khổ liên hệ đến bệnh khổ và tử khổ
trong tám thứ khổ của Khổ đế trong Tứ Diệu Đế. Tuy chỉ nói đến bệnh khổ và tử
khổ là hai trong tám khổ mà thôi, nhưng ở đây chỉ nói các khổ khi đau và gần sắp
chết. Vì đối với bệnh khổ thì khi bệnh nặng nằm trên giường, thân tâm phải chịu
rất nhiều nổi đau khổ, như khổ về thân thì thân thể đau đớn, không ngồi dậy được,
ăn uống, vệ sinh, đi lại đều phải lệ thuộc người khác..về tâm lý thì buồn phiền,
lo lắng, cô đơn, còn đối với tử khổ thì lo sợ lúc ra đi, luyến tiếc, mờ mịt,
chưa biết về đâu…Cho nên nói các khổ vây quanh bức bách.
Trong Khoá Hư Lục,
vua Trần Thái Tông đã diễn tả nổi khổ của sinh, lão, bệnh,
tử bằng hình ảnh của bốn núi rất sâu sắc và sống động với ngôn từ biểu cảm thống
thiết, nay trích ra hai núi thứ ba và thứ tư nói về bệnh khổ và tử khổ để minh hoạ làm sáng tỏ ý nghĩa của “ Chúng khổ oanh triền bức bách ”.
Núi thứ ba là tướng bệnh :
“ Tuổi đã già khọm, bệnh đến cao hoang”, đoạn này diễn tả cảnh già rồi bệnh.
Cao hoang là trong hông, trong lồng ngực của mình. Bệnh đến trong hông ngực là
bệnh nan y khó trị. “ Chân tay mỏi mệt, mạch lạc khó thông, trăm lóng rã rời,
nóng lạnh chẳng thuận”. Khi bệnh thì trong thân phần nào cũng chống trái nhau
không an ổn điều hoà. “ Tan mất tánh chơn thường, sai lệch
nguồn điều sướng”. Tâm tánh người bệnh rối loạn không còn bình thường nữa. Nguồn
điều hoà trong cơ thể không còn thông suốt, mà sai lệch đi rồi. “ Ngồi đứng khó khăn, co duỗi đau đớn”. Ngồi
đứng đều thấy khó, co duỗi nghe đau đớn vì mang thân bệnh. “ Mạng dường ngọn đèn trước gió, thân như hòn
bọt trên sông”. Mạng sống lúc bệnh giống như ngọn đèn trước gió, một cơn gió mạnh
thổ đến đèn tắt ngay ( chỉ cho đèn dầu ). Thân bệnh như hòn bọt nổi, chỉ cần một
lượn sóng dập vào thì bể nát. Đoạn này diễn tả tướng bệnh của thân. Kế đến nói
về tâm bệnh : “ Tâm sanh bóng quỷ lô nhô, mắt thấy không hoa lốm đốm.”. Khi bệnh
trầm trọng thì tâm thấy những chuyện lăng xăng ma quái. Cho nên người già khi
đau sắp chết, con cháu phải trông ngó chăm nom luôn luôn, nếu không thì nói nhảm,
mắt thấy hoa đốm trong hư không. “ Hình hài gầy ốm, ai là Biển Thước thuốc
thang; thân thể hao mòn, nào kẻ Lư Nhân cứu chữa”. Thân hình đã gầy yếu có thầy
thuốc nào đại tài như Biển Thước để cứu trị hay không ? Theo sách Trung Hoa, Biển
Thước là thầy thuốc giỏi nhất thời Chiến Quốc, tên là Tần Việt Nhân. Ông học được
phương bí truyền của Trường Tang Quân, đem ứng dụng và hốt thuốc
giỏi nhất vào thời đó, vì vậy nói đến thầy thuốc giỏi ở Trung Hoa ai cũng biết
chỉ có Biển Thước. Lư Nhân tên khác của Biển Thước. “Bạn bè luống nhọc viếng
thăm, anh em uống sức nâng đỡ”. Vì đau nặng nên bạn bè chống gậy đến thăm, anh
em ra sức bồng đỡ. “ Bệnh nặng nhiều tháng chẳng lành, nằm liệt nhiều tuần chưa
khỏi”. Bệnh lâu ngày chưa lành, người bệnh nằm chờ chết, cảnh tượng rất là buồn
! “ Tướng bệnh của người là mùa thu trong năm. Gặp khi sương lạnh mới rơi, đến lúc cỏ cây đều héo”.
Tướng bệnh giống như mùa thu trong năm. Thu đến sương lạnh rơi, cỏ cây bắt đầu
héo vàng. “ Rừng rậm sum sê, một trận gió vàng đã lơ thơ, núi biếc non xanh,
móc ngọc mới sa liền trơ trọi ”. Mùa thu gió tây thổi, lá cây trong rừng đều rụng
hết. Mới khi nào núi biếc non xanh, giờ đây sương móc vừa sa, lá cây rơi rụng
cành cây chơ vơ, núi trở thành trơ trọi .
Kệ rằng :
Âm
dương trái vận vốn xoay vần,
Gieo
rắc tai ương đến thế nhân,
Đại
để có thân thì có bệnh,
Ví
bằng không bệnh cũng không thân,
Linh
đơn chớ cậy trường sanh thuật
Lương
dược khó mong được sống bền
Sớm
nguyện xa lìa ma cảnh giới
Xoay
tâm về đạo, dưỡng thiên chân,
“ Âm dương trái vận vốn xoay vần ”
Khi âm dương không đúng thời tiết nên khiến có sự xoay vần bất thường. “ Gieo rắc
tai ương đến thế nhân ”. Vì âm dương không điều hoà nên con
người phải bệnh hoạn. “ Đại để có thân thì có bệnh”. Tất cả người đời có thân
thì đều có bệnh, chứ không riêng ai. “ Ví bằng không bệnh cũng không thân”. Chi
bằng đừng có bệnh cũng đừng có thân, nghĩa là không có thân thì không có bệnh.
Chỉ có thân không tướng tức là pháp thân mới không bệnh. Thế nên người tu muốn
bỏ nhục thân để sống với pháp thân không tướng. “ Linh đơn chớ cậy trường sanh
thuật, lương dược khó mong được sống bền”.
Dù cho thuật trường sanh cũng không còn, dù có thuốc hay bao nhiêu cũng không sống
mãi. Như các vị tiên ngày xưa luyện linh đơn và các thứ thuốc trường sanh, đâu
có vị nào sống mãi đến ngày nay, sống dai lắm cũng chỉ vài trăm tuổi là nhiều .
“ Sớm nguyện xa lìa ma cảnh giới”. Nếu biết không thoát được cái chết, thì mỗi
người chúng ta phải sớm nguyện xa lìa cảnh giới ma, tức cảnh giới sáu trần đang
lôi kéo chúng ta. “ Xoay tâm về đạo dưỡng thiên chân” là xoay tâm trở về với đạo
để nuôi dưỡng thiên chân. Thiên chân là cái chân thật không còn sanh diệt, cái
đó sẵn có muôn đời, không phải mới tạo nên. Nếu biết xoay
tâm về đạo thì thiên chân hiện tiền.s
Núi thứ tư là tướng chết :
“ Bệnh càng trầm trọng sắp cáo chung. Tuổi thọ mong hưởng trăm năm, thân
thể trở thành giấc mộng”. Bệnh trầm trọng đến giờ sắp ra đi. Khi còn mạnh ai
cũng mong sống đến trăm tuổi, nên thường chúc nhau : Sống lâu trăm tuổi, nhưng
làm sao được. Cơn chết sắp đến, ôn lại cuộc đời, giống như giấc mộng, tất cả những
gì mình tạo dựng được, nay chỉ là một giấc mộng thôi. “ Thông minh trí tuệ khó
trốn ngày đại hạn sắp sang. Sức mạnh oai hùng đâu chống được
vô thường đã đến ”. Dù thông minh trí tuệ đến đâu, tới ngày chết cũng không ai
tránh khỏi. Dù anh hùng võ tướng, khi vô thường đến cũng phải bó tay không làm
gì hơn. “ Thiếp thuận vợ trinh trở thành đau thương đứt ruột; anh nhường em kính
vội nên biệt ly suốt đời”. Ở thế gian có thê thiếp trinh thuận đến lúc ra đi lại
càng đứt ruột, vì càng thương lại càng khổ. Nếu vợ chồng bất hoà
lúc ra đi lại ít khổ hơn.Còn anh em thuận hoà kính yêu, khi
sắp ra đi lại càng đau đớn vì ly biệt suốt đời. Người chết đi rồi, người sống ở
lại thì sao ? Vật mình lăn đất, vỗ trán
kêu trời ." Tường hoa nhà rộng có làm chi, ngọc đụn vàng kho rồi cũng bỏ
”. Người ở lại thì than khóc, đau khổ vô cùng, không sao tả xiết. Người ra đi
thì tường hoa nhà rộng, ngọc đụn vàng kho đều bỏ lại, đâu có mang theo vật gì ?
“ Dạ đài mù tối, luống nghe gió bất vi vu, tuyền hộ then gài, chỉ thấy mây sầu ảm
đạm”. Một mình ra đi vào chốn dạ đài, là nơi mù tối, gọi là âm ti, chỉ nghe gió
bất lạnh lẽo thổi vi vu. Tuyền hộ then gài tức là cửa huỳnh tuyền then gài đóng
chặt, không cho trở lên nữa, không ai bênh vực tiếp cứu. Lúc đó nhìn đâu cũng
chỉ thấy mây sầu ảm đạm, buồn bã làm sao ! Vậy mà thế nhân không lo, chỉ nghỉ chuyện sống,
không bao giờ nghĩ đến cái chết… “ Tướng chết của con người là mùa đông trong
năm”. Tướng chết ví như mùa đông mây sầu ảm đạm. “Càn khôn ứng Thái Tuế tròn
vòng”. Càn khôn vũ trụ ứng với sao Thái Tuế, đây chỉ là sao Mộc, xoay quanh mặt
trời mười hai năm mới hết một vòng gọi là Thái Tuế. Cũng như con người sống mấy
mươi năm rồi chết là một vòng, chết rồi lại sanh giống như sao đi một vòng rồi
trở lại vậy. “ Nhật nguyệt hướng Huyền Hiều hội tụ” Huyền Hiều cũng gọi là sao
Huyền Hào, ở phương bắc gồm một chòm sao như :sao Hư, sao Nguỵ,
sao Nữ, sao Tú, Sao Hư ở chính bắc,
phương bắc màu huyền nên gọi là Huyền Hiều, hiều còn gọi là hào có nghĩa là hư
hao, tức là nói ngôi sao xấu. Thế nên nói : Mặt trời mặt trăng ứng hiện,ngôi
sao xấu Huyền Hiều trở nên chung hợp. Vì vậy :
Âm tinh cực thịnh, khắp trời mưa tuyết bời bời, dương khí tan dần, nước
tám đức đóng băng càng lạnh buốt”. Nước tám đức là bát công đức thuỷ, tám đức gồm có : Một là đức trong sạch, hai là đức sanh
mát, ba là đức ngọt ngào, bốn là đức mềm nhẹ, năm là đức thấm nhuần, sáu là đức
an hoà, bảy là đức trừ đói khát, tám là đức nuôi lớn các
căn. Câu này nói : Phần âm cực thịnh nên khắp trời mưa tuyết, khí dương tan dần
nên nước tám đức bị đóng băng lạnh buốt.
Kệ rằng
Cào
đất đùng đùng trận gió hanh
Lão
ngư say tít, chiếc thuyền chành
Bốn
bề mù mịt mây sầm bóng
Một
dãy lô xô sóng cuộn ghềnh
Theo
lớp hạt mưa bay phấp phới
Dồn
nhau tiếng sét nổ đì đoành
Giây
lâu tan bụi, bên trời tạnh,
Trăng
lặn lòng sông, đêm mấy canh ?
Vừa dông bão, vừa sấm sét, mưa ầm ì dồn
dập tới, ngư ông chỉ có một mình trên chiếc thuyền con cảm nhận bao nhiêu nổi kinh hoàng khủng khiếp. Đây mượn
hình ảnh trận bão tố để diễn tả nổi đau khổ của người sắp chết, bao nhiêu thứ
hiểm nguy sợ sệt dồn dập tới, con cháu bên ngoài chỉ biết khóc thôi ! Một mình
mình chịu, không ai giúp được, không ai thế được cho mình ! Giống như lão ngư
phủ một mình trên chiếc thuyền cong tròng trành sắp lật úp, mà không ai cứu
giúp, cuối cùng thì :
Giây
lâu tan bụi bên trời tạnh
Trăng lặng lòng sông, đêm mấy canh ?
Khi trời tạnh nhìn lại chiếc thuyền ông
câu đâu rồi ? Nó chìm tận đáy sông, cũng
như mặt trăng lặng xuống lòng sông. Hỏi chừng nào gặp lại ông câu ? Đêm mấy canh ? Tức bao giờ mới gặp lại ? Đây là câu hỏi làm cho mình đau đớn ! Khi tắt
hơi thở để vào quan tài, khiêng ra đặt dưới mộ rồi, thì từ giã
tất cả, không bao giờ gặp lại. Vì thế câu : “ trăng lặn lòng sông, đêm mấy canh
?” Làm cho chúng ta đau xót ngậm ngùi .
Bài kệ này rất hay và rất thực, và tác giả dịch lại như sau :
Bão táp cuồng
phong đất bụi bay.
Lão ngư say
tít chiếc thuyền lay,
Bốn bề mây phủ
màu đen kịt
Một dãy sóng
gầm tiếng vang tai.
Sầm sập trận
mưa ào ạt đổ.
Ì ầm xe sấm nổ
vần xoay
Tạm thời bụi
lắng, chân trời sáng
Trăng lặng
lòng sông, canh mấy ai ?
Canh mấy rồi, hỏi thử xem ai có thể
trả lời giùm
Kết thúc lại, chúng ta thấy lối diễn tả
bốn núi của ngài Trần Thái Tông rất hay, vừa khéo, vừa văn chương, người đọc
không chán mà lại thấm nhuần được giáo lý vô thường, vô ngã
của đạo Phật. Ngài là một ông vua cai trị muôn dân mà có thì giờ làm những bài
thơ kệ nhắc nhở người sau, thật là một điều hiếm có, rất xứng đáng để mọi người
cảm phục và noi theo.
Qua cái nhìn của vua Trần
Thái tông về cuộc đời, không bao giờ ngai vàng và tất cả sự giàu sang sung sướng
quyến rũ được ngài. Nhìn lại chúng ta hiện giờ ở địa vì nghèo khó mà cái gì
cũng không buông bỏ cho đành. Còn ngài ở ngai vàng mà không nhiễm, thật là hai
bên khác biệt nhau ! Ngài là một con người
như chúng ta mà gan dạ, nhìn thấu lẽ sanh tử của cuộc đời. chúng ta cũng
là người như ngài mà còn mê muội, không thấy thấu đáo như vậy. Thế nên chúng ta
bắt chước ngài, để sửa đổi, để tu, là điều cần thiết nhất cho đời mình .
( HT Thích Thanh Từ
dịch và giải thích ). Trích từ tập : Giảng giải văn Quy Sơn Cảnh sách : HT Thiện
Toàn – 2019 )
{—]–{
HÃY BIẾT VUI,
VÌ CÒN NGHE ĐƯỢC
CHA MẮNG
HÃY BIẾT MỪNG
VÌ CÒN ĐƯỢC MẸ
NHẮC NHỞ
HÃY BIẾT ƠN
VÌ CHA MẸ VẪN
CÒN SỐNG
{—]–{
TIỀN KHÔNG QUAN TRỌNG BẰNG TÌNH NGHĨA
NHƯNG ĐÔI KHI BẠN SẼ NHẬN RA RẰNG :
NẾU KHÔNG CÓ TIỀN RỒI TÌNH NGHĨA CŨNG PHÔI PHA.
{—]–{
TRỜI NÀO PHỤ BẠC KẺ CÓ NHÂN
NGƯỜI NÀO CÓ ĐỨC, MUÔN PHẦN VINH HOA
NHỮNG NGƯỜI TÂM ĐỊA GIAN TÀ
CUỐI CÙNG CHỈ NHẬN TOÀN LÀ ĐAU THƯƠNG
{—]–{
DƯỠNG SINH TỐT NHẤT LÀ DƯỠNG TÂM
DƯỠNG TÂM TỐT NHỨT CHÍNH LÀ
THƯỜNG NIỆM A DI ĐÀ PHẬT
{—]–{
TRÊN ĐỜI NÀY KHOẢNG CÁCH XA NHẤT
KHÔNG PHẢI LÀ SỐNG VÀ CHẾT
MÀ LÀ GẦN NHAU NHƯNG KHÔNG HIỂU NỔI
NHAU.
{—]–{
VẾT THƯƠNG NGOÀI DA LÂU NGÀY SẼ LÀNH
NHƯNG LỜI NÓI CAY ĐỘC, SUỐT ĐỜI VẪN CÒN
ĐAU
{—]–{
KHÔNG PHẢI VẾT THƯƠNG NÀO CHẢY MÁU
CŨNG ĐỀU ĐAU
CÓ KHI VẾT THƯƠNG
KHÔNG NHÌN THẤY MÁU
MỚI THỰC SỰ LÀ VẾT THƯƠNG ĐAU NHẤT
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét