SỰ
KHAI NGỘ CỦA THIỀN SƯ THẦN TÁN
Thiền
sư Thần Tán lúc còn nhỏ thường hay thân cận với Tổ sư Bách Trượng mà được khai
ngộ. Về sau ngài về nối nghiệp Bổn sư. Bổn sư hỏi :
-
Ông rời ta đi các nơi có thu được sự nghiệp gì không ?
Ngài
đáp : Vẫn không được gì .
Bổn
sư bèn sai Ngài hầu hạ như trước. Một hôm Bổn sư đang tắm, sai Ngài kỳ lưng, Thần
Tán vỗ vào lưng Thầy nói :
Phật
đường đẹp quá mà Phật chẳng thiêng.
Bổn sư không hiểu, quay đầu lại nhìn. Ngài nói
tiếp :
Phật
tuy chẳng thiêng, mà hay phóng quang.
Một
hôm khác, Bổn sư đang ngồi bên cửa sổ xem kinh, có một con ong chui vào tờ giấy
dán ở cửa sổ để tìm lối thoát ra ngoài. Thần Tán thấy vậy nói :
Thế
giới rộng thênh thang chẳng chịu ra, cứ vùi đầu vào giấy cũ, biết bao năm mới
thủng ?
Rồi
Ngài đọc bài kệ :
Không
môn bất khẳng xuất
Đầu
song dã thái si
Bách
niên tán cố chỉ
Hà
nhật xuất đầu thời
Cửa
không chẳng chịu chui ra
Lủi
vào song cửa…thật là quá ngu !
Trăm
năm dùi giấy mịt mù
Cứ
làm kiểu ấy bao giờ thoát ra ?
Bổn
sư nghe nói, cho là mắng mình, bèn đặt Kinh xuống hỏi :
-
Ông rời ta đi hành cước một thời gian, gặp ai, học những gì mà khi về ăn nói lạ
lùng như vậy ?
Thần
Tán Thưa : Con từ khi rời Thầy đến hội của
Ngài Bách Trượng nhờ Ngài chỉ dạy được chỗ thôi dứt. Vì nhớ Thầy tuổi đã già
nên quay về để báo thâm ân.
Bổn
sư bèn bảo đại chúng đến giờ cơm thỉnh Thần Tán thuyết Pháp. Thần Tán liền lên toà, đề cao phong môn của Tổ Bách Trượng nói :
Linh
quang độc diệu
Quýnh
thoát căn trần
Thể
lộ chân thường
Bất
câu văn tự
Tâm
tánh vô nhiễm
Vốn
tự viên thành
Đãn
ly vọng duyên
Tức
như như Phật.
Linh
Quang riêng chiếu
Vượt
khỏi căn trần
Hiển
hiện chơn thường
Chẳng
nệ văn tự
Tâm
tánh không nhiễm
Vốn
tự viên thành
Chỉ
lìa vọng duyên
Tức
như như Phật.
Bổn sư liền cảm ngộ, nói :
Chưa
bao giờ lão tăng được nghe việc rốt ráo như thế này.
Rồi
đem việc chùa giao cho Thần Tán, lại đảnh lễ Thần Tán, và tôn làm Thầy.
Quý
vị hãy xem việc ấy thật là dễ dàng, đâu cần gột
rửa gì ? Quý vị và tôi ngày hôm nay đả thất được hơn mười ngày rồi, vì
sao lại không ngộ đạo ? Chỉ vì chúng ta không chịu dụng công đến chỗ chết tiệt
cái tâm lăng xăng, hoặc chỉ xem như trò đùa của trẻ con, hoặc cho rằng dụng
công tham thiền thì phải ngồi yên trong
Thiền Đường mới được. Kỳ thật điều đó chẳng đúng. Người chân thật dụng
công thì chẳng còn phân chia động tĩnh…đầu đường xó chợ, bất cứ chỗ nào cũng dụng
công được.
Thuở
xưa, có Hoà thượng Đổ Tử đi du phương. Một hôm trên đường
vào chợ đi ngang qua cửa hàng bán thịt,
thấy khách hàng đến mua tấp nập, ai cũng đòi chủ tiệm cắt thịt nạc cho mình.
Người bán thịt nổi giận buông dao xuống hỏi : “ Có miếng thịt nào không phải nạc
đâu nà ?” Hoà thượng Đổ Tử nghe nói, bỗng nhiên khai ngộ.
Đủ
thấy sự dụng công của người xưa, chẳng phải chỉ hạn cuộc ở trong Thiền Đường.
Hôm nay, các ông chẳng ai kể lại nhân duyên ngộ đạo của mình, thật là uổng phí
thời giờ. Xin kính thỉnh Pháp sư Ứng Từ cùng các Đại Hoà
thượng khảo sát lại xem .
MỘT
SỐ BÀI KỆ THIỀN KHI ĐÃ NGỘ ĐẠO
Bàng
Uẩn nghe danh Hoà thượng Thạch Đầu bèn đến yết kiến hỏi rằng : “ Ai là người
không cùng muôn pháp làm bạn ?”. Thạch đầu liền lấy tay bịt miệng ông, Bàng Uẩn
ngay đó có chút tỉnh ngộ. Một hôm Hoà thượng Thạch Đầu hỏi:
“ Ông từ khi gặp lão Tăng đến nay, hằng ngày làm việc gì ?”. Bàng Uẩn thưa : “
Nếu hỏi việc hằng ngày thì không có chỗ mở miệng”. Rồi trình bài kệ như như thế
này :
Nhật
dụng sự vô biệt
Duy
ngô tự ngẫu hài
Đầu
đầu phi thủ xả
Xứ
xứ một trương quai
Chu
tử thuỳ vi hiệu
Khưu
sơn tuyệt điểm ai
Thần
thông tình diệu dụng
Vận
thuỷ cập ban sài
Hằng
ngày không việc khác
Tôi
chỉ sống tuỳ duyên
Mọi
việc không thủ xả
Nên
chẳng gặp phải phiền
Tía
hồng mặc người gọi
Núi
gò bặt bụi trần
Bửa
củi là diệu dụng
Gánh
nước là thần thông.
Thạch
Đầu chấp nhận và hỏi :
-Ông
muốn xuất gia hay tu cư sĩ ?
Bàng
Uẩn nói : Xin cho con được giữ nguyện không xuất gia. Về sau Bàng Uẩn đến tham
vấn hỏi Mã Tổ :
-Ai
là người chẳng cùng muôn pháp làm bạn ?
Mã
Tổ đáp : Đợi ông uống một hớp cạn dòng Tây Giang, ta sẽ nói cho ông biết. Bàng
Uẩn liền đốn ngộ huyền chỉ, ở lại tham học
với Mã Tổ hai năm.
Cư
sĩ Bàng Uẩn từ khi tham thấu được “ Bản
lai nhân” về sau không làm gì nữa, từ sáng đến chiều chỉ chuyên đan sáo tre để
mưu sinh, gia tài có đến muôn quan, tiền vàng tiền bạc, ông đem liệng hết xuống
sông Tương. Một hôm hai vợ chồng cùng ngồi bàn luận về pháp vô sinh, ông bảo :
-Nan
nan nan, thập thạch du ma thọ thượng than
(Khó
khó khó, mười tạ dầu mè trên đầu cây vuốt )
Bà
vợ nói :
Dị
dị dị, bách thảo đầu thượng Tổ sư ý
(
Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư )
Con
gái tên Linh Chiếu nghe cha mẹ bàn, cười nói :
Dã
bất nan, dã bất dị, cơ lại ngật phạn, khốn
lai thuỳ.
(
cũng không khó, cũng không dễ, đói ăn cơm, mệt ngủ khì )
Từ
đó biện tài của ông càng sắc bén, tiếng đồn vang dội khắp nơi. Một hôm ông đến
thăm Dược Sơn, lúc từ giã, Dược Sơn sai mười vị thiền khách
tiễn ông ra cửa, ông chỉ tuyết lơ lửng giữa trời nói :
Tuyết
đẹp ! Từng mảnh, từng mảnh không rơi vào chỗ khác.
Một
Thiền khách tên Toàn hỏi : - Rơi ở đâu ?
Ông
cho Toàn một bạt tai, Toàn nói :
-Cũng
chẳng nên lếu láo.
Ông
bảo : Sao gọi là Thiền khách ? Lão Diêm
la chưa tha cho ông đâu !. Toàn nói
: Cư sĩ làm gì vậy ? Ông lại tát tai nói :
-
Có mắt như mù, có miệng như câm
Bàng
Uẩn còn lui tới những chỗ giảng Kinh, Luật. Một hôm nghe pháp sư giảng Kinh Kim
Cang, đến chỗ “ không ngã không nhân”,
liền hỏi “ Thưa toạ chủ, đã không ngã không nhân thì ai giảng
ai nghe vậy ?”. Toạ chủ không đáp được. Ông bảo : “ Tôi tuy
là người thế tục nhưng cũng biết được chút đỉnh”. Toạ chủ hỏi
: “ Thưa ý cư sĩ thì thế nào”, ông dùng bài kệ đáp :
Vô
ngã phục vô nhân
Tác
ma hữu sơ thân
Khuyến
quân hưu lịch toạ
Bất
tợ trực cầu chân
Kim
Cang Bát Nhã tánh
Ngoại
tuyệt nhất tiêm trần
Ngã
văn tịnh tín thọ
Tổng
thị giả danh trần
Không
ngã lại không nhân
Làm
gì có sơ, thân
Khuyên
thầy đừng ngồi mãi
Đâu
bằng thẳng cầu chân
Tánh
Kim Cang Bát Nhã
Chẳng
dính một mảy trần
Tôi
nghe và tin nhận
Thảy
đều giả danh trần.
Toạ chủ nghe xong hoan hỷ khen ngợi.
Một
hôm, cư sĩ hỏi Linh Chiếu :
-Người
xưa nói : “ Rõ ràng đầu trăm cỏ rõ ràng
ý Tổ sư” con hiểu như thế nào ?
Linh
Chiếu nói : Ông già đã lớn tuổi rồi mà còn nói như vậy.
Cư
sĩ hỏi : Con thì sao ?
Linh
Chiếu đáp : Rõ ràng đầu trăm cỏ, rõ ràng ý Tổ sư.
Long
Uẩn cười.
Lúc
Bàng Long Uẩn sắp tịch, ông bảo Linh Chiếu, Con ra xem mặt trời
đã đứng ngọ chưa ?
Linh
Chiếu bước ra xem rồi quay vào nói :
-Trời
đã đúng ngọ nhưng lại bị tuyệt thực, sao cha không ra xem thử ?
Cư
sĩ tưởng là thật, rời toà ngồi ra cửa xem. Trong lúc ấy
Linh Chiếu liền lên toà của cha ngồi kiết già chấp tay thị
tịch. Cư sĩ vào thấy Linh Chiếu đã mất than rằng : “Con gái lanh lẹ quá, đi trước
ta rồi”. Ông đành hoãn lại bảy ngày nữa.
Quan
Châu Mục là Vu Công đến thăm bệnh ông. Cư sĩ bảo : “ Chỉ mong không các cái có,
cẩn thận đừng cho những cái không là thật. Khéo sống giữa đời, tất cả như bóng
vang”. Nói xong ông nằm gác đầu trên gối Vu Công mà hoá.
Theo lời di chúc, người ta mang thi hài ông đem thiêu và đỗ tro xuống sông
Tương. Bà vợ ông được tin liền báo cho con trai hay. Cậu con trai nghe nói đứng
chống cuốc, tựa trán vào đó mà tịch. Bà mẹ thấy vậy cũng tự ẩn đi.
Các
ông xem, cả nhà họ Bàng gồm bốn người đều có được thần thông diệu dụng như thế,
đủ để các ông tin là làm cư sĩ cao quý biết bao ! Bây giờ, chớ nói là trong
hàng cư sĩ các ông không có nhân tài giống vậy, mà cả hai chúng xuất gia, cũng
chẳng khác gì Hư Vân này. Mong các ông hãy nỗ lực, tinh tấn .
Lúc
ở Giang Tô Ngài Hư Vân từng gặp một vị
Tăng, rồi về sau không nghe tin tức gì, bèn sai vị Tăng đi mời Sư, Đại Mai dùng bài kệ đáp :
Tồi
tàn khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ
độ phùng xuân bất biến tâm
Tiều
khách ngộ chi du bất cố
Dĩnh
nhân na đắc khổ truy tầm
Nhất
trì hà diệp y vô tận
Sổ
thọ tùng hoa thực hữu dư
Cương
bị thế nhân trì trụ xứ
Hựu
di mao xá nhập thâm cư
Cây
khô gãy mục dựa rừng hoang
Mấy
độ xuân về chẳng đổi tâm
Ông
tiều gặp phải không thèm ngó
Dĩnh
khách nhọc chi phải kiếm tầm ?
Lá
sen vô tận may làm áo
Lót
dạ hoa thông mãi vẫn thừa
Vừa
bị người đời hay chỗ ở
Liền
dời nhà ẩn tận non xanh.
Chuyện
tu hành không có gì khác, chỉ cần phải rõ đầu đường : “Mục đích chính của chúng
ta là thành Phật, là liễu sanh thoát tử”. Cho nên phải dụng công miên mật, đêm
ngày sáu thời không gián đoạn, như dòng nước chảy không dừng, cần phải “ linh
minh bất muội, liễu liễu thường tri”. Tất cả tình phàm vọng tưởng cần phải chặt
dứt.
Người
xưa nói :
Học
đạo du như thủ cấm thành
Khẩn
bả thành đầu chiến nhất trường
Bất
thọ nhất phiên hàn triệt cốt
Chẫm
đắc mai hoa phốc tỷ hương
Học
đạo giống như giữ cấm thành
Đầu
thành giữ chặt đánh tan xương
Chẳng
trải một phen xương lạnh buốt
Hoa
mai đâu dễ ngát mùi hương.
Ngài
Hư Vân là một vị Tăng đã chứng ngộ được thiền cơ, sự hoằng pháp lợi sanh của
ngài thật vô tận, không một việc gì không làm. Ngài lưu tâm xây dựng trùng tu
nhiều chùa chiền, tự viện bị hư hoại bỏ hoang. Công cuộc trùng tu và khôi phục lại nếp sống Tăng già của các tự
viện bị bỏ hoang rất là cam go cực khổ, thế mà ngài vẫn làm xong. Sau đây là
bài thơ nói lên nổi cơ cực trong thời gian trùng tu khôi phục lại các tự viện bỏ
hoang :
Chùa xưa xây lại
Muôn vàn đắng
cay
Hoạn nạn tuy
nhiều
Thoát nhờ Tam bảo
Nguyện con kiên
thường
Lời minh khắc
rõ
Bao đời xưa nay
Thuỷ chung kiên cố
Các cảnh đan
xen
Không trước
không sau
Người đây thông
suốt
Thấu rõ pháp
thân
Trong kiếp vị
lai
Gặp được tri âm
Lời này khắc tặng
Nối trước truyền
sau
Nhân duyên chín
muồi
Ưu Đàm nở hoa
( Ghi lại những
bài thơ của Tỳ Kheo Hồng Đoạn )
Vân cư sáng lập
đã ngàn năm.
Nền đổ lâu ngày
cỏ phủ giăng
Phát tâm xây dựng
đà không dễ
Dọn ngói tro
tàn cũng khó khăn
Mong được người
sau tu bổ hộ
Danh thơm vạn
thuở tiếp Thánh nhân
Người mắt sáng
hiểu nhân rõ quả..
Sau ắt sanh về
cõi Lạc Bang.
Hồng Đoạn
Từ tôi xây dựng
đã mười năm
Chết đi sống lại
biết bao lần
Lê chân ngàn dặm
xin tiền của
Đói khát đủ điều
cũng một thân
Lắm điều kinh
khủng, không nệ khổ
Sóng vờn thấm
thía chiếc thuyền nan
Nếu người hậu
lai huỷ, sẽ đoạ..
Địa ngục, tam đồ
đoạ khổ vạn phần.
Cảm tác khi mới
lên núi :
Lập chí Vân Cư,
tuyển Phật trường
Lên đây mưa gió
quá thê lương
Ban sơ khách đến
chen không lọt
Nay chẳng một
người viếng thượng phương
Cỏ hoang quấn
quý văn bia đổ
Đường vắng chân
người, rêu phủ xanh
Trăng soi dòng
biếc, ai người tỏ
Cây lá thì thào
đón tịch dương.
Ngỏ lòng :
Chặt gai phát cỏ
dựng nhà Thiền
Trước sau tính
lại quá mười niên
Xương đau, chống
gậy lê muôn dặm
Mềm lòng nhà cất
biết bao phen
Vạch mây trèo
đá xuyên qua đỉnh
Chận sóng khơi
dòng phá vách ngăn
Ba lần liều mạng
nhưng chưa chết
Ai cần gởi lại
bậc cao hiền.
Hồng
Đoạn
***
0 nhận xét:
Đăng nhận xét