MỤC
ĐÍCH CỦA NGƯỜI TU ĐẠO GIẢI THOÁT
Chủ đích của người tu theo đạo Phật
là đạt đến sự giác ngộ chứ không phải cầu sự sống lâu. Nên đạo Phật không bao
giờ lưu tâm đến sự sống lâu, mà chỉ lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Thế nên 49 năm
trụ thế Đức Thế Tôn lấy sự giáo hoá làm sự nghiệp độ sanh.
Ngài nói đời là bể khổ, khổ là do có cái thân ngũ uẩn, rồi sau đó Ngài chỉ ra
các phương pháp hoá giải để giải quyết các khổ ấy của thân
tâm. Giải quyết được thực tại khổ đau cũng là đạt đến mục tiêu lý tưởng của người
học Phật đạo giải thoát.
Như vậy nội dung giáo lý của Phật dạy có
ba phần : Phần thực tại (tức khổ đau của chúng sanh ), phần phương pháp ( tức
giáo lý hành trì ), phần mục đích ( tức sự giải thoát ). Vậy giáo lý của Phật thuyết có tính cách thiết
thực và có tính cách khả thi, chứ không phải mơ hồ trừu tượng, mà người đời
không biết cho là mê tín dị đoan.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật là giáo
lý “ vô thường” mà người đời không ai hiểu
hết được. Vô thường trong cuộc sống con người là : sanh, già, bịnh, chết luôn
luôn diễn ra hằng ngày với con người bất cứ nơi đâu và thời gian nào cũng vậy,
quá khứ hay vị lai là như vậy.
Đoạn trường vô thanh của Phạm Thiên Thư viết :
“ Lòng như bát ngát mây xanh
Thân như sương tụ trên cành đông mai
Cuộc đời chớp loé mưa bay
Càng đi càng thấy dặm dài nổi
không ”
Mạng sống con người vô thường chỉ
trong một hơi thở, thở vô mà không thở ra thì đã qua đời khác. Vô thường là chỉ
cho sự bất chợt của già, bịnh, chết, thân này sanh mạng đang còn sống bất chợt
chuyển thành tử thi chỉ trong một hơi thở, khác nào hạt sương trên đầu ngọn cỏ,
mặt trời ló dạng thì liền tan, chợt có chợt không, chẳng hẹn cùng người. Đã biết vô thường không hẹn thì hãy ngay ngày
hôm nay siêng lo tu tập chứ hẹn ngày mai.
Trong kinh Đại Tập có kể một câu chuyện
ví dụ về sự nguy hại của ngũ dục, kể rằng : Có một người phạm tội bị vua xử
hình phạt “ voi giày”, khi voi rượt người ấy sợ cắm đầu chạy đến một cái giếng
định nhảy xuống tránh voi đạp. Nhưng giếng sâu, người ấy thấy sợi dây mọc ngang
qua thành giếng, liền nắm lấy dây tuột xuống, giữa chừng thấy dưới đáy giếng có
ba con rồng phun lửa lên hừng hực, đành
bám chặt sợi dây treo lơ lửng, người ấy tính dựa vào thành
giếng để có điểm tựa an toàn, song lại thấy có bốn con rắn độc đang lè lưỡi muốn
cắn. Đang treo lơ lửng trên đầu dây, lên xuống qua lại đều
chẳng được. Oái ăm thay lại có hai con chuột, một trắng một đen thay nhau gặm
nhấm sợi dây sắp dứt, mạng sống thật mong manh. Thế nhưng, trong khi bối rối,
người ấy ngửa mặt nhìn lên, bổng có đàn ong bay qua làm rơi
năm giọt mật vào miệng. Nếm vị ngọt của mật thấy thích thú, người ấy quên hết nổi
nguy hiếm đang chờ chực.
Phật dùng ví dụ để diễn tả sự say mê năm dục của chúng sanh:
1/ Voi rượt : dụ cho hành khổ và hoại
khổ, tức vô thường đang bức bách; 2/Sợi dây bên giếng : dụ cho đời người quá
mong manh (mạng căn con người ); 3/ Ba con rồng phun lửa : dụ cho ba độc tham,
sân, si, đang thiêu đốt con người; 4/ Bốn con rắn độc : dụ cho tứ đại, đất, nước,
gió, lửa, sẽ làm thân mạng tan rã bất cứ lúc nào; 5/ Hai con chuột trắng đen đang gặm nhấm sợ
dây : Dụ cho ngày và đêm; 6/ Năm giọt mật
: dụ cho 5 giọt mật làm cho đời người đang say đắm quên đi cái khổ vô thường to
lớn đang bức bách đời người.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét