Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2021

KINH BÁT NHÃ HAY TÂM KINH

 

KINH BÁT NHÃ HAY TÂM KINH

Kinh Bát Nhã nói cho đủ là : Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, thường người ta nói gọn là Tâm kinh. Là bản kinh chuyên nói về Tâm. Nói về Tâm, thì Tâm có hai loại tâm, vọng tâm và chơn tâm, hằng ngày con người luôn dùng vọng tâm để sinh hoạt, để đối đãi thù tạc, suy nghĩ so lường v.v… còn chơn tâm ít ai nghĩ đến. Thật ra chơn tâm hay vọng tâm là một, chơn tâm nó ẩn núp bên trong còn vọng tâm nó lộ diện ra bên ngoài. Ví như mặt trăng dưới nước dụ cho vọng tâm, còn mặt trăng thật trên trời dụ cho chân tâm. Mặt trăng dưới nước và mặt trăng trên trời tuy hai mà một, nhưng mà cái kích thước và hoạt dụng của mặt trăng dưới nước so với mặt trăng trên trời cách xa một trời một vực. Cũng vậy cái hoạt dụng của chơn tâm thì vô cùng  vô tận, còn cái hoạt dụng của vọng tâm thì giới hạn vô cùng.

Kinh Bát Nhã gọi là Tâm kinh thì chưa sát nghĩa mà nói tinh tuý của kinh Bát Nhã thì sát nghĩa hơn, vì mục đích của Phật nói kinh này là để chỉ bày cho chúng sanh thấy rõ được  tự tánh chân thực của mỗi người. Nên nó vượt ra ngoài sự suy nghĩ luận bàn của Tâm phan duyên tức tâm phân biệt của chúng sanh. Tâm này gọi là Bát Nhã gọi là Trí tuệ, nó có nhiều tên để gọi như : Như Lai tạng, tự tánh, chơn tâm, Phật tánh, viên giác… thiền tông gọi là bản lai diện mục, có rất nhiều tên gọi. Chơn tánh có sẵn trong mọi chúng sanh và Phật là người khám phá ra nó đầu tiên sau 49 ngày đêm thiền định dưới gốc cây Bồ đề, khi Phật khám phá ra tự tánh tức là ngộ được tự tánh của mình, liền tuần tự trong đêm chứng được ba minh, thiên nhãn minh, túc mạng minh, lậu tận minh. Đức Phật mới nói lên rằng : “ Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đầy đủ giác tánh, Ta là Phật đã thành chúng sanh là Phật sẽ thành”. Và từ đó về sau các đệ tử Phật lần lượt chứng ngộ được tự tánh này.

 Trong kinh Bảo Đàn ghi lại : Nhằm vào canh ba Ngũ Tổ, lấy Ca sa vây quanh che kín để thuyết kinh Kim Cang cho Lục Tổ nghe đến câu “ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Lục Tổ liền đại ngộ thưa với Ngũ Tổ :

Đâu ngờ  tự tánh vốn tự thanh tịnh

Đâu ngờ  tự tánh vốn không sanh diệt

Đâu ngờ  tự tánh vốn tự đầy đủ

Đâu ngờ  tự tánh vốn  không dao động

Đâu ngờ  tự tánh vốn  sanh muôn pháp

Ngài nói thẳng một hơi như hoa trời rơi. Bốn câu đầu “ Đâu ngờ”

Là nhiếp dụng về thể, còn câu “ Đâu ngờ” sau là đại dụng toàn thể. Bốn câu đầu là tự độ, câu rốt sau là độ sinh. Vì  “ Hay sinh muôn pháp” là tất cả chủng trí vậy. Trong kinh Pháp Hoa nói : Đức Phật  vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra nơi đời này vì để : “ Khai, thị, ngộ, nhập…. Tri kiến Phật”  mở rộng  Phật pháp đến vô biên, độ chúng sanh đến vô tận, tức là trí Bát Nhã nầy sẽ độ tất cả chúng sanh.

Khi chứng nhập được trí Bát Nhã nầy rồi thì không còn dùng sự phân biệt  của tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi nữa nên trong kinh nói : “vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ”… mà vẫn nghe vẫn thấy cảm nhận mùi vị … một cách tinh tường hơn con mắt thịt, lỗ tai của cha mẹ mình sinh ra. Thường người ta gọi là sự nghe thấy của con mắt thứ ba, tức là thần nhãn, cái thấy này từ tuệ giác xuất phát ra. Khi chứng nhập được trí Bát Nhã này rồi thì ban đêm cũng như ban ngày, xa bao nhiêu ngàn cây số cũng thấy rõ như trước mặt, ai ở cách mấy lớp tường rào xây cũng thấy. Khi chứng nhập trí nầy rồi không cần phải học mà biết tất cả, nói năng lưu loát không cần suy nghĩ mà nói rất chính xác. Biện luận không ai qua nổi. Vì thế ngày xưa Phật đã gặp rất nhiều sự tranh luận ngoại đạo đều bị Phật khuất phục. Ngài Huyền Trang cũng vậy tranh luận với nhiều phái ngoại đạo mà không bao giờ bị thua. Tất cả đều do năng lực của trí Bát Nhã nầy, hiện nay các siêu trí tuệ là họ vận dụng được trí Bát Nhã này nên họ mới có cái siêu trí nhớ như vậy, chứ không ngoài gì khác. Trí này mà đem so với trí bình thường của con người thì không bì kịp. Và ta từng nghe trong kinh nói, ngài A Nan có trí nhớ siêu việt là do nhờ ngài đã chứng được cái trí này nên ngài trùng tuyên lại những gì Phật đã nói không bao giờ sai và thiếu là vậy.

Cho nên khi đã chứng nhập được trí nầy rồi, không cần tu không cần học nữa, nên trong kinh một loạt phủ nhận hết sáu căn, sáu thức, sáu trần,  18 giới, 12 nhân duyên, Tứ đế, không trí, không đắc, không chứng, không Niết bàn… Ví như khi ta còn nghèo khổ thì cái gì đối với ta cũng quý hết, từ cái nhỏ đến cái lớn ta đều trân trọng, ai xin cũng không muốn cho, mất lại tiếc. Nhưng khi ta tự dưng trúng số độc đắc thì bao nhiêu cái nhỏ nhặt ta đã có ngày xưa nay ta không cần thèm ngó nữa, không cần phải đi làm cực nhọc kiếm từ đồng từng cắc nữa. Lúc này không cần làm mà vẫn có ăn, muốn gì có nấy không còn cực khổ thiếu thốn như xưa, không còn lo sợ, bận rộn, thức khuya dậy sớm v.v…Cái trạng thái khi chứng nhập được tự tánh Bát Nhã rồi thì ta trở thành người tự do tự tại, không bị một thế lực nào mà làm cho ta khổ hay vui v.v… Vượt ngoài sự suy nghĩ đo lường của con người chưa chứng được trí nầy.

Vì vậy cuối kinh Nhã nói là  : Đại thần chú, Đại Minh chú, là vô thượng chú, vô đẳng đẳng chú là vậy. Không có gì lớn hơn, không có gì sáng hơn, không có gì cao hơn, không có gì so sánh được với trí này là vậy.

{]{

KINH BÁT NHÃ HAY TÂM KINH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét