NHỮNG
ĐIỀU KỲ BÍ TRONG CUỘC ĐỜI NGÀI HƯ VÂN
1.
CHÀO ĐỜI
-
Ngài Hư Vân thọ 120 tuổi, sinh 29-7 năm
Giáp Thân 26/8/1840 tại tỉnh Phước Kiến, chào đời tại phủ Tuyền Châu. Cha mẹ
ngài hơn 40 tuổi mà vẫn hiếm muộn con, mẹ ngài đến chùa Quan Âm cầu con, bà thấy
mặt tiền chùa và cây cầu phía Đông bị hư, bà phát tâm tu bổ lại.
Ngày
nọ, mẹ ngài nằm mơ thấy một người mặc áo xanh tóc dài, đội mũ Quan Âm cưỡi hổ đến
và nhảy lên giường nằm, mẹ ngài giật mình thức giấc, cảm giác có mùi hương thơm
lạ phả đầy nhà. Bà kể chuyện mộng cho cha ngài nghe, không ngờ ông cũng mơ thấy
y như vậy. Sau đó mẹ ngài mang thai, và ngài sanh vào ngày 29 -7 năm Giáp thân
tại phủ Tuyền Châu.
Lúc
thân mẫu sinh ra ngài, thấy chỉ là cái bọc thịt nên bà rất sợ và tuyệt vọng, bà
xúc động quá tắt hơi rồi từ trần. Ngày
hôm sau có ông thầy lang đi tới xé cái bọc ra mới thấy bên trong có một bé
trai. Thứ mẫu ngài lãnh việc nuôi dưỡng ngài.
Ngay
từ nhỏ ngài không ưa ăn mặn, hễ người nhà cho ăn thịt cá thì nôn ra hết. Hễ thấy
tượng Phật, pháp vật Tam bảo thì rất mừng, ai cũng lấy làm lạ.
Năm
Tân Hợi lúc 12 tuổi, cha ngài có việc đi Đài Loan dẫn ngài theo. Đi trên một
chiếc thuyền nhỏ khởi hành từ Hạ Môn, đang lênh đênh trên biển thì bổng thấy hiện
sừng sững một con quái vật khổng lồ, lưng to như quả núi
nhô cao trên mặt biển tới mấy mươi thước. Mọi người trên thuyền đều hoảng kinh,
đồng chấp tay niệm Quan Âm. Thuyền đi được nửa giờ mới tới
được cái đuôi con vật, thấy là hình cá. Con cá này thật dài không biết bao
nhiêu dặm.
Lúc
13 tuổi theo cha đưa linh cữu bà nội về
quê ( đất Tương) an táng. Gia đình mời chư tăng đến làm đám,
ngài thấy các Pháp vật Tam bảo trong lòng rất vui. Sẵn trong nhà có kinh Phật,
ngài đọc truyện Hương Sơn kể về việc thành đạo của Bồ Tát Quan Âm, tâm tư vương
vấn mãi. Lúc theo chú ngài đến Bồ Đường,
đi dâng hương ở Nam Nhạc, dạo các cảnh chùa. Lòng ngài bồi hồi xúc động, cảm
giác như có duyên xưa, ý chẳng muốn quay về nhưng sợ chú không dám nói ra.
Năm ngài 14 tuổi, cha ngài biết con mình có chí
xuất trần, muốn giữ ngài lại nhà nối nghiệp, bèn thỉnh mời thầy họ Vương đến dạy
pháp tu Tiên, luyện Khí Công. Trong lòng ngài không ưa nhưng không dám bày tỏ.
Năm
17 tuổi cha ngài về quê lo công việc giao cho chú ngài chăm sóc, ngài ở nhà đọc
sách Tiên được ba năm, thầm biết đây không phải là pháp giải thoát rốt ráo nên
lòng khó chịu như ngồi trên gai, song bề ngoài tỏ ra ngoan ngoãn, ráng chăm coi
việc nhà để chú vui lòng, hòng thoát sự giám sát nghiêm nhặt của ông.
Ngày
nọ chú ngài đi vắng, nghĩ là duyên thoát tục
đã tới, bèn ôm gói trốn lên Nam Nhạc, ai dè mới đi được nữa đường thì bị
bắt lại. Chú đem lại về nhà.
Không
lâu, cha ngài cho rước hai tiểu thư họ Đàm và họ Điền về làm lễ thành hôn cho ngài, rồi nhốt chung
hai tiểu thư với ngài cùng ở chung một phòng ( nhưng lòng ngài không nhiễm ),
ngài còn thuyết pháp cho hai nàng nghe. Có người tên Phú Quốc có chí xuất tục,
ngài cũng giảng cho nghe luôn. Kết quả từ phòng khuê ra đến bên ngoài, đều thành pháp lữ.
2.
CẦU ĐẠO :
Năm
1858, ngài 19 tuổi, quyết chí lìa tục cầu
đạo, Ngài cũng Phú Quốc trốn đến chùa Dũng Tuyền núi Cổ Sơn, đảnh lễ ngài Thường
Khai xin xuất gia xuống tóc. Năm 20 tuổi Ngài theo Hoà Thượng
Diệu Liên, Cổ Sơn thọ cụ túc giới có tên Cổ Nham, hiệu Điển Triệt, tự Đức
Thanh.
Bấy
giờ cha Ngài ở Tuyền Châu sai người đi khắp nơi tìm con. Phú Quốc sau khi thọ
giới xong thì du phương và biệt tích. Phần Ngài trốn ở động đá sau chùa, chăm
lo lạy sám hối Vạn Phật, không dám ló mặt ra ngoài.Thỉnh thoảng gặp cọp không
biết sợ.
Năm
ngài 23 tuổi, trốn trong sơn động lễ bái vừa tròn ba năm. Ngày nọ có vị chức sự
ở Cổ Sơn đến báo tin : Ông Tiêu, thân phụ của Ngài đã cáo lão từ quan về cố
hương ( Tuyền Châu ) rồi, Ngài không cần phải trốn nữa. Hoà
Thượng Diệu Liên khen Ngài có chí kiên quyết khổ tu, nhưng mà tu huệ chưa đủ, cần
phải tu phước nữa.. bảo Ngài hãy về
chùa nhậm chức, làm việc phụng sự đại
chúng, Ngài trở về sơn môn nhận việc.
Năm 25 tuổi, đang làm chức sự tại chùa Cổ Sơn, mùa đông tháng chạp nghe
tin cha Ngài bệnh, và mất tại đất Tương, từ đó Ngài dứt bặt gia duyên, cắt đứt
thư từ.
Năm
27 tuổi có người đến báo tin : “ Sau khi thân phụ Ngài qua đời, Vương Thứ mẫu dẫn
hai cô dâu đi xuất gia hết. Thứ mẫu pháp danh Diệu Tịnh cô Điền là Chơn Khiết,
cô Đàm là Thanh Tiết.
Ngài
làm chức sự ở chùa Cổ Sơn được bốn năm, tập tu khổ hạnh, tình nguyện làm các việc
nặng nhọc… Trong chúng có chia phần cúng dường gì Ngài đều không nhận, hằng
ngày chỉ dùng một bát cháo mà khí lực vẫn sung mãn, mạnh mẽ.
Trong
sơn môn lúc ấy có Thiền sư Cổ Nguyệt là khổ hạnh đệ nhất, Ngài thường trò chuyện
với ông rồi thầm nghĩ : “ Mình làm chức sự đã nhiều năm, nhưng việc tu vẫn chưa
vừa ý. Ngày xưa thầy Huyền Trang vì muốn đi Ấn Độ thỉnh kinh nên suốt 10 năm đã
học tập ngoại ngữ, hằng ngày luyện đi trăm dặm, còn tập tuyệt thực. ban đầu nhịn
một ngày sau tăng lên nhiều ngày để phòng khi qua sa mạc mênh mông không nước uống…người
xưa chịu khó vậy đó, lẽ nào mình không noi theo.
Thế
là ngài từ chức Tri sự, cho hết đồ, chỉ giữ lại một mảnh áo
chắp, một đôi dép, một quần, một áo, một bồ đoàn… rồi đi vào núi tìm hang mà ở. Từ 28,29, 30
tuổi suốt ba năm này, ngài ở trong hang núi, chỉ ăn trái thông, rau cỏ..khát
thì uống nước suối. Lâu ngày quần áo giày dép đều mục nát, chỉ còn manh áo chắp
che thân, tóc dài phải bó thành búi, râu thòng cả thước, đôi mắt sáng rực. Người
ta nhìn thấy Ngài từ xa thì cho là quỷ, hoảng hốt bỏ chạy, Ngài cũng chẳng nói
chuyện với ai.
Một
hai năm đầu khi ngồi thiền dù thấy cảnh tượng thù thắng hiện ra, Ngài không cho
lạ lùng đặc biệt gì, chẳng thèm để ý đến, cứ chuyên tâm thiền quán, niệm Phật.
Trong chốn núi sâu thăm thẳm, cọp sói không làm hại, rắn độc không xâm phạm,
Ngài không tiếp láng giềng, không ăn đồ nấu nướng nhân gian, sống cảnh màn trời
chiếu đất, thấy muôn vật đều đầy đủ nơi mình, trong lòng tự vui như cõi Tứ thiền.
Những mối lo của thế nhân thảy đều phát xuất từ tai và miệng, Ngài lúc bấy giờ
một bát cũng không có, vẫn sống vô ngại tự tại, thư thái an nhiên, thể lực ngày
một cường tráng, tai mắt sáng tỏ, cất bước nhẹ nhàng nhanh lẹ như bay. Cũng
không biết vì sao mà được như vậy. Tâm tự do tự tại, có núi để ở, có cỏ để ăn,
đi đi lại lại, quên hết tháng ngày.
Năm
31 tuổi, một hôm ngài đến núi Ôn Châu, đang ngồi nghỉ tạm thì có một Thiền nhân
đến lễ bái, thưa :
-
Từ lâu được nghe cao hạnh của Ngài, xin hãy khai thị cho :
Nghe
ông ta nói, Ngài hổ thẹn đáp :
-
Tôi kiến thức còn ngu muội, tham học ít, xin Thượng toạ từ
bi chỉ dạy.
Ông ta hỏi :
-
Thầy tu thế này bao lâu rồi ?
Ngài
bèn thuật lại những gì đã trải qua. Ông nói :
Tôi
cũng tham học ít nên cũng không thể bày cho Thầy. Thầy hãy đến am Long Tuyền ở Hoa Đỉnh, núi Thiên Thai, thỉnh giáo lão Pháp sư Dung Kính,
Ngài là bực đạo cao đức trọng bậc nhất nơi đây, chắc sẽ giúp ích cho Thầy.
TU KIỂU NÀY Chẳng
KHÁC GÌ NGOẠI ĐẠO
Ngài
đi thẳng lên Hoa Đỉnh, gặp một vị Tăng ngoài thảo am, liền hỏi :
-
Lão Pháp sư có ở đây không ạ ?
Vị
Tăng đáp :
-
Ngài đang ngồi vá áo ở kia kìa !
Ngài
tiến đến trước Pháp sư thi lễ. Pháp sư
không thèm dòm. Ngài thưa :
-
Con đến xin thọ giáo, cúi mong ngài rủ lòng từ bi.
Pháp
sư nhìn ngài hồi lâu rồi hỏi :
-
Ông là Tăng ? Đạo sĩ hay người đời ?..
-
Con là Tăng.-Thọ giới chưa ?-Thưa, đã thọ giới đầy đủ !
-
Tu mửng này được bao lâu rồi ? Ngài thuật lại mọi chuyện, Pháp sư hỏi :-Ai bày
ông làm như vậy ?
-
Thưa,do con thấy cổ nhân tu đạo hay hành khổ hạnh nên con bắt chước.
-
Ông chỉ biết cái đạo gìn thân của cổ nhân, vậy chứ có hiểu cái thuật giữ tâm của
cổ nhân chăng ? Ta thấy ông tu kiểu này chẳng khác gì ngoại đạo, vừa không đúng
pháp, lại mất uổng 15 năm công phu. Ví ông có ở trong núi, uống nước suối, ăn cỏ
mà sống tới vạn năm, chẳng qua cũng thuộc vào một trong mười loại Tiên mà Kinh
Lăng Nghiêm tả, còn cách đạo rất xa. Mà dẫu ông có tiến thêm một bước, chứng được
Sơ quả đi nữa, thì bất quá chỉ là anh chàng tự liễu trong
các quả Thanh văn, La hán. Nếu thật là Bồ tát phát tâm, thì phải “ Trên cầu Phật
đạo, dưới độ chúng sanh, tự độ, độ người, nghĩa là tuy xuất thế gian mà chẳng
lìa pháp thế gian ”.
Nay
ông ép mình nhịn ăn, đến quần cũng không mặc, chẳng tránh được kiểu phô trương
kỳ ôn dị hợm, ông chẳng thấy lạ là công phu mình không thăng tiến hay sao?
Ngài
bị Hoà thượng Pháp sư giáng cho một đòn đau thấu xương, chỉ
biết lễ vùi, cầu khai thị.
Ngài
bảo : - Giờ ta dạy, nếu chịu nghe thì ở lại, bằng không, muốn đi đâu tuỳ ý…
Ngài
đáp : Con đã đến xin học, nào dám không nghe. Pháp sư liền tặng cho quần áo,
giày dép, bảo Ngài cạo tóc, tắm rửa, đi làm công tác và dạy tham câu thoại đầu “ Người kéo thây chết này là ai?”.
Ngài bắt đầu ăn cháo, ăn
cơm và học pháp quán Thiên Thai, siêng năng chấp tác. Lão pháp sư có vẻ hài
lòng .
Năm
32 tuổi, ở am Long Tuyền hầu Sư có chút khai sáng. Sư Dung Kính tuổi đã hơn 80,
giới luật tinh nghiêm; Thiền, Giáo đều thông. Sau đó Hoà
thượng khuyên Ngài nên đi du phương tham học.
Năm
33 tuổi Ngài vâng lời Pháp sư, đi đến chùa Quốc Thanh học Thiền, đến chùa
Phương Quảng học Pháp Hoa. Từ 34-35 suốt hai năm, ngài học kinh giáo ở chùa Quốc
Thanh, thỉnh thoảng về thảo am thân cận với Pháp sư Dung kính.
Năm
36 tuổi. đến chùa Cao Minh nghe Pháp sư Mẫn Huy giảng Pháp Hoa rồi về từ giã biệt
Pháp sư Dung Kính, do còn lưu luyến quá nên Ngài đàm đạo thêm vài hôm nữa rồi cung kính tạ từ.
Ngài
xuống núi, qua Tuyết Đậu, đến chùa Nhạc Lâm nghe giảng kinh Di Đà rồi qua sông
lên núi Phổ Đà, ở đó cho đến hết năm. Lúc ở Phổ Đà Ngài đi tham học hết các
chùa quanh đấy.
Tháng
10 năm này, sóng biển đẩy vào một con cá mắc cạn, dài mấy mươi trượng, mắt to
như cái chậu. Dân chài làm thịt, mổ bụng cá ra thấy trong bụng có hai chiếc
thuyền, có tóc, vòng vàng cùng nhiều vật khác. Họ lấy xương sống cá làm cột
nhà, các xương lớn làm xiên, trính. Rồi khi nước triều dâng lên, Ngài thấy ở động
Tiều Dương có một con rồng bơi tới, vảy nó óng ánh như vàng, toàn thân và bốn
chân đều hiện đủ, chỉ cái đầu là không thấy, đuôi nó giống như đuôi cá, giây
lâu mới bỏ đi.
Năm
37 tuổi, từ Phổ Đà trở về Ninh Ba ở chùa
A Dục, Ngài nguyện lạy hai tạng xá lợi để báo ân cha mẹ, rồi đến chùa Thiên Đồng
nghe giảng kinh Lăng Nghiêm. Năm 39 Ngài đến chùa Thiên Minh, lễ Hoà thượng Thanh Quang. Năm
40 tuổi đến Tiểu Sơn lễ Hoà thượng Đại Thuỷ. Tại đây thường
đàm luận Phật pháp với viên Sĩ quan Hải quân Bành Ngọc Lâm, ông đối với Ngài thật
kính tín. Năm 41 đến chùa Kim Sơn, thân cận Hoà thượng Đại Định và toạ thiền hết
mùa đông. Năm 42 tuổi đến chùa Cao Mân ở Dương Châu lễ Hoà
thượng Lăng Huy. Ở lại đây hết mùa đông, công phu hành thiền ngày một thăng tiến.
3-
BÁI HƯƠNG :
Năm 43 tuổi,
Ngài ở chùa Phổ Đà mấy tháng, khi tĩnh toạ cũng thấy
chút thắng cảnh. Ngài nghĩ thầm : “ Mình cắt ái từ thân, cạo tóc xuất gia hơn
20 năm rồi mà đạo nghiệp vẫn chưa thành, cứ lông bông phiêu dạt, thật là hổ thẹn”…Nghĩ muốn báo đền ơn đức cù lao nên Ngài quyết định sẽ bái hương từ Đông Nam Hải đến Bắc
Ngũ Đài.
Ngày
mùng 1 tháng 7 năm Nhâm Ngọ ( 1882 ), Ngài phát thệ triều lễ Ngũ Đài Sơn. Bắt đầu
lễ từ Am Pháp Hoa núi Phổ Đà. Hễ đi ba bước thì lạy một lạy, cứ thế đi mãi, bao
giờ đến Ngũ Đài Sơn thì xem như thệ nguyện viên mãn.
Mới
đầu có bốn Thiền giả là Biến Chơn, Thu Ngưng, Sơn Hà, Giác Thừa cùng đi theo phụ
hương. Nhưng sau khi vượt biển thì mỗi ngày đi
chẳng được bao nhiêu, phải dừng lại ở Hồ Châu. Khi đến Tô Châu, Thường
Châu, thì các vị đồng hành dần dần rút lui hết, rốt cuộc chỉ còn một mình ngài
miệt mài triều lễ. Sáng đi tối nghỉ, dù trời quang hay mưa gió Ngài vẫn cứ đi,
tam bộ nhất bái, chuyên tâm hành lễ dốc lòng niệm Thánh hiệu Bồ Tát, không màng
no đói, khổ vui.
Ngài
đến bến Thiết Hàm sông Hoàng Hà, qua Lăng Quan Vũ. Ngày mùng một nghỉ đêm tại lữ
điếm, mồng hai qua sông, đến bờ thì trời đã tối nên chẳng dám đi. Lúc này bốn bề
vắng lặng không một bóng người. Thấy ven đường có một chòi tranh trống, Ngài
bèn vào đó ngồi kiết già. Ban đêm khí trời càng lạnh, rét buốt xương, tuyết rơi
mù mịt. Sáng ra vừa mở mắt nhìn, thấy thế giới như hoá lưu
ly, tuyết phủ dày cả thước, chẳng còn lối đi, không một bóng người lai vãng,
cũng chẳng biết phương hướng đâu mà lai vãng. Mới đầu Ngài còn ngồi niệm Phật,
ráng chịu đói lạnh, chòi tranh lại không có vách, rét đến nỗi
Ngài phải nằm co. Đã vậy tuyết mỗi lúc càng đổ mạnh, phả hơi lạnh khiếp khủng,
bụng đói như cào, hơi thở mỗi lúc một yếu dần chỉ còn thoi thóp, nhưng chánh niệm
không mất. Đến xế trưa ngày mùng sáu,
tuyết ngừng rơi, đã thấy ánh mặt trời hiện ra le lói, nhưng Ngài đã bị bệnh nặng,
không sao ngóc đầu lên được.
Sáng
mùng bảy, có ông ăn mày đi tới, thấy Ngài nằm vùi trong tuyết bèn lên tiếng lại
gần hỏi thăm, nhưng Ngài không mở miệng được. Biết Ngài bị nhiễm lạnh, ông ta
bèn gạt tuyết, rút cỏ trên mái tranh để nhen lửa sưởi ấm cho Ngài. Sau đó
ông lấy tuyết nấu cháo cho Ngài ăn. Được hơ ấm, Ngài tỉnh lại. Ông ăn mày hỏi :
-
Thầy từ đâu đến ? - Nam Hải
-
Định đi đâu ? – Triều lễ Ngũ Đài
Ngài
họ tên gì ? thì ông đáp : Tôi họ Văn tên Cát
-
Ông ở đâu tới, định đi đâu ?
-
Từ Ngũ Đài đến, tính đi trường An
-
Ngũ Đài hả ? Vậy có thường viếng chùa không ?
-
Ở đó ai cũng biết tôi hết.
-
Từ đấy đến Ngũ Đài phải đi qua những nơi nào ?
-
Qua Mạnh huyện, Hoài Khánh……
-
Từ đây đến núi còn bao xa ?
-
Hơn hai nghìn dặm ( 1000 km )
Văn Cát
hỏi Ngài phát tâm triều lễ danh sơn với ý muốn gì?
-
Ngài
nói tôi phát tâm triều lễ là để báo đáp
thâm ân cha mẹ.
Văn
Cát thấy ngài mang nhiều hành lý nặng nề, đường lại xa thăm thẳm, thời tiết giá
buốt, đi kiểu này làm sao tới. Hãy thôi đi, khuyên Ngài đừng lễ nữa.. Nhưng Ngài nói tôi đã phát nguyện này từ lâu
hằng ôm ấp, đã muốn từ lâu thì kể chi năm tháng .
Văn
Cát trả lời : Nguyện của Thầy thiệt là khó và Văn Cát hướng dẫn Ngài đường
đi,…. Văn Cát nói xong bằng thì cáo biệt…
từ đây Ngài trải qua nhiều địa phương qua nhiều chùa
tá túc được nhiều vị trụ trì đón tiếp ủng
hộ chu đáo và cũng có chùa không cho Ngài nghỉ lại phải ngủ qua đêm ở ven đường.
Rồi trong đêm Ngài bị đau bụng, dẫn đến bị kiết lỵ, không ăn không uống kiệt sức,
gặp phải một cái miếu cũ không nóc nằm trên đỉnh, Ngài nghỉ lại trong miếu này,
kiệt sức không đi được nữa, nằm bẹp, hết nhúc nhích.
Miếu
trên đỉnh, không người lai vãng, chỉ còn nằm chờ chết, nhưng lòng không chút hối
hận. Bỗng khuya thấy có người đốt lửa phía tây vách, Ngài tưởng là bọn phỉ tặc,
nhìn kỹ hồi lâu đó là Văn Cát- Mừng quá Ngài gọi :
Văn
Tiên sinh ơi ! Ông ta cầm lửa đến soi hỏi
:
-
Đại sư phụ sao tới giờ vẫn còn ở đây ?
Ngài kể cho ông nghe mọi việc. Văn Cát ngồi xuống an ủi và đưa nước cho
Ngài uống.
Đêm
đó gặp được Văn Cát, thân tâm Ngài được thanh tịnh.
Qua
ngày sau Văn Cát đem mớ quần áo nhớp
nhúa của Ngài đi giặt và cho Ngài uống bát thuốc. Qua ngày 17 bệnh Ngài thuyên giảm, ăn hai
chén cháo gạo rang, mồ hôi toát ra, trong ngoài đều khinh an.
Ngài
hết bệnh, tạ ơn Văn Cát. Hai lần nguy hiểm đến tính mạng đều được Tiên sinh cứu,
tôi thật mang ơn quá.
Văn
Cát nói : chuyện nhỏ mà.
Ngài hỏi : Tiên sinh từ đâu đến ?
-
Từ Trường An _ Giờ tính đi đâu ? - Về Ngũ Đài….
Văn
Cát lại nói : Tôi thấy đường còn xa, sức
Thầy lại không khoẻ, đi biết bao giờ cho tới, thật khó hành
trì, thôi đừng có lễ nữa.
Ngài
trả lời: cảm tạ lòng tốt của Tiên sinh ! Tôi vừa chào đời đã không gặp được mẹ.
Thân mẫu vì sinh tôi ra mà mất. Cha tôi có mình tôi là con một, nhưng tôi lại
trốn đi tu khiến ông buồn, từ quan rồi mệnh chung. Mấy mươi năm nay lòng tôi âm
thầm đau xót, áy náy không yên, chỉ biết phát nguyện triều sơn, cầu Bồ Tát Văn
Thù gia hộ cha mẹ tôi thoát khỏi biển khổ, sớm sinh về cõi Tịnh. Vì vậy dù có gặp
trăm tai ngàn nạn, nếu không đến được Thánh cảnh Ngũ Đài thì tôi thà chết, chứ
quyết không bỏ cuộc.
Văn
Cát nói : Hiếu tâm của Thầy kiên cố quá !
Giờ tôi về núi cũng không có gì gấp, xin tình nguyện gánh hành lý giùm
cho Thầy, nấu nướng phục vụ, làm bạn đồng
hành hỗ trợ để Thầy rảnh tay lễ bái, không bị phân tâm.
Được
vậy thì may quá ! Công đức của Tiên sinh quá là vô lượng ! Nếu mà tôi lạy được
đến nơi, thì công đức này tôi nguyện chia hai : Một phần hồi hướng cho cha mẹ
tôi sớm được giác ngộ, còn một phần xin tặng cho Tiên sinh để báo đền ân đức ..
-
Tôi chẳng dám nhận đâu, thầy vì báo hiếu con tôi thì thuận đường, có gì mà phải
mang ân..
Văn
Cát chăm sóc Ngài thêm bốn ngày nữa thì bệnh khỏi hẳn.
Ngày
19 tháng giêng, Ngài khởi sự bái hương. Từ đây hành lý.. vật thực… tất cả đều
do một tay Văn Cát lo liệu. Ngài nhờ vậy mà vọng tưởng dừng lặng. Trong, ngoài
không vướng bận, lòng an lạc rỗng rang, bệnh hoạn tiêu trừ, thể lực một ngày
thêm cường tráng. Từ sớm đến tối có thể vừa đi vừa lạy đến 45 dặm ( tương đương
22,5 km ) mà không thấy khổ mệt gì.
Cúi
tháng ba Ngài đến chùa Ly Tướng huyện Thái Cốc. Chào nhau xong, vị Tri khách nhìn trừng trừng vào Văn Cát, hỏi
Ngài :
-
Y
này là gì của ông ? Ngài thuật lại mọi
chuyện.
Tri
khách cao giọng quở : Thầy ra ngoài hành cước mà không thức thời ! Mấy năm nay
miền Bắc mất mùa đói khổ liên miên thì triều lễ cái quái gì ? Thầy có phải là
quan lớn đâu mà đến chỗ nào cũng dẫn người hầu kè kè theo ? Nếu đã muốn hưởng
thụ thì ở nhà quách đi…. Còn vác mặt ra đường làm chi ? Thầy thấy có chùa nào
cho kẻ tục quải đơn không hử ?
Bị
quở trách dữ dội, Ngài không dám hó hé, vội xin cáo lỗi, cáo từ thì Tri khách nói :
-
Lẽ nào như vậy ? Đó là tự Thầy muốn đi, chứ ai đuổi đâu ?
Ngài
nghe vậy bèn ướm lời : Văn Tiên sinh tôi sẽ cho ra ngoài quán trọ ngủ, phần tôi
xin tá túc ở đây một đêm có được không ?
-
Được ! Văn Cát nói : - Từ đây đến Ngũ
Đài không còn xa nữa, tôi xin phép đi trước, Thầy từ từ đi sau nhé. Hành lý của
Thầy không lâu sẽ có người mang lên núi giùm…
Ngài
cố lưu Văn Cát lại nhưng không được, bèn lấy tiền biếu tặng, nhưng ông không nhận,
từ biệt rồi đi.
Văn
Cát vừa đi khuất dạng thì thầy Tri khách đổi ngay sắc mặt, ra chiều rất hoan hỷ.
Ông đích thân xuống bếp làm thức ăn, sốt sắng pha trà, chế
mì…bưng lên đãi Ngài. Cử chỉ thật quái dị ! Ngài dòm quanh chùa, thấy không có
ai, thắc mắc hỏi :
-
Chúng ở đây được bao nhiêu người ?
Ông
ta đáp : - Tôi ở ngoại giang đã lâu, về đây trụ trì mấy năm nay liên tiếp mất
mùa, chùa chỉ còn mình tôi, lương thực có thế này thôi. Hành động nảy giờ là
đùa chơi, xin Thầy đừng trách nhé !
Ngài
nghe ông ta nói mà lỡ khóc lỡ cười, lòng thật xốn xang, ăn qua quý nữa chén mì
rồi cáo từ, gấp rút tìm Văn Cát. Thầy Tri khách năn nỉ Ngài ở lại, nhưng lòng dạ
đâu còn dám nhận lời ? Ngài đi khắp quán
trọ hỏi thăm, nhưng tìm không ra tung tích Văn Cát. Hôm ấy là rằm tháng tư,
trăng sáng vằng vặc. Ngài nôn nóng muốn đuổi theo Văn Cát nên đi luôn đêm, ruột
gan nóng như lửa. Vừa đi vừa lễ, cứ nhắm hướng Thái Nguyên mà bước. Hôm sau đầu
Ngài bốc hoả, mũi chảy máu cam ròng ròng.
Ngày 20 Ngài đến chùa Bạch Vân. Vị Tri khách thấy miệng mũi Ngài đầy máu tươi nên không
cho ở. Sáng ngày 21 ngài đến thành Thái Nguyên ghé chùa Cực Lạc, cũng bị xua đuổi
không cho tạm trú. Sáng 22 rời khỏi thành, triều lễ đến ngoài cửa Bắc thì gặp một
vị Tăng trẻ tên là Văn Hiền, Thầy đến gần chào hỏi, đón lấy hành lý, mời Ngài
ghé vào chùa rồi dọn cơm nước mời, tỏ lòng yêu kính hết mực như đối với người
thân.
Ngài
hỏi Văn Hiền tuổi đời chỉ hơn 20 tuổi, vì sao trụ trì ở đây?
Văn
Hiền kể gia cảnh của mình, Thân phụ của mình làm quan đã
nhiều năm bị gian thần ám hại chết, Thân mẫu giận quá mà chết. Sau đó các quan ở
địa phương quen biết thân phụ ông nên mời về đây ở trụ trì. Văn Hiền chứng kiến
đạo phong, lòng mến mộ Ngài, nên cầu thỉnh Ngài ở lại xin được thân cận.
Ngài
giải thích sự việc của mình phải thực hiện cho xong đại nguyện triều lễ Ngũ
Đài, Văn Hiền cảm phục và năn nỉ giữ Ngài lại 10 ngày rồi mới cho Ngài đi, còn
tặng y phục, vật thực và lộ phí, nhưng Ngài không nhận. Văn Hiền phụ vác hành
lý tiễn đưa Ngài hơn 5 cây số rồi mới chịu chia tay, mắt dâng đầy lệ.
Rồi
Ngài nhắm đến hướng Hàng Châu tiến bước. Một sáng nọ, đang lễ bái trên đường,
thì đàng sau có một chiếc xe ngựa tiến đến, chạy chầm chậm chứ không vượt qua,
Ngài thấy vậy bèn tránh qua một bên. Vị quan trên xe bước xuống hỏi :
-
Vì sao Đại sư lại lễ bái giữa đường ?
Ngài
thuật lại nguyên do, vị quan này là người đất Tương, chuyện trò rất tâm đắc.
Ông bảo : Tôi hiện đang trú tại chùa Bạch Vân ở Nga Khẩu. Thầy triều sơn thế
nào cũng đi ngang qua đó, để tôi mang hành lý của Thầy đến đó trước giùm.
Ngài
cảm tạ, Ông vái chào rồi cho xe đi. Từ đây Ngài hằng ngày triều lễ, không còn
trở ngại gì nữa. Khoảng trung tuần tháng
năm thì Ngài đến chùa Bạch Vân, vị quan mang giùm hành lý gặp lại Ngài, vui vẻ
mời về doanh trại, ưu ái thiết đãi. Ngài nghỉ lại ba ngày rồi cáo từ, vị quan
cúng dường lộ phí vật thực trọng hậu nhưng Ngài không nhận, thế là ông sai binh
sĩ mang hành lý đến chùa Hiển Thông.
Rồi
Ngài khởi lễ đến núi Khuê Phong, trải qua các nơi như Bí Ma, hang Sư Tử, Long động
….thấy non xanh nước biết xinh đẹp lạ lùng khó mà tả cho hết, nhưng do bận bái
hương nên ngài chẳng thể thưởng ngoạn.
Cuối
năm Ngài đến chùa Hiển Thông, lính hầu trao hành lý cho Ngài rồi từ biệt. Đến chùa Hiển Thông, Ngài dâng hương các chùa
lân cận, đến đâu cũng hỏi tung tích của anh chàng Văn Cát kỳ lạ nhưng không ai
biết. Cuối cùng ngài gặp một lão Tăng, ông chăm chú nghe Ngài thuật lại mọi
chuyện rồi cung kính chấp tay nói :
-
Đó là hoá thân của Bồ Tát Văn Thù. Rồi Ngài đảnh lễ cảm tạ..
Rồi
Ngài khởi hương lễ lạy đến Đông Đài, đến Thạch thất dâng hương, sớm tối lễ tụng,
toạ thiền bảy ngày rồi xuống lễ hang động Na La Diêm, đến
đây lương thực vừa hết. Mùng 1 tháng 6, Ngài quay về chùa Hiển Thông. Mùng 2 khởi
sự triều lễ lên đỉnh Hoa Nghiêm, ở lại một đêm. Rồi lễ Bắc Đài, Trung Đài, Tây Đài mỗi nơi ở lại một đêm, rồi
trở về chùa Hiển Thông.
Mùng
7 lễ Nam Đài, ở lại đả thất, đến ngày 17 trở về chùa Hiển Thông, tham gia Hội Đại
Phật tháng sáu. Ba năm bái hương cầu
siêu cho song thân đã xong. Trong ba năm này, trừ những lúc tật bệnh, mưa gió
tuyết sương cũng không thể ngăn Ngài triều lễ, trên đường nhất tâm chánh niệm.
Hành trình lễ bái gặp nhiều gian nan, nhưng lòng nhẹ nhàng hoan hỷ. Nhờ cảnh mới
biết được tâm. Càng vấp phải đắng cay, càng tỉnh giác, an ổn. Nhờ vậy mới biết
được người xưa : “Tiêu được một phần tập
khí liền được một phần quang minh, nhẫn được mười phần phiền não liền có chút
ít Bồ đề ”.
Suốt lộ trình hành lễ Ngài đi qua không biết
bao nhiêu danh lam thắng cảnh, từ Phổ Đà đến
Giang Triết, Trung Châu, Hoàng Hà, Thái Bình ….khó mà kể cho hết. Các tập
du ký xưa nay dù có tường thuật tỉ mỉ các cảm tưởng, nhưng xem ra không thể nào
bằng kinh nghiệm của chính mình trải qua. Ngài đã tận mắt chứng kính những thắng cảnh Thanh Lương ở Ngũ
Đài, ngắm cảnh phóng hào quang ban đêm của Đức Văn Thù, trèo lên núi cao nghìn
trượng rét căm căm có tuyết phủ ngàn năm… qua cầu đá cheo leo miệng vực, chiêm
ngưỡng lầu các tuyệt mỹ… là những cảnh không nơi nào sánh được. Do bận bái
hương nên Ngài không kịp thưởng ngoạn, đến khi ước nguyện đã hoàn thành, Ngài mới
từ từ cất bước ngao du…
Lời
bình
: Văn Cát là hoá
thân của Ngài Văn Thù Bồ Tát, hoá thân là một gã ăn mày, săn sóc chăm lo cho Ngài từ 15/1 đến
18/4 tính ra hơn ba tháng. Trong suốt ba năm triều lễ. Văn Cát đã xuất hiện cứu
nguy kịp thời. HT Hư Vân đi đến đâu thường được nhiều người kính mến, muốn
nương tựa. Nhưng đối với Văn Cát ( người xuất hiện với thân phận một gã ăn mày
) thì Ngài lại ở vào thế tuỳ nương phụ thuộc rất mạnh. Lúc gặp Văn Cát, Ngài có được cảm
giác an ổn, thân tâm thanh tịnh. Đây là một điểm lạ thứ nhất.
Điểm
lạ thứ hai : trời lạnh cóng, tuyết rơi mịt mù che hết lối đi, trên đường không
bóng người qua lại, thế mà ông ăn mày nầy vẫn đi tự nhiên tự tại, không hề lạc,
chính ông để lại dấu chân dẫn đường cho Ngài Hư Vân đi khỏi lạc. Nếu không phải
là Bồ Tát tại sao ông luôn xuất hiện cứu nguy rất kịp thời ? Câu đầu tiên trong
lần đầu gặp, Văn Cát đã giới thiệu về mình :
“ Ở Ngũ Đài ai cũng biết tôi”. Lần thứ hai, gặp Ngài Hư vân bị bệnh kiết
lỵ tức nhiên có lúc đi tướt không cầm được, và quần áo nhớp nhúa ấy do một tay
Văn Cát giặt. Sau đó Văn Cát đảm trách phục dịch hết, từ nấu ăn, gánh hành lý…
ngài Hư Vân chỉ việc lễ lạy thôi. Nhờ gã ăn mày làm thị giả nên suốt ba tháng
ròng lộ trình của Ngài đi bình an, vậy
mà khi đến chùa Ly Tướng “ ai” đã xui khiến vị Trụ trì có thái độ quái lạ chỉ
muốn đuổi Văn Cát đi, đuổi xong thì rất hớn hở- Phải biết trong thời gian này,
ngài Hư vân nương vào Văn Cát rất mạnh, Văn Cát là ăn mày, về Ngũ Đài không có
chuyện gì bận gấp, thì lấy cớ gì để xa ngài Hư Vân đây ? vì khi hành trình đã
êm, chướng nạn đã hết, thì Văn Cát không cần phải giúp nữa, đã đến lúc Văn Cát
phải rút lui, thì thái độ đuổi xua ( tưởng như quái dị ) của vị Trụ trì Ly Tướng
hoá ra lại “ tháo gỡ” cho Văn Cát rất hợp thời. Thêm nữa,
Văn Cát đã bảo ngài Hư Vân “ Từ đây đến Ngũ Đài không còn xa nữa, tôi xin phép
đi trước, Thầy từ từ đi sau nhé. Hành lý của Thầy không bao lâu sẽ có người
mang lên núi giùm”…
Tại
sao Văn Cát biết là sẽ có người mang giùm hành lý? - Nguyện lớn của ngài Hư Vân
nếu được Văn Cát giúp đã tới đích thì sẽ không còn hay nữa…Dù rút lui nhưng Văn
Cát vẫn trấn an, nói trước những gì sắp sẽ xảy ra cho ngài Hư Vân yên tâm. Một
gã ăn mày tầm thường sẽ không làm được như Văn Cát, bởi vì từ lúc bắt đầu bái
hương, có bốn vị đi theo ngài Hư Vân phụ trợ…nhưng chẳng bao lâu họ thối lui hết,
còn Văn Cát theo ngài Hư Vân, phải giặt giũ nấu nướng, gánh hành lý, công việc
không nhàn nhã song Văn Cát thực hiện rất chu đáo.
Chỉ có ngài Hư Vân chưa ý thức được Bồ Tát
giúp mình, sự tuỳ thuộc vào Văn Cát mạnh mẽ quá, khiến ngài
nóng ruột nóng gan nôn nao tìm kiếm Văn Cát đến nỗi đầu bốc hoả,
mũi chảy máu… Thói thường “ người nhỏ
thích nương người lớn ”, vì vậy đa số các tu sĩ khi gặp ngài Hư Vân đều muốn
theo, đều muốn bày tỏ tâm nguyện muốn nương tựa thân cận Ngài, còn ngài Hư Vân
thì sung sướng muốn nương tựa, thân cận ông ăn mày Văn Cát. Bởi ông đem đến cho
ngài sự bình an, cảm giác thanh tịnh cả thân lẫn tâm. Cảm giác này ta chỉ có được
khi đứng trước các bậc minh sư Thánh triết, những bậc Thầy vĩ đại. Ta thấy rõ Bồ
Tát gặp ta không hề xưng là Bồ tát hay
Thánh gì..các Ngài thường hoá hiện ở thân phận thấp kém nhất, nhưng thân phận địa vị chỉ là cái áo khoác,
danh xưng. Quan trọng là cung cách ứng xử. Dù khoác chiếc vỏ ngoài thấp kém đến
đâu, cung cách các vị Bồ tát luôn vị tha, từ ái…có đủ tính cách của một bậc Thượng
nhân. Chính hấp lực cung cách của bậc Thượng nhân này,đã đặt ngài Hư Vân ( vốn
là bậc Thánh tái thế ) cũng phải ở vào vị trí tuỳ nương ! Bởi
vậy, giá trị của người ta không nằm ở địa vị chức danh mà ở phẩm cách. Trước
ngài Hư Vân, gã ăn mày Văn Cát thấp kém lại thành điểm tựa vững vàng, mạnh mẽ hỗ
trợ chở che, ban cho niềm an ủi không cùng. Bồ tát là vậy đó.. Trong thực tế, một
ăn mày vốn yếu đuối, sống nhờ vào sự giúp đỡ của người khác sẽ không làm được
như Văn Cát. Văn Cát hiện thân là gã ăn mày, song sự xuất hiện của ông là cứu
người, giúp đỡ, an ủi… Thế nên trong dòng đời, khi gặp những người thấp kém ta
chớ coi thường, Phật luôn nhắc nhở khi giao tiếp nên cung kính Phật tính có sẵn ở mỗi người, mới tránh được lầm lỗi.
DU
NGOẠN
Đại
hội viên mãn, ngài lên đảnh Đại Loa, lễ đèn Trí Huệ. Ngày 10 tháng 7, ngài lễ tạ
Bỗ tát Văn Thù rồi xuống núi. Từ đỉnh Hoa Nghiêm ngài nhắm hướng Bắc thẳng tiến…
Từ đây ngài trải qua các danh lam thắng cảnh chùa miếu nhiều di tích xưa, cùng
gặp gỡ Chư sư đồng tu trao đổi kiến giải rất hữu ích.
Lang
thang một mình, một bát, ba y ngao du sơn thuỷ, hoàn toàn
không vướng bận, cảnh cũng giúp tâm thanh tịnh. Đến các vùng đất rộng người
thưa, có nhiều sắc dân như : Hán, Tạng,
Phồn, Mông, Di, Dao Đồng… ngôn ngữ phức tạp khó nghe, người nói tiếng Hán rất
ít. Rồi đến Thánh địa của Lạt ma giáo, có nhiều núi non hiểm trở, có nhiều sông
ngòi. Các sắc dân này hầu hết là theo Lạt ma giáo. Rồi đến lãnh thổ của Tây Tạng…..cung
điện chùa chiền Tây Tạng rộng lớn, cung điện Potala cao 30 tầng, sắc màu vàng
chói, xây rất trang nghiêm. Có 20 ngàn Lạt ma tu học ở đây…..
Lúc
50 tuổi đầu mùa xuân ngài đi về phương
nam đến nước Bhutan nằm giữa Tây Tạng và Ấn Độ, rồi qua Tích Lan, Miến Điện.
Tâm nguyện của ngài là đi viếng núi Kê
Túc chiêm lễ Tôn giả Ca Diếp… Trong khoảng hai năm, ngài đi ngàn dặm, trừ những
lúc đi biển phải dùng thuyền, còn toàn là lội bộ. Trèo đèo lội suối, xông pha
sương tuyết gió mưa, vượt qua sỏi cát núi ghềnh…ngắm quang cảnh thời tiết đổi thay mà trăng tâm hằng sáng. Thế
lực ngày một cường tráng, cất bước nhẹ nhàng chẳng thấy mệt.
Từ
năm 51, 52, 53,54, 55 tuổi Ngài đi qua các chùa tham dự các khoá
hội, nhập các khoá hạ v.v… đến năm 56 tuổi ngài đến bến đò
Đại Thông, đi men theo bờ sông, gặp lúc nước dâng to, lái đò đòi 6 đồng mà
trong túi ngài không có được một đồng,
nên anh lái đò bỏ ngài đi thẳng. Ngài đành đi dọc theo bờ sông, đang bước thì
trợt chân ngã xuống sông, chìm nổi suốt một ngày đêm, trôi đến bến Thái Thạch thì được các ngư phủ vớt lên và báo cho Tăng
chúng chùa Báo Tích đến nhận. Các Thầy đến nhìn, kinh hoảng kêu lên “ Ôi trời ơi ! Sư Đức
Thanh đây mà” Họ vội khiêng ngài về cứu tỉnh. Lúc này thất khiếu ngài đều ra
máu. Nhưng chỉ tịnh dưỡng được hai ngày thì ngài đi Cao Mân.
Đến Cao Mân, thầy Tri sự thấy dung nhan ngài
thảm hại, ngạc nhiên hỏi “ Có bệnh gì chăng ? “ Ngài đáp dạ không. Rồi lên yết
kiến Hoà Thượng Nguyệt Lăng. Thăm hỏi việc chùa xong, ngài
được bầu làm chức sự. Ngài từ chối, không kể chuyện mình té sông, chỉ xin được
vào Thiền đường dự khoá
tu đả thất tu tập.
Gia
phong Cao Mân nghiêm lắm, được mời làm chức sự mà không tuân thì bị kết tội
khinh mạn đại chúng, phải chịu sự đánh phạt. Ngài lẳng lặng nhận đòn, không
phân trần gì cả, nhưng bệnh ngài trở nặng, thất khiếu chảy máu không ngừng, chỉ
nằm chờ chết.
Ngài
ở Thiền Đường, ngày đêm tinh cần thanh tâm, nhất niệm, chẳng cần biết đến thân
xác ra sao. Hơn 20 ngày thì các bệnh tự khỏi. Bấy giờ sư Trụ trì Đức Ngạn ở bến
Thải Thạch đến, mang theo y phục, vật thực đến cúng dường… nhìn thấy ngài mặt
mày sáng rỡ, ông vui mừng hỏi thăm, an ủi…và thuật lại việc ngài bị té sông cho
mọi người nghe, ai nấy đều cảm phục, không còn bắt ngài làm chức sự nữa.
NGỘ
ĐẠO
Ngài
được rảnh rang tu, từ đây muôn niệm đều dứt, công phu ngày đêm như một, hành động
nhanh nhẹn như bay.
Một
đêm, trong lúc thắp hương, ngài mở mắt nhìn, bổng thấy trời sáng như ban ngày,
nhìn xuyên suốt cả trong lẫn ngoài. Cách một bức vách ngài thấy rõ vị Hương
đăng đang đi tiểu và một vị Sư khác đang ngồi trong cầu, ngài còn thấy luôn ghe
thuyền đang lướt trên sông tận tít đằng xa…thấy luôn màu sắc cây cối hai bên bờ
ra sao, mỗi mỗi đều rõ ràng. Lúc này, tiếng bảng đang báo hiệu canh ba.
Sáng
ra, Ngài hỏi thăm các vị liên quan đến cảnh thấy của mình hồi khuya thì đúng y
như vậy. Ngài biết đây chỉ là cảnh, không cho là kỳ lạ. Đến tháng chạp, vào buổi
tối thứ ba của tuần thứ tám, khi Ngài ngồi đến nén hương thứ sáu, thì vị hộ thất
pha trà rốt nước sôi làm văng trúng tay ngài, chén trà rơi xuống đất vỡ tan,
vang lên thành tiếng, gốc nghi trong ngài ngay đây dứt sạch, cảm giác thật
khoan khoái tuyệt vời ! Ngài giống như người vừa tỉnh mộng, tự nghĩ
mình xuất gia phiêu bạt ngót mấy mươi năm… nhớ lúc ở chòi tranh Hoàng hà, bị
anh chàng thế tục hỏi một câu, chẳng biết đường mà nói… Nếu như khi đó tôi đá
nhào cả nồi lẫn bếp, xem anh chàng Văn Cát thốt lời gì ? Lần này nếu không bị té sông rồi bệnh nặng, nếu
không nhờ gặp thuận cảnh, nghịch cảnh và các thiện tri thức giáo hoá cho, e sẽ còn lầm lạc cả đời, đâu có được như hôm nay.
Nhân đó Ngài làm bài kệ :
Bôi
tử phốc lạc địa
Hưởng
thinh minh lịch lịch
Hư
không phấn toái đã
Cuồng
tâm đương hạ tức
Chén
trà rơi xuống đất
Vang
thành tiếng rõ ràng
Hư
không đà vỡ nát
Cuồng
tâm ngay nơi đây tan
Bài
kệ tiếp theo :
Đãng
trước thủ, đả toái bôi
Gia
phá, nhân vong, ngữ nan khai
Xuân
đáo hoa hương xứ xứ tú
Sơn
hà đại địa thị Như lai
Phóng
tay rơi chén vỡ tan rồi
Nhà
nát người tan khó mở lời
Xuân
đến hoa thơm, nơi nơi đẹp
Núi
sông trời đất là Như Lai.
Năm
61 tuổi, ngài đến núi Chung Nam cất am tranh, kiếm được cái hang Sư Tử phía sau
Ngũ Đài, cảnh trí nơi đây rất u tịch. Muốn cắt dứt ngoại duyên phiền toái, nên
Ngài đổi hiệu là Hư Vân, tên Hư Vân bắt đầu có từ đây…. Ngài nhập thất nhập định trải qua hơn nửa tháng mọi người
không thấy ngài, bèn rủ nhau đi tìm thăm ngài mới phát hiện ngài đã nhập định. Nhìn ngoài chòi có dấu
chân cọp mà không có dấu chân người, họ liền bước vào xem, thấy ngài đang nhập
định nên họ đánh khánh thức định. Ngài mở mắt . Họ hỏi đã ăn uống gì chưa ? Ngài
đáp chưa ! Có khoai ở trong nồi đấy, chắc là đã chín rồi. Nhìn lại thì khoai đã
bị đóng băng cứng ngắc, meo tuyết phủ cả lớp dày, mọi người ngạc nhiên nói : Thầy
đã nhập định hơn nửa tháng rồi đấy….
Năm 64 tuổi, Ngài đang ở trong thất có vị Tăng
chùa Nghinh Tường mang một con gà trống nặng
đến mấy cân tới phóng sanh. Tính nó rất dữ, ưa gây chiến, cả bầy gà đều
bị nó hành hung, đá cho tơi tả mào cánh…Ngài quy y truyền giới cho nó, dạy nó
niệm Phật. Chẳng bao lâu nó không còn hung dữ nữa, chỉ leo lên cây đứng một
mình, không ăn sâu bọ. Đồ người ta không cho thì không ăn. Lâu ngày, hễ nghe tiếng
chuông khánh là nó theo chúng lên chánh
điện, làm lễ xong thì trở về ở dưới cội cây. Ngài dạy niệm Phật, nó phát thinh
: “ Phật, Phật, Phật”. Được hai năm, một hôm nọ sau khoá lễ
tối, nó đứng yên, ngẩng đầu, vỗ cánh ba lần, giống như cất tiếng niệm Phật rồi
đứng yên mà chết. Trải qua mấy ngày thân xác không biến đổi, bỏ nó vào hộp
chôn. Ngài làm bài minh :
Hiếu
chiến gà ưa đá lung tung
Lông
mào, tơi tả, máu chảy ròng
Từ
khi thọ giới cuồng tâm hết
Tuyệt
dục, trường trai, chẳng hại trùng
Hai
mắt kính thành chiêm ngưỡng Phật
Niệm
Phất ót ót, dáng thung dung
Nhiễu
quanh, vỗ cánh an nhiên mất
Chúng
sanh và Phật đâu chẳng đồng ?
Từ
đây ngài, vân du thuyết pháp giảng các bộ kinh Đại thừa như kinh Lăng Nghiêm,
Pháp Hoa v.v… và quy y cho nhiều người.
Mỗi lần quy y số người phát tâm cả mấy ngàn người. Và trong việc hoằng pháp của ngài có những việc
kỳ bí ngoài sự tưởng tượng con người như :
Tại
Am Bát Vu bị bỏ hoang, Ngài muốn trùng tu khôi phục lại, trong khi chỉnh trang
khuôn viên Ngài thấy có tảng đá to nằm chắn ngang ở vị thế không thuận, Ngài
quyết định cho dời. Tảng đá cao 3m13 rộng
2m53, định dời qua phía tả cách xa chỗ cũ 90m. Nhân công tụ họp cả 100
người, ráng sức, khiêng, nạy, xeo…suốt ba ngày mà tảng đá không nhúc nhích, mọi
người đều bỏ cuộc. Ngài khấn cầu chư thần Già lam gia hộ, tụng chú Phật, rồi gọi
hơn 10 vị Tăng đến phụ với ngài khiêng
qua phía tả an toàn. Việc này làm chấn động mọi người đứng xem, ai cũng kinh
hãi vì sức thần trợ giúp.
Ngài
nghe nói có vị Sư ở vùng này, phát tâm tu sửa lại con đường cho dân làng đi thuận
tiện, một mình Sư chịu nhọc làm không quyên góp ai ròng rã mấy mươi năm. Con đường
này nhờ có Sư tu bổ nên mười phần đi được hết chín. Dân địa phương mang ơn lắm,
đòi tu bổ lại chùa Sư ở nhưng Sư không chịu, chỉ nguyện tu sửa con đường thôi.
Ngài
nghe câu chuyện hiếu kỳ, bèn đi đến gặp vị sư gần tối, thì vị Sư đang cầm cuốc
xẻng đang trên đường về. Vừa thấy Sư Ngài liền xá chào, hỏi thăm, nhưng ông chỉ
nhìn mà không đáp. Ngài không quan tâm, lẽo đẽo đi theo tới tận chỗ sư cư ngụ.
Ông
thả dụng cụ xuống, leo lên bồ đoàn ngồi, Ngài tham lễ, ông cũng chẳng thèm dòm
tới, không nói không rằng, Ngài bèn ngồi đối diện với ông. Hôm sau, ông vo gạo, Ngài nhen lửa. Cơm chín,
ông không mời, ngài cũng cầm bát tự đơm đầy cho mình. Ăn xong, ông vác cuốc,
ngài gánh sọt, cùng làm việc, khiêng đá, xúc đất, ban đường … cùng làm cùng nghỉ…
như thế hơn 10 hôm, mà vẫn chưa chuyện trò, hai bên đều im lặng.
Một tối nọ, trăng sáng như ban ngày, Ngài Hư
Vân ngồi kiết già trên tảng đá lớn ngoài chùa. Đêm chưa khuya lắm, ông nhè nhẹ
đến sau lưng Ngài, hét to :
-
Ở đây làm gì ? Ngài hé mắt đáp : Xem trăng !
-
Trăng ở đâu ? – Ngài đáp : Chiếu sáng vằng
vặc.
Ông
bảo : Đồ đa ngư mục, chơn nan biện
Hưu nhận hồng nghê thị thái
hà
( Rất nhiều mắt cá khó phân biệt
Chớ nhận cầu vồng là ráng chiều
)
Tôi
đáp : Quang hàm vạn tượng vô kim cổ
Bất thức âm dương tuyệt chướng
giá
(
Sáng dưng vạn tượng vô kim cổ
Chẳng thuộc âm dương, bặt ngăn che )
Ông nắm tay ngài, cười to nói :
- Khuya rồi mời Thầy về nghỉ.
Sáng ra, ông hoan hỷ bắt chuyện, xưng mình là
Thiền Tu, người Tương Đàm, xuất gia từ bé 24 tuổi, nơi Thiền đường Kim Sơn, được
chỗ thôi dứt. Sau đó ông đi viếng cảnh núi,
Đến Tây Tạng, Miến Điện rồi về nước.
Thấy con đường khúc khuỷu, nghĩ tội nghiệp người dân qua lại khó khăn, người ngựa
đi vất vả, vốn mến mộ hạnh nguyện Ngài Trì Địa Bồ Tát, nên ông đến đây ra sức tu sửa… đến nay đã mấy mươi năm. Giờ
ông đã 83 tuổi, chưa gặp được tri kỷ. nay hữu duyên may mắn hạnh ngộ một người
như tôi nên giải bày hết tâm tư…
Ngài
cũng kể ông nghe chuyện của Ngài. Hôm sau ăn sáng xong, Ngài cáo từ, cả hai đồng
cười lớn và chia tay.
Một
hôm Ngài đến Đằng Xuyên quyên góp, thấy
có mấy người mặc đồ tang lễ đến, dập đầu
làm lễ thưa :
-
Kính thỉnh Hoà thượng đến tụng kinh .
Ngài
đáp : Tôi không phải thầy đám
Các
hiếu tử thưa : Xin Hoà thượng hãy vì chúng con mà tụng kinh giùm. Ngài ngạc
nhiên hỏi : Ở đây không có Hoà thượng nào sao?
Vị
chủ tiệm giải thích : Đại sư nên đi tụng Kinh,sự việc rất trùng hợp. Nhóm người
này là con cháu của Ngô Thái Sử. Thái Sử bình sinh tu trì rất cẩn mật. Mấy mươi
năm nay ai cũng ca tụng ông là bậc hiền nhân. Ông thọ hơn 80 tuổi, con cháu có
tới mấy chục người, đậu Hiếu Lâm, Tú tài rất nhiều. Khi sắp mất, ông tự xưng là
Hoà thượng, dặn con cháu dùng Tăng phục mai táng, cấm không
cho khóc lóc, không được sát sanh, hay rước thầy cúng đám đến tụng kinh cho
ông. Ông còn dự báo là sẽ có vị cao tăng đến làm lễ siêu độ cho mình. Nói xong ông
ngồi xếp bằng mà mất. Trải qua mấy ngày, mặt mũi vui tươi như lúc còn sống. Hôm
nay Đại sư đến đây quả thật là có duyên.
Nghe vậy, Ngài bèn nhận lời, đến nhà họ tụng
kinh, làm lễ thí thực suốt bảy ngày, dân chúng trong làng cùng các vị quan nhân
thân sĩ đều đến tỏ lòng hoan hỷ, mừng rỡ, tán thán, xin quy y hơn nghìn người.
Các quan về hưu nài thỉnh, khẩn khoản nài nỉ xin Ngài ở lại Đằng Xung…
Tu theo đạo Phật là để liễu sanh thoát tử.
Ngài Vĩnh Minh nói : “ Liễu tức nghiệp chướng vốn lai không, chưa liễu hoàn
thân đền nợ trước”. Liễu hay chưa liễu hành giả phải để tâm suy xét, dẫu có
khác đường đi song đích đến vốn đồng, giống như trăm sông đều đỗ về biển. Những
vị Tăng đều có công phu hành trì chơn chánh, song tất cả đều sinh làm con nhà
đàn việt, âu cũng là ngã rẽ tạm thời. Ở đây xin nhắc các vị tu hành: Phải luôn
tự cảnh giác và sách tấn mình.
QUY Y CHO CON BÒ
Năm ngài 69 tuổi, lúc đến chùa Vạn Thọ, Đằng
Xung, Ngài đang ngồi trong tiệm trò chuyện với Đề đốc Trương Tùng Lâm, thì bỗng
có một con bò vàng chạy đến quỳ trước mặt ngài, mắt nó tuôn lệ đầm đìa. Lúc này
ông chủ bò là Dương Thắng Xương cùng đám người rượt đuổi bò cũng vừa chạy đến.
Ngài nói với con bò : “ Con muốn sống thì phải quy y Tam Bảo”. Bò liền gật đầu.
Ngài bèn thuyết Tam quy rồi bảo nó đứng dậy, nó dễ dạy như người. Ngài lấy tiền
bồi thường cho Dương Thắng Xương, nhưng y không nhận. Dương xưa nay chuyên sống
bằng nghề mổ bò, giờ xúc động quá về chuyện này, nên dũng mãnh phát thệ : Từ
đây bỏ hẳn nghề đồ tể và xin quy y với Ngài. Dương còn phát nguyện sẽ ăn chay
trọn đời. Đề đốc họ Trương chứng kiến cảnh này cảm động lắm, liền mời Dương Thắng
Xương vào làm việc ngay trong tiệm của mình.
HOÁ
ĐỘ LÝ CĂN NGUYÊN
Khi
cách mạng Tân Hợi thành công, vua Thanh mất ngôi, phong trào huỷ
chùa đuổi Tăng bộc phát lan khắp các tỉnh. Lúc này toàn bộ binh quyền tỉnh Điền
đều thuộc về quan Nhiếp thống Lý Căn Nguyên. Ông kéo một đội quân hùng hậu đi
khắp nơi tiến hành việc đuổi Tăng phá
chùa. Nghĩ rằng Sư chỉ là một Hoà thượng quèn mà lại có khả năng mê hoặc lòng dân thái quá,
nên ông chỉ đích danh Sư ( Ngài Hư Vân ), truyền lệnh bắt, tai hoạ
xem ra khó lường. Tăng chúng các nơi đều trốn hết. Riêng chùa của Sư có hơn
trăm chúng, cũng bị kinh hoảng lây. Mọi người khuyên Sư nên trốn đi lánh nạn…Sư
điềm nhiên bảo :
-
Quý vị ai muốn đi thì cứ đi. Phần tôi, nếu đấy là nghiệp báo của mình, thì có
trốn tránh cũng vô ích. Thà tôi đem thân này theo Phật…
Nghe
vậy Tăng chúng chẳng ai muốn bỏ đi, đồng tình nguyện ở lại. Vài ngày sau, quan
Nhiếp thống Lý Căn Nguyên kéo binh đến chân núi, trước tiên ông đóng quân ở
chùa Tất Đàn, ra lịnh cho binh lính lên
Kim Đỉnh phá huỷ tượng đồng Đại vương, Điện Phật và Điện Thờ Chư
Thiên trên núi Kê Túc. Sư thấy tình thế cấp bách, bèn một mình xuống núi, đến tận
cửa doanh trại, xin yết kiến ông Lý. Lính gác thấy Sư, bàng hoàng kinh hãi, đã
không dám vào bẩm báo mà còn thúc hối Sư hãy mau mau trốn đi, kẻo không hoạ dữ ập xuống, nguy hiểm khó lường…nhưng Sư chẳng nghe, cứ
bình thản đi thẳng vào. Thấy Lý Căn Nguyên cùng quan Bố Chánh Tứ Xuyên là Triệu
Phiên đang ngồi trong điện. Sư cúi chào, Lý không thèm nhìn đến. Triệu Phiên có
quen biết Sư nên hỏi thăm : - “ Ngài đến có việc gì ?”… Sư thuật lại việc vừa xảy ra. Lúc
này Lý mặt bừng bừng sắc giận, thịnh nộ
quát to :
-
Để Phật giáo tồn tại làm cái quái gì ? nào có ích chi đâu ?...
Sư
thưa : Thánh nhân lập giáo cốt để giúp đời lợi dân, dạy người sơ cơ sửa thân
tâm, làm lành lánh dữ. Từ ngàn xưa đến nay, chính trị và tôn giáo luôn song
hành, hỗ tương nhau. Chính trị giúp an dân, còn tôn giáo giúp cảm hoá dân, dạy dân chỉnh đốn đức hạnh. Đạo Phật dạy người điều
tâm, vì tâm là gốc, nếu gốc được chánh
thì vạn vật được yên, thiên hạ thái bình.
Mặt Lý dịu lại, y nói : - Cho dù là vậy thì
cũng không nên đúc tượng tạc hình làm chi, chỉ tổ uổng phí tiền bạc.
-
Sư thưa : Phật dạy : Dùng tướng tiêu biểu
cho Pháp. Nếu không dùng tướng để biểu trưng thì pháp chẳng thể lan rộng, chẳng thể giúp người sinh
tâm kinh sợ. Mà lòng người nếu không biết kinh sợ, thì không điều ác nào mà
không làm – Vì không có sự nể sợ kìm cương thắng bớt….nên họ sẽ không cẩn thận
lúc gieo nhân và hành động dễ rơi vào sai trái. Do vậy mà tai hoạ
loạn lạc sẽ phát sinh. Còn nói theo thế tục thì “ Nê Sơn lễ Thánh, Đinh Lan đẽo
cây” Ở nước ta các tộc họ đều có nhà Từ đường, thậm chí còn có thờ phụng danh
tượng của các nước Đông, Tây. Tượng được
tôn tạo, chẳng qua là giúp người sinh tâm tin kính, có chỗ để quy hướng. Nhờ có
lòng kính tin, người ta mới biết sợ tội tạo phúc, từ đó sinh ra biết cẩn trọng
dè dặt trong mọi hành động. Cho nên hiệu quả và công đức của việc này
không thể nghĩ lường. Song nói cho cùng
thì “ Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai ” .
Mặt
Lý tươi dần. Ông gọi người mang trà đến mời Sư và hỏi tiếp:
-
Nhưng …sao tôi thấy có nhiều Hoà thượng hành sự không đàng hoàng, làm lắm chuyện
kỳ cục để thành hạng phế thải của quốc gia ?
Sư
thưa : Hoà thượng là
từ dùng để gọi cho có sự khác biệt. Đừng vì chứng kiến vài tu sĩ không xứng
đáng mà phế hết chư Tăng. Lẽ nào thấy một vài vị Tú tài tệ lậu mà trách đức Khổng
Tử ? Như hiện giờ Ngài thống lĩnh binh lính, mặc dù quân kỷ có nghiêm minh,
song không có nghĩa là tất cả binh sĩ đều thông minh, chính trực như Ngài
! Biển không bỏ loài tôm loài cá, dung
chứa hết tất cả nên mới gọi là biển lớn. Phật pháp cũng giống như biển, không
gì mà không dung. Tu sĩ là người được Phật cảm hoá, mộ đạo
nên phát tâm xuất gia, hộ trì Tam bảo, họ âm thầm sửa đổi và chuyển hoá lặng lẽ, có hiệu quả lợi ích rất lớn, không phải là hạng
phế thải như ông nghĩ đâu !
Vẻ
bất bình đã tiêu tan, nét hài lòng đã lộ ra trên mặt. Lý phấn chấn đàm đạo với
Sư. Thỉnh thoảng mỉm miệng cười, chốc chốc lại gật gù tâm đắc…cử chỉ không còn
xấc xược ngạo mạn nữa…đầu ông càng lúc càng cúi thấp, ra chiều rất cung kính.
Rồi…
Lý mời Sư ở lại dùng cơm, thắp đuốc đàm đạo đến khuya. Sư tiếp tục giảng về
nhân quả phân minh, lưới nghiệp chặt chẽ… sau đó bàn đến nghiệp báo nhân duyên,
thế giới tương quan, chúng sanh tương tục, lời rộng ý sâu… càng nghe càng
thích. Lúc này, Lý đã thưa thốt ôn tồn,
cư xử nhũn nhặn. Sự nể trọng Sư thể hiện hết ra mặt, Lý đối với Sư cực kỳ lễ
phép. Khi Sư giảng xong, Lý thở dài, tỏ vẻ hối hận, nói :
-
Phật pháp cao siêu như vậy mà con không hiểu thấu, đến nỗi
kéo quân đi giết Tăng phá chùa,tạo tội ác nghiêm trọng, giờ biết phải làm sao ?
Sư bảo :
Đây chỉ là phong trào nhất thời khiến vậy, chẳng phải là lỗi của ông.
Mong rằng từ đây về sau, ông dốc sức bảo vệ hộ trì đạo pháp thì công đức này rất
lớn…
Lý
nghe Sư nói vậy rất mừng. Hôm sau ông theo Sư về chùa Chúc Thánh, ở chung với
chúng Tăng, cùng ăn chay mấy hôm. Lúc này trong núi bỗng hiện ánh Đại kim quang,
sắc vàng chói lọi, từ đỉnh núi xuống cây cỏ, đều phủ màu hoàng kim…. Tận mắt chứng
kiến cảnh này, Lý xúc động lắm, càng thêm tin Phật, đối với Sư một bề thủ lễ đệ
tử, Lý tôn Sư làm Tổng Trụ trì vùng Kê
Túc, rồi dẫn binh đi.
Rõ
ràng, nếu không nhờ đạo cao đức trọng của Sư cảm hoá, thì
làm sao trong chớp mắt có thể dễ dàng chuyển đổi được Lý Căn Nguyên hoá dữ thành lành như thế ?
Từ
đây về sau nhờ có Lý Căn Nguyên hết lòng giúp đỡ nên mọi việc đều được chu
toàn. Suốt 40 năm về sau, Lý đóng góp hết mình vì đạo. Bất cứ pháp hội nào, buổi
giảng nào cũng có mặt ông tham dự. Giờ đây Lý là một vị Đại hộ pháp trung thành
đắc lực, mộ đạo chí thành.
Ngài
đã thương lượng sửa đổi hiến chương, xin phép lập chi nhánh hội Phật giáo và
cho xây dựng Phật học viện, lập trạm bố thí thuốc, thuyết giảng kinh pháp, làm
đủ Phật sự đều nhờ có Lý Căn Nguyên nên mọi việc đều chu toàn. Lo xây dựng Trường Phật học, bệnh
viện, Đoàn hoằng pháp, các hoạt động phúc thiện v.v
QUY
Y CON SÁO VÀ DẠY NIỆM PHẬT
Năm
Ngài 73 tuổi ở Đại Hội Phật giáo Điền Tạng. Dân làng đem con sáo biết nói đến
phóng sinh. Mới đầu nó còn ăn thịt, sau Ngài quy y cho nó xong, dạy nó niệm Phật
thì nó không chịu ăn mặn nữa. Sáo rất ngoan, dễ bảo, biết tự động bay ra, bay
vào. Ngày nào nó cũng niệm danh hiệu Phật và Thánh hiệu Bồ Tát Quan Thế Âm
không gián đoạn. Một hôm nó bị chim ưng bắt đi, giữa không trung, vẫn còn nghe
tiếng nó niệm Phật lảnh lót. Tuy nó mang thân thú nhưng lúc sắp xả báo thân, kề
cận cái chết mà vẫn không bỏ niệm Phật. Lẽ nào làm người mà lại chẳng bằng con
sáo nhỏ kia ư ?
ĐỘNG
ĐẤT Ở CÔN MINH
Lúc Ngài ở Côn Minh, xảy ra động đất lúc 12 giờ
đêm ngày 2/01 năm Nhâm Tý ( 1912 ), bỗng xảy ra trận động đất dữ dội : tường,
thành, nhà cửa, phòng ốc… đồng loạt đổ sập, người chết rất nhiều, chính quyền địa
phương cùng Hội Phật giáo hợp lực cứu hộ. Ngài cũng đi
theo, cùng mang dụng cụ đến phụ đào lấy thây người trong đống đổ nát. Trải qua
năm ngày, số thi thể người lớn trẻ em lấy ra được tổng cộng hơn tám trăm người.
Trong đó có 84 cặp vợ chồng đang ngủ bị nạn. Kỳ lạ nhất, có đôi vợ chồng bị
chôn vùi nằm dưới đống đổ nát ngót mấy ngày, vậy mà khi được cứu lên vẫn còn sống
và chẳng hề bị chút thương tích .
ĐỘNG
ĐẤT Ở ĐẠI LÝ
Dân
Quốc 3- Giáp Dần ( 1914 ) Ngài 75 tuổi, Ngài
đang giảng kinh tại Long Hoa Sơn,
thì 4 huyện trong phủ Đại Lý phát sinh địa chấn kinh hồn, tại Đại Lý là nặng nhất:
nhà cửa, thành quách đều nhất loạt sụp đổ không còn gì. Chỉ có chùa viện, bảo
tháp là không đổ, vẫn đứng yên như cũ. Trong cơn địa chấn đất rung chuyển nứt nẻ
trầm trọng, còn phát sinh lửa dữ cháy tràn ngùn ngụt tràn lan. Người ta tranh
nhau chạy lánh nạn, thì dưới chân đất bổng nứt ra, làm họ bị lọt xuống mắc kẹt
trong đó, họ cố hết sức trèo lên, nhưng vừa ló được cái đầu thì đất liền khép lại,
cắt đầu đứt lìa thân thể họ, nằm mắc lại trên đất. Cảnh tượng hãi hùng nhìn giống
như người đang sống mà bị hãm trong địa ngục lửa thiêu, thảm đến mắt chẳng dám
nhìn.
Mấy
ngàn dân trong thành tử nạn gần hết, sống sót rất ít. Trong đây có hai tiệm
vàng. Tiệm Vạn Xương của họ Triệu và tiệm Trạm Nhiên của họ Dương- Khi lửa cháy
đến hai gia đình này thì tự tắt. Chỗ ở của họ cũng không hề bị địa chấn. Nhân
khẩu mỗi nhà có đến mấy mươi người, nhưng tất cả đều bình an vô sự. Nguyên do
là hai nhà này, đời đời trường trai và hay làm phước thiện bố thí nên mới chiêu
cảm được quả lành hy hữu như vậy. Ai biết chuyện cũng đều xúc động.
Từ năm 1914 ngài 75 tuổi đến 1951 ngài 112 tuổi
trong khoảng thời gian này có rất nhiều biến cố xảy ra Ngài ứng phó và hoá giải
rất nhiều việc không thể kể hết, chỉ đơn cử một số việc để chúng ta cảm nhận sự
vi diệu của Phật pháp và sự kỳ diệu nơi con người bằng xương bằng thịt của Ngài
chúng ta không hiểu hết.
BIẾN
CỐ THẢM KHỐC Ở VÂN MÔN
Năm
Tân Mão 1951 ngài 112 tuổi. Ngày 24/2/ 1951
âm lịch, có hơn 100 người đến bao vây chùa, cấm không cho ai ra vào. Đầu
tiên họ bắt Hoà thượng Hư Vân nhốt trong phương trượng, cắt
vài người canh gác, rồi đem Tăng chúng nhốt trong Thiền đường, Pháp đường, và
tiến hành khám xét toàn chùa. Họ huy động cả 100 người toàn là thuộc hạ của họ,
xúm nhau lục lọi trong chùa Vân Môn suốt hai ngày mà không thu được gì. Thế là
họ bắt Giám viện và các sư trong chức sự giải đi và quơ hết sổ sách, thư từ,
pháp ngữ, văn tự kinh điển v.v.. đồn vào bao chở đi hết. Sau đó gán cho Hoà thượng
một số tội lớn, vì họ nghi là Hoà thượng đang cất giấu nhiều của cải kếch sù,
hẳn là Ngài phải có nhiều tiền mới xây được chùa, đây là mục đích chính kiềm
tìm của họ.
Mấy
ngày sau đó, họ bắt thêm 25 Tăng nữa, dùng đủ cực hình tra tấn tàn độc, buộc
chư Tăng phải khai báo chỗ Hoà thượng cất giấu vàng bạc.
Nhưng tất cả chư Tăng đều nói không biết nên họ tiếp tục tra khảo, đánh đập. Sư Diệu Vân bị đánh chết, sư Ngộ Vân bị đánh
gãy tay… ngoài ra còn có một số Tăng bị mất tích. Họ tra tấn, lục soát ngót 10 ngày mà không
tìm ra được gì, thế là họ trút hết thịnh nộ vào Hoà Thượng
Hư Vân.
Ngày
thứ 6 1/3/1951, họ bắt Ngài nhốt vào thất kín, truyền đóng hết các cửa cái và cửa
sổ lại, bỏ đói Ngài, và cấm không cho ra
ngoài đại tiểu tiện, dù ngày hay đêm, chỉ để một ngọn đèn lù mù, giống như cảnh
địa ngục.
Hai
ngày sau tức Chủ Nhật 3/3 1951 âm lịch, hơn 10 người lực lưỡng kéo vào thất, ép
buộc Ngài phải giao nộp vàng, bạc, súng ống cho chúng, Ngài bảo là không có, họ
bằng thẳng tay đánh đập, ban đầu chỉ dùng gậy, sau dùng côn sắt, họ quất tới tấp
vào đầu, cổ, vai khắp thân thể ngài. Vừa đánh vừa nạt nộ tra hỏi. Tiếng dùi cui
và cây sắt bổ xuống nghe rầm rầm. Ngài bị lỗ đầu, chảy máu, gãy xương sườn…nhưng
Ngài cứ nhắm mắt, ngậm miệng làm thinh giống như nhập thiền định. Hôm ấy, bọn
chúng lôi Ngài xuống đất, tra khảo, đánh đập dã man tới 4 lần. Đến khi thấy
tình trạng của Ngài quá nguy kịch, chỉ còn chờ chết, chúng mới kéo nhau đi. Đợi
đêm xuống, vị Tăng thị giả lẻn vào thất đỡ Ngài lên giường..
Thứ
3 ngày mùng 5, nghe tin Ngài vẫn chưa chết, chúng bèn xông vào thấy Ngài ngồi nhập định như cũ, chúng càng căm tức
tiếp tục gậy gộc, côn sắt đánh đập và lôi Ngài xuống đất, cả chục tên mang giày
đinh leo lên người Ngài mặc sức giày xéo, giẫm đạp. Tai, mắt, mũi, miệng Ngài đều
xuất huyết, Ngài nằm dài trên đất, không nhúc nhích. Họ tin chắc là Ngài đã chết,
chúng bèn bỏ đi. Đêm xuống, vị Tăng thị giả lại đỡ Ngài lên giường, Ngài ngồi
ngay ngắn như cũ.
Sáng
chủ nhật, mùng 10/3 âl. Ngài từ từ nằm
xuống theo thế cát tường. Trải qua một ngày một đêm, không thấy động tĩnh, vị
thị giả bèn lấy đèn cầy đưa trước mũi Ngài, thấy ánh lửa không dao động, nghi
là Ngài đã viên tịch, nhưng thấy cơ thể Ngài còn ấm, nhan sắc vẫn tươi tốt như
thường nên hai vị thị giả đứng bên canh chừng.
Đến
sáng sớm thứ hai, 11/3 năm Tân Mão tức 16/4/ 1951, nghe Ngài cất tiếng rên nho
nhỏ, thị giả vội đỡ Ngài ngồi dậy rồi trình
Ngài rõ thời gian đã qua, Ngài nói :
Ta
có cảm tưởng như mới vài phút thôi.
Rồi
Ngài chậm rãi nói với thị giả : Thần thức
Ngài đi lên cung trời Đao Lợi nghe pháp.
Thật là cảnh giới thiền định sâu xa, khổ vui đều xả ! Thuở xưa, lúc Ngài Hám
Sơn thọ hình cũng thấy cảnh giới tương tự như thế này, những ai chưa chứng ngộ
không thể diễn tả hay nói thay được.
Im
lặng một chút Ngài nói tiếp :
Con
mau cầm bút ghi lại lời ta, chớ khinh suất nói cho người biết, e họ sẽ không
tin và sẽ huỷ báng. Xong Ngài thong thả kể :
Ta
nằm mộng thấy mình đến Nội viện của cung trời Đâu Suất, nhìn rất trang nghiêm
tráng lệ, thế gian tuyệt chẳng có nơi nào sánh được. Lúc này Bồ Tát Di lặc đang
ngồi trên toà thuyết pháp. Thính chúng rất đông, trong đó
có hơn 10 người ta từng quen biết như là : Hoà thượng Chí
Thiện chùa Hải Hội tỉnh Giang Tây, Sư
Dung Kính ở núi Thiên Thai, Ngài Hằng Chí Công ở Kỳ Sơn, Hoà
thượng Bảo Ngộ ở Cung Bách Tuế, Hoà thượng Thánh Tâm ở Bảo
Hoa Sơn, Luật Sư Độc Thể, Hoà thượng Quán Tâm ở chùa Kim
Sơn và tôn giả Tử Bá ( Hám Sơn ) v.v ta cung kính chấp tay vái chào, các vị ấy
chỉ ta ngồi vào toà trống thứ ba, hàng đầu bên phía Đông,
sát bên Tôn giả A Nan ( lúc này đang làm Duy na ). Bồ tát Di Lặc đang giảng về “ Duy Tâm Thức Định”. Ta chưa
nghe hết thì Bồ tát bỗng chỉ vào ta bảo : “ Hãy trở về đi”. Ta thưa: “ Đệ tử
nghiệp chướng sâu nặng, chẳng muốn quay về”. Bồ tát bảo : “ Ông nghiệp duyên
chưa hết, hãy về đi, ngày sau lên đây lại”. Rồi Ngài đọc bài kệ :
“ Thức trí hà
phân
Ba thuỷ nhất cá
Mạc muội bình bồn
Kim vô hậu bạc
Tánh lượng tam,
tam
Ma thằng oa
giác
Nghi thành cung
ảnh
Bệnh duy khử hoặc
Phàm thân mộng
trạch
Huyễn vô sở trước
Tri huyễn tức
ly
Ly huyễn tức
giác
Đại giác viên
minh
Kính giám sum
la
Không hoa phàm
thánh
Thiện ác an lạc
Bi nguyện độ
sanh
Mộng cảnh tư
tác
Kiếp nghiệp
đương đầu
Cảnh thích phổ
giác
Khổ hải từ hàng
Vô sanh thoái
khước
Liên khai nê thuỷ
Đoan toạ Phật đà.
Nghĩa :
Thức trí nào
phân
Sóng nước đồng
thể
Chớ lầm bình bồn
Vàng đâu dày mỏng
Tánh lượng ba
ba
Sừng ốc dây thừng
Ngờ là bóng
cung
Bệnh, cần trừ
mê
Nhà mộng, thân
phàm
Huyễn – không
chỗ chấp
Biết huyễn tức
ly
Ly huyễn tức
giác
Đại giác sáng
tròn
Soi khắp sum la
Không hoa,
thánh phàm
Thiện ác an lạc
Bi nguyện độ
sanh
Cảnh mộng này tạo
Kiếp nghiệp
đương đầu
Cảnh giác, giác
khắp
Thuyền từ biển
khổ
Chớ sanh thối
bước
Bùn nhơ sen trổ
Phật đà đoan toạ.
Đoạn
sau còn rất nhiều nhưng ta chẳng nhớ hết.
Ngài còn khai thị riêng nhưng ta không thể nói ra .
Vài
ngày sau, những người từng hành hung Ngài đến, cũng cảm thấy là Ngài quá lạ
lùng, trong lòng họ bắt đầu dao động và lo lắng nên cứ xì xầm với nhau .
Một
tên có vẻ là thủ lĩnh, chất vấn các vị Tăng :
Này,
lão già đó vì sao đánh mãi mà vẫn không chết vậy ?
Chư
Tăng đáp : Hoà thượng
vì chúng sanh mà chịu khổ. Do không muốn các ông bị nạn nên Ngài cam chịu bị
đánh đập mà không chết. Sau này, các ông sẽ hiểu…
Nghe
nói vậy họ rất sợ, từ đó không còn dám ra tay tàn độc với Hoà
thượng nữa. Nhưng chuyện đã bại lộ đồn ra khắp nơi. Mưu ác chưa đạt, vàng bạc
chưa lấy được, thêm bị tiếng xấu đồn vang, do vậy, họ càng khẩn trương bao vây
chùa, gấp rút lùng sục tra xét. Đối với Tăng sĩ, họ cấm không cho trò chuyện,
ra vào. Tình trạng này kéo dài hơn một tháng. Lúc này, những vết thương trên
mình Ngài đều làm độc, bệnh tình của Ngài mỗi ngày một nặng, mắt không còn thấy,
tai chẳng nghe rõ. Các đệ tử lo xảy ra chuyện bất trắc nên nài nỉ xin Ngài thuật
sơ chuyện bình sinh của Ngài, thế là bản thảo Niên Phổ Tự Thuật của Ngài được
ghi ra kể từ giây phút đó.
Khoảng
tháng tư âm lịch, biến cố tại Vân Môn dần dần được đồn tới Thiều Châu. Trước
tiên, Tăng chúng ở chùa Đại Giám, Khúc Giang báo tin cho đệ tử của Ngài ở tại Bắc
Kinh và các bạn đồng môn nơi hải ngoại, thế là họ liên lạc nhau, khẩn trương tìm
cách cứu viện. Chính quyền Bắc Kinh đánh điện xuống yêu cầu chính phủ địa
phương phải thẩm tra nghiêm xét việc này. Nhờ vậy bọn người dữ bao vây chùa mới
chịu nới lỏng vòng vây, nhưng lương thực… y vật đều bị
chúng cướp mang đi hết. Ngài từ khi bị trọng thương về sau, chẳng thể ăn cơm
cháo, mỗi ngày chỉ uống nước trong. Biết chùa đã hết lương thực, Ngài bảo với
chúng Tăng rằng :
-
Lão đây nghiệp nặng, làm luỵ đến các vị. Việc đã đến nước
này, các vị hãy chia ra đi ở các nơi khác để bảo toàn tánh mạng. Nhưng Tăng chúng chẳng ai chịu bỏ Ngài ra đi.
Họ họp nhau ra sau núi đốn củi, tuỳ sức mình mà lao động và
gánh hàng ra chợ bán, lấy tiền mua gạo đem về nấu cháo cho cả chùa cùng ăn, sớm
hôm vẫn giữ đúng thời khoá tụng niệm toạ
thiền.
Khoảng
thượng tuần tháng năm, chính phủ Bắc Kinh phái một số chuyên viên đến Quảng
Đông, hợp cùng nhân viên chính phủ Quảng Đông. Ngày 22/5 phái đoàn đến huyện
Nhũ Nguyên. Ngày 23 ( tức 28/6/1951 dương lịch ) họ tới chùa Vân Môn để điều
tra sự thật, mang theo nhân viên kỹ thuật, máy ghi âm, máy chụp hình… Trước hết
họ an ủi, hỏi thăm pháp thể Ngài có được khinh an không ?
Lúc
này Ngài nằm trên giường bệnh, tai điếc, mắt mờ, không hề biết chính phủ Trung
ương Bắc Kinh và Quảng Đông cử người đến
điều tra, nhìn thấy cảnh sát địa phương, Ngài càng không muốn nói.
Phái
đoàn hỏi : “ Ngài có bị ngược đãi không ? tài vật có bị mất mát gì không ? Ngài
đều đáp “không”. Mãi đến sau này khi các
quan giải thích rõ về thân phận địa vị mình, Ngài mới lên tiếng : “ Mời các vị
cứ điều tra sự thực rồi về kinh đô báo cáo ”. Các quan an ủi nhiều lần, rồi
truyền lệnh cho Ty hữu trách đại phương phải điều tra minh bạch. Việc trước nhất
là họ phóng thích các Tăng đang bị giam.
Tính
ra chùa Vân Môn bị nạn gần ba tháng ( từ ngày 24/2 đến 23/5 ) mới được giải
vây, thoát khổ. Trong thời gian này,
tình hình phức tạp lắt léo khó mà biết được.
Từ
mùa thu sang đông, sau khi bị trọng thương, bệnh nặng; Ngài phải nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Tăng chúng khoảng trăm người cũng chỉ đốn
củi, trồng trọt cùng làm các nghề thủ công sinh sống qua ngày. 110 thôn làng ở
vùng phụ cận nghe tin Vân Môn đã được giải vây, đều kéo đến vấn an Ngài. Các đệ
tử của Ngài ở kinh đô, trong và ngoài nước cũng lo tìm đủ cách để đưa Ngài khỏi
Vân Môn. Lúc này có nhiều thư và điện tín gởi đến Ty hữu trách địa phương, ân cần
khuyến khích an ủi Ngài. Biến sự xảy ra ở Vân Môn đến đây xem như chấm dứt.
NĂM
NHÂM THÌN NGÀI 113 TUỔI ( 1952 )
Mùa
xuân năm này, Ngài vừa mới bớt bệnh, thì hàng ngày đã hướng dẫn chúng toạ thiền hành đạo, thu xếp những việc còn sót lại sau biến sự.
Từ tháng giêng đến tháng ba âm lịch. Bắc Kinh đánh điện đến Quảng Đông bốn lần,
mời Ngài về Bắc Kinh và phái nhân viên hộ tống đến miền Nam đón. Ngài bảo chúng
hay. Mọi người khuyên Ngài hoãn lại. Ngài dạy :
Đã
đến lúc tôi phải đi rồi, hiện nay Tăng già trong nước, mạnh ai nấy lo giữ thân,
không người lãnh đạo. Do thiếu đoàn kết nên rời rạc như cát. Nếu không thống nhất,
không tổ chức lại cơ cấu để duy trì lực lượng thì tôi e là không phải chỉ có
Vân Môn xảy ra biến sự mà thôi đâu. Tôi chính vì tương lai Phật pháp nên mới phải
về Bắc Kinh. Nói xong Ngài tuyển chọn một vị Tăng lão thành trong chùa chỉ định
trông nom viện.
Sắp
đặt mọi việc trong chúng xong, Ngài ấn định ngày lên đường và tự tay viết một
câu liễn :
“Toạ duyệt ngũ đế tứ triều, bất giác thương tang kỷ độ
Thọ
tận cửu ma thập nạn, liễu tri thế sự vô thường. ”
Trải
qua bốn triều đại, năm đời vua, chẳng biết bao lần dâu bể.
Chịu
hết chín tai mười nạn, mới hay thế sự vô thường.
Chủ
nhật ngày 4/4 âm lịch ( tức 27/4/ 1952 )
Ngài cùng thị giả Phật Nguyên, Cao Vân, Khoan Độ, Pháp Vân…và các nhân
viên hộ tống, lên đường đi Bắc Kinh. Dân chúng trong các thôn làng đến tiễn đưa
Ngài hơn mấy trăm người. Ngài rời Vân môn từ đó.
ĐÁP
LỜI KHÁCH HỎI VỀ THIỀN, TỊNH
Nhân
có khách hỏi về Thiền và Niệm Phật dẫn lời của Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ :
Có
Thiền không Tịnh độ
Mười
người lạc hết chín.
Và
thắc mắc về hậu thân của Thiền sư Ngũ Tổ Giới
là Tô Tử Chiêm ( Tô Đông Pha ) cho đến vị tăng Nhạn Đảng sau khi sinh
làm Tần Cối. Ngài đáp :
Kinh
Lăng Nghiêm có nói : Khi Bồ Tát Văn Thù lựa chọn pháp Viên Thông có thuyết bài
kệ rằng :
Quy
nguyên tánh vô nhị
Phương
tiện hữu đa môn
Thánh
tánh vô bất thông
Thuận
nghịch giai phương tiện
Về
nguồn tánh không hai
Phương
tiện có nhiều cửa
Thánh
tánh đâu chẳng thông
Thuận
nghịch đều là phương tiện
Thiền
sư Vĩnh Minh Diên Thọ có làm bài Tứ Liệu Giản về Thiền và Tịnh như thế này :
Hữu Thiền vô
Tịnh độ
Thập nhân cửu
sai lộ
Âm cảnh hốt
hiện tiền
Miết nhĩ tuỳ tha khứ.
Vô Thiền hữu
Tịnh độ
Vạn tu vạn
nhân khứ
Đản đắc kiến
Di Đà
Hà sầu bất
khai ngộ
Hữu Thiền hữu
Tịnh độ
Du như đới
giác hổ
Hiện thế vi
nhân sư
Lai sanh tác Phật
Tổ
Vô Thiền vô Tịnh
độ
Đồng sàng
tinh thiết trụ
Vạn kiếp dữ
thiên sinh
Một cá nhân y
hổ
Nghĩa :
Có Thiền
không Tịnh độ
Mười người lạc
hết chín
Âm cảnh hiện
trước mắt
Lập tức theo
nó liền
Không Thiền
có Tịnh độ
Vạn tu vạn đến
chỗ
Chỉ thấy Đức
Di Đà
Lo gì không
khai ngộ
Có Thiền có Tịnh
độ
Cũng như cọp
mọc sừng
Hiện đời làm
Thầy người
Kiếp sau làm Phật
Tổ
Không Thiền
không Tịnh độ
Giường đồng
cùng cột sắt
Muôn kiếp và
nghìn đời
Không một người
cứu giúp.
Gần
đây, người tu Tịnh độ, đa số đều chấp vào bài Tứ Liệu Giản nay và rất ít khi để
tâm nghiên cứu bài kệ Viên Thông. Nhưng đối với Tứ Liệu Giản đa số vẫn còn hiểu
lầm, chẳng những cô phụ Bồ tát Văn Thù mà còn gieo luỵ cho
Ngài Vĩnh Minh. Bởi, đối với pháp môn quyền thật, đã không thể dung hội quán
thông, lại còn so sánh các pháp Thiền, Tịnh khó hoà hợp
nhau như nước với lửa. Hư Vân đối với việc này không thể không nói .
Trong Phật Tổ Thống Ký, quyển
26 ghi :
“
Thời Ngô Việt Tiễn, Ngài làm quan chuyên coi việc thâu thuế, lấy tiền kho đem
mua cá phóng sanh. Sự việc lộ ra, Ngài bị kết tội đem đi chém giữa chợ. Ngô Việt
Vương sai người đến xem, dặn : “ Nếu thấy y đổi sắc thì giết,
còn không đổi thì tha”. Nhờ không đổi sắc mặt, Ngài được ân xá. Nhân đó Ngài đến
Thiền sư Thuý Nham xin xuất gia. Mặc không cần đẹp, ăn
không chuộng ngon. Sau khi hết tham vấn Quốc sư Thiều, Ngài phát minh được tâm
yếu. Tại Thuý Nham, Ngài làm hai lá thăm. Một ghi suốt đời
Thiền định, là thứ hai viết : Tụng kinh,
tu vạn thiện để trang nghiêm Tịnh độ, rồi thầm cầu nguyện. Sau đó Ngài bắt được
lá thăm “ Tụng kinh tu thiện” đến 7 lần.
Ngài
Vĩnh Minh Diên Thọ là một trong ba vị Tổ sư của Trung Quốc trước tác nhiều tác
phẩm nhất. Ngài là vị nối pháp đời thứ
ba của Thiền sư Pháp Nhãn, trước tác sách vở rất nhiều như :
- Tâm phú và Tâm phú Chú, giảng
về minh tâm kiến tánh
-
Vạn thiện Đồng quy: giảng về pháp pháp viên dung.
-
Tông Cảnh Lục : 100 quyển, xiển dương ý
chỉ Thiền tông, dung hội các tông phái, quy về nhất tâm, Tông Cảnh Lục lấy tâm làm
tông, lấy ngộ làm quy tắc. Các thuyết tuy có sâu cạn, đều nói đến tận nguồn suốt
đáy, các pháp vi tế nhất cũng hiển xuất tâm này, bỏ tà giúp chánh, khiến cho
người sau không rơi vào đường tẽ.
Bình
sinh Ngài giảng thuyết rất nhiều nhưng chưa hề nói Tông nào không tốt. Ngài
cũng đã từ Thiền tông mà được ngộ nhập,
sao lại hoằng dương Tịnh độ ? Bởi vì đối với người đại ngộ, pháp pháp đều
viên thông. Tham thiền cũng là đạo, niệm Phật cũng là đạo, cho đến như chúng ta
lao động cuốc đất cũng là đạo. Ngài vì
muốn cứu vãn căn cơ của kẻ hạ liệt của thời mạt pháp nên mới
hoằng dương Tịnh độ. Ngài cũng là vị Tổ thứ 6 của Tịnh Độ Tông. Một đời tán
dương Tịnh độ, sau khi thị tịch được mọi người tôn trọng, xây tháp kỷ niệm tại
chùa Tịnh Từ.
Trong
Phật Tổ Thống Ký ghi: “Có vị Tăng từ Lâm
Xuyên đến, nói : Trong lúc tôi bị bệnh,
thấy mình xuống cõi u minh nhưng được tha về, nhìn trong Điện có hình tượng của
một vị Tăng mà vua Diêm La đích thân đến đảnh lễ. Tôi hỏi : “ Tượng đó là ai
?”. Chúa Sứ nói : Đó là Thiền sư Diên Thọ ở Hàng Châu. Nghe nói Ngài đã sanh về
Thượng Phẩm, nhà vua rất kính quí đức độ Ngài nên thờ ở đây ”.
Phật
giáo đồ Trung Quốc lấy ngày 17 tháng 11 làm ngày vía Đức Phật A Di Đà, là căn cứ
vào sách nào ? Kinh Di Đà nói : Đức Phật A Di Đà ở phương Tây, cách đây mười vạn
ức cõi Phật. Vậy thì ai biết được ngày 17 tháng 11 là ngày sinh của Phật A Di Đà ? Thật ra đó
chính là ngày sinh của Thiền sư Vĩnh Minh. Bởi vì Ngài thừa nguyện Đức Phật A
Di Đà tái sinh, cho nên mới lấy ngày sinh của Ngài làm ngày vía Phật A Di Đà .
Khi
bài Tứ Liệu Giản xuất hiện, hai tông Thiền, Tịnh khởi tranh cãi. Đồ chúng Tịnh
độ nói : “ Có Thiền không Tịnh độ, mười người lạc hết chín”, nghĩa là nếu tu
Thiền không thôi thì chẳng liễu sanh thoát tử. Còn đơn tu Tịnh độ thì “ Vạn người
tu, vạn người vãng sanh”. Còn vừa Tham Thiền vừa niệm Phật thì sẽ được “ Như cọp
mọc thêm sừng”. Tín đồ Tịnh độ phê bình Thiền tông đến nay vẫn còn ồn ào, thường
rêu rao sự tệ hại của tham Thiền, rồi dẫn chứng:
-
Thiền sư Giới tái sinh làm Tô Tử Chiêm ( Đông Pha ). Thanh Thảo Đường sinh làm
Tằng Lỗ Công. Thiện Mân đạo làm Đổng Tư Học Nữ. Hải Ấn đoạ
làm Chu Phòng Ngự Nữ. Thậm tệ hơn, tăng Nhạn Đảng bị đoạ
làm Tần Cối ( một tay có nhiều quyền thế tạo lắm ác nghiệp )v.v…
Họ
nói những người trên, nếu biết quy hướng cầu về Tịnh độ thì đâu đến nỗi phải đoạ làm thường nhân, phụ nữ hay ác nhân ? tức là bị chuyển làm
kẻ hạ liệt – Ngay đến việc sinh làm các danh quan cũng chưa phải là chuyện hay.
Thật đáng thương vì họ không được sinh về Tây phương.
Riêng
tôi nhận thấy người tu khi tái sanh, việc “chuyển xuống làm kẻ hạ liệt” là do
người chứ không phải do pháp. Vào thời Đường Hy Tông ( 874- 888 ) tại Dinh Châu,
có một kỷ nữ miệng thoảng mùi hương sen,
Thục Tăng nói : “ Cô gái này trước kia làm ni, tụng kinh Pháp Hoa suốt 20 năm”.
Tụng kinh Pháp Hoa cũng như hậu thân của người tham Thiền, việc tái sanh làm
thường dân hay nữ nhân v.v chẳng thể nói là do lỗi của việc tham Thiền.
Bồ
tát Quan Âm có 32 ứng thân, chúng sanh hợp thân nào để hoá
độ, thì Ngài liền hiện thân đó để độ, để thuyết pháp- đây không thể nói rằng Bồ
tát Quan Thế Âm ứng thân “ triển chuyển
hạ liệt”- Hoá thân của Đức A Di Đà là Thiền sư Vĩnh Minh, hậu
thân của Thiền sư Vĩnh Minh là Thiền sư Thiện Kế, là cư sĩ Vô Tướng Tống Liêm.
Ngài Thiện Kế ở hiên chùa Thọ Khánh, Sương Môn, Tô Châu,
chích máu viết một bộ kinh Hoa Nghiêm. Sự nghiệp hoằng pháp của Ngài so với Thiền sư Vĩnh Minh chỉ bằng một nửa. Tống
Liêm làm quan, chết không được tốt, tức là không bằng Thiền sư Thiện Kế- cũng
khó thể nói rằng Phật A Di Đà đã “triển chuyển hạ liệt”.
Thiền
Tông có Thái Thủ toạ ngồi hoá. Chỉ Y Đạo
Giả có khả năng chết đi sống lại. Chúng ta hiện nay đã có ai ngồi chết, đứng tịch
? Chúng ta so với Thái Thủ toạ cùng Chỉ Y đạo giả đều không
bằng, mà dám xem thường Thiền Tông sao ? Tôi công nhận rằng các Tông có cạn có
sâu. Hiển giáo. Mật giáo có đốn tiệm, tà chánh thì niệm Phật cũng vậy. Sự cạn
sâu của Thiền, phân ra rất nhiều : Ngoại Đạo Thiền, Phàm Phu Thiền, Tiểu Thừa
Thiền, Trung Thừa Thiền, Đại Thừa Thiền.
Tất cả đều có Thiền. Thiền của Thiền tông Trung Quốc là Thượng Thượng Thừa Thiền,
chẳng đồng với các loại Thiền vừa kể trên. Chỉ vì đời mạt pháp, các hành giả
tham Thiền thật sự có rơi vào nhiều nẻo sai, nên chẳng lạ lùng gì trong Tứ Liệu
Giản, Ngài Vĩnh Minh đã quở trách.
Tôi
thường hay lưu tâm nghiên cứu sách vở, nhưng chưa từng thấy Tứ Liệu Giản của
Ngài Vĩnh Minh, chẳng biết được trích từ
tác phẩm nào ? chỉ nghe thiên hạ truyền miệng đã lâu, chẳng dám nói là nguỵ tạo. Người niệm Phật, tâm tịnh thì độ tịnh, tức thấy được
tự tánh Di Đà. Nói Tịnh độ với Thiền là hai- bởi do người thời nay phân biệt niệm
Phật là Tịnh, tham Thiền là Thiền.
Thuở
xưa, đức Phật của chúng ta vượt thành xuất gia vào núi tu đạo. Lúc đầu theo
A-lam-ca-lam ba năm, học Định Bất Dụng Xứ, sau đó thấy sai bỏ đi. Ngài lại đến
chỗ Uất-đầu-lam-phất học Định Phi Phi Tưởng, biết sai cũng bỏ. Rồi Ngài đến núi
Tượng Đầu, học cùng với các Thầy ngoại đạo, mỗi ngày ăn một hạt mè trải qua sáu
năm.
Ngày
mùng 8 lúc sao Mai vừa mọc. Ngài hoát nhiên đại ngộ, thành Đẳng Chánh Giác, bèn
than rằng : “ Lạ thay ! Tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước
mà không được chứng đắc”. Ngay lúc ấy đâu có Thiền hay Tịnh gì ? Từ đó về sau,
Ngài thuyết pháp suốt 49 năm, vẫn chưa nói đến chỗ rốt ráo. Mãi đến lúc “ Niêm
hoa vi tiếu” trao pháp cho ngài Ca Diếp, cũng chưa nói đến chữ Thiền. Thiền là
pháp Tối thượng thừa, giống như sữa nguyên chất. Người bán sữa mỗi ngày thêm một
ít nước vào, cho đến lúc hoàn toàn không còn chất sữa nữa. Người học Phật pháp
khi rơi vào tình trạng giống như sữa nguyên chất bị pha nước thì ngài Vĩnh Minh
nhìn thấy, và đối với loại Thiền chỉ toàn là nước này ngài bèn phán : “ Có Thiền
không Tịnh Độ, mười người lạc hết chín”, chứ không hề nói loại Thiền thuần sữa
là “ lạc đường” ! Khi Thiền sư Vĩnh Minh thầm khấn nguyện bắt thăm, thì Ngài bắt
được lá thăm tu Tịnh đến 7 lần. Nếu Thiền chẳng tuyệt vời thì Ngài quyết không
viết lá thăm Thiền bỏ vào, còn nếu Tịnh là pháp môn mà lòng Ngài rất ưa thích,
thì Ngài hẳn đã không bắt thăm đến 7 lần rồi mới quyết định! Vả lại, Thiền sư Vĩnh Minh xuất thân từ Thiền
tông, là thế hệ thứ Ba của Tông Pháp Nhãn, làm sao có thể ở trong chính bổn hội
lại dìm Tông của mình xuống, tuyên bố là Thiền chẳng tốt ?
Pháp
tham Thiền, cần phải thấy cái “ Mặt mũi xưa nay” lúc cha mẹ chưa sinh, mục đích
là minh tâm kiến tánh. Người đời sau khi tham Thiền lại hành trái với phương
cách này, hễ vừa mới đạt được chút cảnh giới thanh tịnh, toàn thân nhẹ phơi phới,
có được chút an tĩnh thì vội cho là đạt công phu, kỳ thực đã bị rơi vào âm cảnh,
chẳng rõ một niệm duyên khởi không sinh, làm sao có thể hướng đến chỗ đầu sào
trăm thước mà tiến lên ?
Ngài
Vĩnh Minh nhân đây mới nói : “ Âm cảnh
hiện tiền, lập tức đi theo nó, chẳng bằng niệm Phật dốc lòng, có chỗ nương tựa
”. Chỉ vì Ngài không nói rõ niệm Phật thế nào mới đạt đến “ Vạn người tu vạn
người độ”. Có Tịnh Độ mới có thể thấy Đức A Di Đà. Nếu ỷ vào câu “Chỉ cần thấy được Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ”
làm chỗ nương tựa, thì điều này là lầm, là vọng tưởng rồi ! Bởi vì trong kinh Lăng
Nghiêm, Ngài A Nan bạch Phật rằng : “ Từ khi con phát tâm theo Phật xuất gia, ỷ
vào oai thần của Phật, thường tự nghỉ : Mình không cần lao nhọc tu tập, có thể
xin Đức Như Lai cho mình Tam muội, con không hề biết là thân tâm vốn chẳng thay
nhau được, quên mất bản tâm của mình”.
Oai
thần của Đức Phật Thích Ca cũng chẳng thể nương cậy, chẳng thể ban cho ta Tam
muội, vậy oai thần của Đức Phật Di Đà lại có thể nương cậy, có thể ban cho Tam
muội sao ? Cho nên dùng nhất tâm niệm Phật là để dẹp trừ vọng tưởng. Nếu các
pháp đều thông, thì việc tu hành được tốt đẹp. câu “ Có Thiền có Tịnh độ giống
như cọp mọc sừng”- Cọp vốn có uy lại mọc thêm hai cái sừng thì càng thêm dũng
mãnh, nên làm Thầy, làm Phật là lý đương nhiên. Song, người không có thiện căn,
không có tin Thiền, cũng không có tin Tịnh, lẫn lộn hồ đồ thì “ Muôn kiếp cùng
nghìn đời không có người giúp đỡ”. Bình sinh tôi chẳng khuyên bảo ai đừng niệm Phật
và cũng chưa khuyên người đừng tham thiền. Mỗi khi nhớ đến ý chỉ “ Tà Sư nói pháp
nhiều như cát sông Hằng” trong Kinh Lăng
Nghiêm, là càng thấy thêm đau lòng, vì vậy tôi mới giải thích sơ qua ý nghĩa
bài Tứ Liệu Giản kia. Đối với hai pháp Tịnh,Thiền do nhìn chẳng thông suốt mới
vọng phân cao thấp. Hy vọng tất cả người tu chẳng chấp một bên. Được vậy mới
không phụ lòng Thiền sư Vĩnh Minh.
Ngài
Hư Vân nếu thấy người đến tham học, Ngài dạy Thiền trước, thấy không khế hội
thì Ngài dạy niệm Phật Tam muội. Ở chùa
Hoa Nam, ngoài Thiền Đường ra, Ngài còn lập thêm Niệm Phật Đường cho những người
chuyên tu Tịnh Độ. Đặc biệt chung quanh tờ Phái Quy Y của Ngài đều có in những
vòng tròn nhỏ, ghi chú rằng: “Nếu niệm Phật được một ngàn câu thì điểm vào vòng
một chấm đen. Niệm được một trăm ngàn câu thì ghi chấm đỏ” Ngài thường nói :
-
Thiền tông tuy “ nhất siêu trực nhập” ( vào thẳng siêu xuất )
Song
không phải bậc thượng căn lợi trí thì khó mà thực hành. Chúng sanh thời mạt
pháp, chướng nhiều huệ ít, chỉ cần nương vào pháp môn niệm Phật cũng có thể liễu
sanh thoát tử, vãng sanh về cõi Cực Lạc. Người sơ cơ thì thấy Thiền với Tịnh là
hai, nhưng tu thành rồi thì hai mà chẳng phải hai. Vì niệm Phật bắt buộc phải
nhiếp tâm : từng câu chân thật, niệm niệm tương ưng, lâu ngày thành một phiến.
Do sự nhất tâm nên lý cũng nhất tâm, năng sở đều quên, mình người chẳng hai thì
cùng với tham Thiền đâu có gì sai biệt?
Bởi vậy kinh nói: “ Nếu người chỉ niệm A Di Đà, chính là Thiền vô thượng”.
Đại sư Trung Phong nói : “ Thiền tức là Thiền của Tịnh Độ. Tịnh Độ là quốc độ của
Thiền. Những kẻ niệm Phật đầu môi, tham Thiền nơi chót lưỡi thảy đều là kẻ tự dối
mình. Gặp cửa ải sanh tử làm sao thoát đây ?”
Ngày
nay, người tham Thiền đa số đều không biết rằng Thiền, Tịnh chẳng phải là hai
pháp môn. Mỗi khi chê Tịnh độ là Tiểu thừa tức là đã có nhận
thức sai lầm rồi. Công phu tu vào cửa
Thiền, Tịnh tuy chẳng đồng, nhưng đích đến lại là một. Có người chỉ biết thiền
Sư Triệu Châu nói câu : “ Niệm Phật một
tiếng phải súc miệng ba ngày”…hay “ Một chữ Phật tôi không muốn nghe”… họ liền
chấp chặt vào đó mà hoàn toàn không hiểu câu nói này thuộc về dạng đối cơ (tuỳ cơ duyên mà thuyết ), rồi cứ vin vào đây mà phản đối niệm Phật.
Như vậy là hiểu lầm quá mức. Chư vị cần biết, ngoài các câu này, ngài Triệu
Châu còn có các câu đối cơ khác. Chẳng hạn như có người hỏi Triệu Châu :
Thầy
của Hoà thượng là ai ?
-
Mười phương chư Phật
-
Thầy của mười phương chư Phật là ai ?
-
Phật A Di Đà.
Đủ
thấy Phật A Di Đà chính là Thầy của mười phương chư Phật. Ngày nay, người tham
Thiền không hiểu rõ câu nói đối cơ trước của Thiền sư Triệu Châu, đồng thời
cũng không hiểu câu đối cơ sau của Ngài. Người tham Thiền cứ dùng câu nói trước của Ngài Triệu Châu mà chê
pháp môn niệm Phật, thật oan uổng cho ngài Triệu Châu ! Giả
sử người đó bây giờ mà gặp Triệu Châu, thế nào cũng bị Ngài cho ăn gậy .
Chư
Phật tử ! Muốn thỉnh được Thầy của mười
phương chư Phật thì phải chí thành khẩn thiết niệm Phật A Di Đà đi ! Mọi người nghe Ngài khai thị
như vậy, có cảm giác như mình vừa ăn gậy, các tạp niệm lăng xăng sáng ba chiều
bốn ngay đây liền được thống nhất. Tuân theo lời khai thị của Ngài, mà quyết chọn
pháp môn Tịnh Độ thực hành chuyên chú và nguyện dùng pháp môn này làm pháp duy
nhất để độ mình và độ người.
LỜI
KHAI THỊ ( TU DỄ HAY KHÓ )
Ngài
nói : pháp tu hành nói dễ thì cũng thật dễ, nói khó cũng thật khó. Dễ là; Chỉ cần
các ông buông xả hết, lòng tin chắc thật, phát tâm kiên cố lâu bền thì sẽ được
thành công. Còn khó là : vì chúng ta sợ khổ, chỉ muốn an lạc. Chẳng biết rằng,
đối với tất cả pháp hữu vi trên thế gian, ta vẫn phải trải qua học tập mới được
thành, huống nữa là học đạo Thánh hiền ? – Muốn thành Phật thành Tổ mà vội vàng
cẩu thả là có thể thành công sao ? cho nên điều tối quan trọng là :
1/
Phải có lòng tin kiên cố, 2/ Phải phát tâm lâu bền.
1-
Lòng tin kiên cố : Bởi vì, người tu một khi hành đạo tất cả đều không thể tránh
khỏi ma chướng. Ma chướng ở đây tức là những trần lao nghiệp cảnh : sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp. Những nghiệp cảnh này chính là oan gia sinh tử của các
ông và tôi. Cho nên phần đông các Pháp sư giảng kinh, thường ở trong cảnh giới
này mà đứng không vững. Nguyên nhân chính là do tâm đạo không kiên cố.
2-
Phát tâm lâu bền : Chúng ta sinh trên đời
này tạo nghiệp vô số vô biên, một khi muốn tu hành, liễu sanh thoát tử, há có
thể đem mớ tập khí lâu đời ấy buông được hết trong một lúc hay sao ? Như chư Tổ xưa nay : Thiền Sư Trường Khánh, ngồi rách đến
bảy cái bồ đoàn. Thiền Sư Triệu Châu 80 tuổi rồi mà vẫn còn đi hành cước, 40
năm khán một chữ VÔ, chẳng tạp dụng tâm, sau mới được đại triệt đại ngộ….
Các
ông và tôi hiện nay phải đem những tập khí xấu buông sạch hết, lắng trong một
niệm thì sẽ đồng với Phật Tổ. Như trong Kinh Lăng Nghiêm nói : “ Như lóng nước
dơ, phải chứa trong một nơi yên tĩnh, lắng lâu đến bất động, cát đất sẽ tự chìm
xuống đáy, nước liền trong trẻo… đây gọi là mới điều phục khách trần phiền não.
Tới khi đã gạn bỏ hết chất cặn bã rồi, còn thuần là nước trong, mới được gọi là
“Đoạn dứt cội gốc vô minh ”. Tập khí phiền não của các ông và tôi giống như bùn
cặn, nên phải dùng câu thoại đầu trị. Câu thoại đầu này cũng giống như cục
phèn, có khả năng làm cho nước dơ lắng trong ( tức là hàng phục phiền não ). Nếu
người dụng công có kết quả, đến chỗ thân tâm nhất như, bây giờ cảnh tịnh hiện
tiền thì cần phải chú ý, chẳng nên dừng bước nơi đây, phải biết đây chỉ là bước
đầu của công phu, phiền não vô minh hãy còn, chưa đoạn trừ hết. Đó là từ tâm
phiền não đi đến chỗ thanh tịnh, cũng như lóng nước dơ thành nước trong. Mặc dù
đã được như thế song còn cặn bùn còn nằm dưới đáy chưa trừ sạch nên cần phải
gia công tiến tới. Người xưa nói :
Nếu
không tiến bước thì đã nhận hoá thành làm nhà mình, phiền
não ( bùn nhơ chưa gạn đi ) gặp cơ hội sẽ dấy khởi lại. Trong trường hợp này
thì muốn làm một người tu liễu cũng khó. Cho nên cần phải gạn bỏ bùn nhơ đi,
còn lại thuần nước trong mới là đoạn trừ, đoạn dứt được cội gốc vô minh. Như thế
mới thành Phật. Đến lúc vô minh đã đoạn dứt hẳn, thì ông mới có thể tuỳ nghi tại mười phương thế giới hiện toàn thân thuyết pháp.
Như Bồ tát Quan Thế Âm có 32 ứng thân, tuỳ chúng sanh hợp
thân nào, Ngài liền hiện thân đó để thuyết pháp. Lúc này thì dù ở trong dâm
phòng quán rượu, thai lừa bụng ngựa, thiên đường địa ngục gì.. các ông đều tự
do tự tại, không bị câu thúc. Nếu không được như thế thì : “ Một niệm sai liền
bị luân hồi”.
TU
TẬP PHẢI HẸN KỲ THỦ CHỨNG
Điều kỳ vọng duy nhất của người tu là mong chứng
ngộ, cho nên phải hẹn kỳ thủ chứng. Chứng có nghĩa là chứng ngộ, tức là thấy được
“ Bản địa phong quang” của chính mình, ngộ được cái “ Diệu tính Như Lai” cho nên mới gọi là chứng
ngộ. Người nào cũng có thể chứng ngộ, nếu như chúng ta phát khởi đạo tâm tinh tấn,
thì có thể ai ai cũng khai ngộ được. Người xưa nói : “ Phàm phu thành Phật là
chuyện dễ, nhưng trừ bỏ vọng tưởng mới là chuyện khó”.
Chỉ
vì chúng ta từ vô thuỷ kiếp đến nay, tham ái quá lẫy lừng,
trôi nổi theo dòng sanh tử, chui vào tám vạn bốn ngàn trần lao, những tập khí xấu
buông chẳng nổi, nên chẳng được ngộ đạo, không giống như chư Phật và Bồ tát,
thường giác chẳng mê. Cho nên ngài Liên Trì nói : “ Duyên ô dễ nhiễm đạo nghiệp
khó thành, chẳng rõ muôn duyên sai biệt trước mắt, chỉ thấy gió cảnh mênh mông
thổi làm điêu tàn cả rừng công đức. Lửa tâm hừng hực thiêu rụi hạt giống Bồ đề.
Đạo tâm nếu mạnh như thức tình thì chắc chắn thành Phật lâu rồi. Bởi vì chúng
ta hay biện biệt, việc này việc nọ. Nếu chẳng thấy điều quấy của người, chẳng
thấy việc hay của mình thì tự nhiên trên cung dưới kính, Phật pháp luôn luôn hiện
tiền, phiền não trần lao đều được giải thoát.”.
Nhiễm
ô là cảnh giới của phàm phu, thảy đều tham nhiễm tài sắc danh lợi, sân hận đấu
tranh. Đối với hai chữ đạo đức coi như hòn đá buộc chân. Từ sáng đến chiều, mừng,
giận, buồn, vui, tham ái cảnh phú quý vinh hoa, các thế tình chẳng đoạn, một
phút niệm thôi dứt không có, cho nên rừng công đức bị điêu tàn, hạt giống Bồ đề
bị cháy rụi. Nếu xem tình đời lợt lạt, hết thảy thân hữu oan gia đều thấy bình
đẳng. Chẳng sát sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng vọng ngữ, chẳng uống
rượu. Đối với tất cả chúng sinh, cư xử bình đẳng không phân biệt. Thấy người
đói như mình đói, thấy người chìm đắm như mình chìm đắm… phát khởi tâm Bồ đề
như thế thì mới có thể cùng đạo tương ưng, cũng có thể thành Phật tức khắc. Nên
nói : “ Đạo niệm nếu bằng tình niệm thì thành Phật đã lâu rồi”.
Chư
Phật cùng với Hiền thánh ứng hiện ở thế
gian, tất cả đều vì phục vụ chúng sanh, nên mới gọi là “ cứu khổ ban vui”, khởi
lòng từ giúp đỡ. Các ông và tôi cần nên “ Khắc kỷ phục lễ”, làm việc không vì sự
thọ hưởng của mình. Được vậy, chúng ta ai cũng đều không khốn khổ, làm việc gì
cũng có thể hoàn tất. Đồng thời, bản thân các ông cũng nhờ đó mà được quả thù
thắng viên mãn.
Như
khi nước sông dâng thì thuyền cũng được dâng cao, các ông nếu biết dùng tâm từ
bi, lòng cung kính đối với mọi người, không tự cao tự đại, không kiêu ngạo giả
dối thì mọi người nhất định sẽ cung kính lễ độ đối với ông. Ngược lại, nếu ỷ
tài coi thường thiên hạ, hoặc miệng nói phải mà tâm làm quấy, chỉ biết toan
tính danh lợi theo thinh sắc, thì cho dù người đời có cung kính ông, e chỉ là
giả dối mà thôi.
Thế
nên, Đức Khổng Tử nói “ Kính người thì
được người kính. Yêu người thì được người yêu”. Lục Tổ dạy : “ Người quấy ta đừng
quấy, mình sai thì nên sửa sai”. Cho nên tất cả chúng ta, điều cần nhất là chớ
sanh tâm thị phi, khởi lòng phân biệt mình và người, nên noi gương chư Phật và
Bồ tát mà phụng sự chúng sanh, thì hạt giống bồ đề sẽ được gieo rắc khắp nơi,
quả ngọt lúc nào cũng thu hoạch được. Phiền não tự nhiên trói buộc các ông chẳng
nổi. ( Ganh tị với người khác, tức là đem rác về nhà mình . Hay thấy lỗi người khác, chẳng khác đem rác
vô nhà mình ).
Đức
Thế Tôn dạy nhiều đến Tam tạng, Mười hai bộ kinh… tất cả đều vì ba độc Tham,
Sân, Si của chúng ta. Điều trọng yếu của Tam tạng và Mười hai bộ Kinh là Giới, Định, Tuệ tức là nhân quả, cốt để chúng
ta ngăn trừ tham dục, khởi lòng hỷ xả, thực hành Lục độ vạn hạnh, phá bỏ tà kiến
ngu mê, viên mãn trí tuệ, đức tướng trang nghiêm pháp thân công đức. Nếu có thể
y theo đây xử thế, vì người, lợi người thì dù ở bất cứ nơi nào cũng là thế giới
Hoa tạng cả.
KHAI
THỊ CHO KHOÁ ĐẢ THẤT
Quí
vị đều không ngại phong trần, chẳng ngại mệt nhọc. Có những vị rất ư bận rộn
cũng tự nguyện đến tham gia, đủ để thấy ai cũng có cái tâm chán phiền thích
tĩnh. Xưa nay các ông và tôi đều có cùng một tâm. Chỉ vì liên quan đến mê và ngộ
nên có chúng sanh và Phật.
Chúng
ta suốt ngày bận rộn không một phút giây rảnh rỗi. Nếu có suy nghĩ, chỉ toàn là
những điều vô ích, đa số con người sống trên thế gian nầy, cả đời bôn ba, ngày
đêm mê muội, luôn mơ tưởng chuyện ăn no mặc ấm, đắm say ca vũ, đa phần mong con
cháu mình được giàu sang phú quý, muôn đời vinh hoa. Ngay cả hơi thở ra không
thở vào, dù họ có chết thành ma, lòng vẫn còn muốn bảo hộ vợ con, tài sản,…được
hưng vượng. Những người này quả thật là ngu si hết sức ! Lại có nhiều người, biết
được chút đỉnh thiện ác, nhân quả, muốn tạo công đức, nhưng chỉ biết làm chay
cúng dường, hoặc sơn phết tượng Phật hay sửa chùa miếu… đây thuộc gieo nhân hữu
lậu, mong cầu phước báo đời sau. Vì họ không hiểu được sự quý báu của công đức
tu hành ( vô lậu ) nên mới bỏ qua không thực hành.
Kinh
Diệu Pháp Liên Hoa nói : “ Nếu có người chỉ ngồi tĩnh toạ
trong khoảnh khắc, còn hơn kẻ xây tháp bảy báu hằng sa”. Bởi vì pháp ngồi tĩnh toạ có thể giúp chúng ta thoát ly trần lao, khiến thân tâm an
lạc, tự tánh được viên minh, liễu sanh thoát tử. Trong khoảnh khắc tức là trong thời gian một
sát na, nếu người dùng tâm thanh tịnh, phản chiếu hồi quang, ngồi trong khoảnh
khắc, dù chẳng ngộ đạo nhưng đã gieo được hạt giống chánh nhân Phật tánh, thế
nào cũng có ngày thành tựu, hoặc trong khoảnh khắc công phu đắc lực cũng có thể
thành Phật. Cho nên trong kinh Lăng Nghiêm, Tôn giả A Nan nói: “ Không cần trãi
qua vô số kiếp mà được pháp thân ”.
Chỉ
vì tôi và các ông cùng bao người, bình thường toàn ở trong ngũ dục, trần lao, mừng
vui theo được mất, toàn mưu toan hưởng lạc. Nhưng hôm nay, ở Thiền Đường này,
trong thời gian chỉ tịnh. Dòm không thấy, lắng chẳng nghe, đối với cửa sáu căn
cũng giống như con rùa co rút hết các chi vào vỏ, mặc tình cảnh giới quấy nhiễu,
các ông cũng bất động, tức là tu pháp vô vi, cũng là pháp vô lậu. Cho nên dùng
bảy báu như vàng bạc… để xây tháp dầu nhiều như cát sông Hằng, vẫn không bằng
công đức một khoảnh khắc ngồi yên nhiếp tâm.
Con
rùa đen rút hết các chi vào bên trong mai là một thí dụ. Bởi vì loài hải cẩu
săn mồi, thấy con rùa đang bò trên bãi biển, bèn bắt lấy định ăn. Rùa biết hải
cẩu muốn ăn thịt mình, bèn rút hết bốn chân và đầu, đuôi vào bên trong mai. Hải
cẩu thấy không làm gì được rùa, chỉ mất công cay đắng liền bỏ đi. Bấy giờ rùa
được thoát nạn. Chúng ta sống trên thế gian này, những người không tiền thì suốt
đời bận rộn chuyện áo cơm, kẻ giàu sang thì đắm say sắc dục không rứt ra được.
Thế thì cũng giống như hải cẩu bắt ăn thịt. Nếu hiểu được sự nguy hại và biết
thu nhiếp sáu căn, hồi quang phản chiếu, thì có thể trong cái chết được sống lại.
Hai
ngày trước tôi nói qua về chánh pháp nhãn tạng, là tâm pháp Như Lai, là căn bản
của liễu sanh thoát tử. Pháp môn giảng kinh, tuy giúp người phát khởi lòng tin,
nhưng muốn liễu sanh tử thì cốt yếu vẫn là bản thân phải trải qua việc tu hành
chứng ngộ, đây là điều rất khó. Trong tông môn không những các Tỳ kheo và hàng
Cư sĩ có công hạnh không thể nghỉ bàn, mà trong giới Tỳ kheo ni cũng có những bậc
nhân tài vĩ đại.
Hiện
nay trong quý vị cũng có nhiều Ni chúng. Vì sao không hiển tay mắt biểu hiện
chánh pháp thay cho tiền nhân? Nên biết Phật pháp bình đẳng, các vị phải nỗ lực, không nên sinh lòng lui sụt, làm uổng phí duyên lành.
Người
xưa nói “ Bách niên tam vạn lục thiên nhật. Bất phóng thân tâm tĩnh phiến thời”
( Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày. Chẳng chịu buông hết thân tâm cho yên tĩnh ?
) Các ông cùng tôi từ vô lượng kiếp đến
nay trôi nổi trong sanh tử, chỉ vì không chịu buông nên cam chịu luân hồi, chẳng
được giải thoát.
Vì
vậy các ông cần phải buông bỏ thân tâm đến chỗ yên tĩnh, hy vọng là thùng sơn lủng đáy cùng chứng vô sanh pháp nhẫn./.
KHAI
THỊ THẤT THỨ HAI
Xưa
nay, con người sinh ra trên đời vui ít khổ nhiều. Thời gian trôi nhanh, mấy chục
năm dài loáng qua như chớp mắt. Dù có sống lâu đến 800 tuổi như ông Bành Tổ thì
nhìn theo pháp Phật vẫn còn rất ngắn. Hãy xem trong đời những người sống được
70 tuổi xưa nay thật hy hữu. Các ông và tôi đến nay đã chứng kiến bao cảnh ngắn
ngủi như huyễn như hoá nên không còn lưu luyến. Những vị đã
đến tham gia thiền thất này quả thật đã có căn lành đời trước. Pháp tu hành chỉ
quý ở tâm lâu bền. Tất cả chư Phật và Bồ tát trong quá khứ không ai mà không trải
qua nhiều kiếp tu hành mới được thành công.
Trong
Kinh Lăng Nghiêm, coi Chương Viên Thông, Bồ tát Quán Thế Âm nói : “ Con nhớ lại
trong vô số hằng sa kiếp về trước, có Đức Phật xuất hiện trên đời là tên là
Quán Thế Âm. Con ở nơi Đức Phật đó phát tâm Bồ đề. Ngài dạy cho con hành theo
pháp Văn, Tư, Tu mà vào tam muội ”.
Dẫn
đoạn kinh này để thấy Bồ tát Quán Thế Âm không phải ngày một ngày hai mà thành.
Đồng thời Ngài còn công khai đem pháp môn đã tu, giảng cho chúng ta nghe. Đây
là pháp đệ nhất trong 25 pháp viên thông trên Hội Lăng Nghiêm. Cách dụng công của
Ngài nhờ Văn, Tư, Tu mà vào được tam muội Nhĩ căn viên thông ( gọi là Chánh định
). Ngài nói tiếp : “ Mới đầu ở nơi tánh nghe, vào dòng thì quên mất” ( Sơ ư văn
trung, nhập lưu vong sở ).
Phương
pháp này là đem nhĩ căn nghe trở lại tự tính ( phản văn văn tự tánh ), chẳng để
sáu căn chạy theo sáu trần, cần thâu nhiếp sáu căn vào trong pháp tánh. Cho nên
Ngài nói : “ Chỗ vào đã tịch tĩnh thì hai tướng động tịnh tất nhiên chẳng sinh”
( Sở nhập ký tịch, động tịnh nhị tướng liễu nhiên bất sinh ).
Lại
nói : “ Như thế tăng dần lên, cái nghe và cái bị nghe đều hết, nhưng cũng chẳng
trụ nơi chỗ hết nghe nầy”. Câu này có ý nghĩa nhắc chúng ta đem cái công
phu “ Phản văn” chẳng để ngưng trệ mà phải
thứ lớp tăng dần lên, cần gia tăng thêm công hạnh mới được: “ Giác và sở giác đều
không. Giác được cái không đã viên mãn rồi thì năng không và sở không đều diệt.
Sinh diệt diệt rồi thì tịch diệt hiện tiền”. Đến cảnh giới này là tự đem công
phu phản văn văn tự tánh, tất cả những thứ sinh diệt diệt hết rồi, thì chân tâm
hiện tiền. Tức là nói : “Cuồng tâm chợt dừng, dừng tức Bồ đề”. Bồ tát Quán Thế
Âm đã đến cảnh giới này. Ngài nói : “Bỗng nhiên siêu việt
khỏi cảnh giới của thế gian và xuất thế gian. Mười phương tròn sáng, được hai
điều thù thắng”:
1.
Trên hợp với bản tâm diệu giác của chư Phật, đồng một lực tu với Đức Như Lai.
2.
Hợp với mười phương sáu đường chúng sanh,
cùng các chúng sanh đồng một tâm bi ngưỡng.
Chúng
ta hôm nay, học Phật tu hành, trước hết phải tự mình dụng công phu cho tốt, đem
hết những tính chúng sanh như tham, sân, si… độ tận hết. Chứng được chân tâm diệu
giác thanh tịnh xưa nay, rồi sau mới “ Thượng hành hạ hoá”
như 32 ứng thân của Bồ tát Quán Thế Âm, mới có sức mạnh và năng lượng tuỳ loại hoá độ. Cho nên Bồ tát Quán Thế
Âm hoặc hiện thân đồng nam, đồng nữ ở thế gian, người đời không biết công hạnh
của Bồ tát Quán Thế Âm là đã thành Phật, không còn các tướng nam, nữ, ngã,
nhơn…Ngài chỉ tuỳ theo căn cơ chúng sanh mà ứng hiện..
Những
ai nghe danh Bồ tát Quán Thế Âm mà khởi lòng thương kính, là do đời quá khứ họ
đã từng niệm Thánh hiệu của Ngài. Hạt giống lành này đã có sẵn trong ruộng Bát thức nên gặp duyên là hiển hiện. Bởi vậy
Kinh nói : “ Vừa vào nhĩ căn thì vĩnh viễn thành hạt giống đạo” ( Nhất nhập
nhĩ căn, vĩnh vi đạo chủng ).
Các
ông và tôi hôm nay đến đây huân tu, cần phải y nơi pháp Tối thượng thừa mà chư Phật
Bồ tát đã tu chứng. Phương pháp hiện tại này là phải sáng tỏ được bản tâm diệu
giác, tức “ kiến tánh thành Phật”. Nếu như không sáng tỏ được tâm địa thì Phật không thể thành, nên cần phải sáng
tâm địa. Muốn sáng tâm, việc đầu tiên là phải hành thiện đạo. Chúng ta từ sáng
đến tối, các điều ác chớ làm, các điều thiện hằng làm thì phước đức tự tăng trưởng,
thêm một câu thoại đầu thường đề khởi, một niệm chẳng sinh, lập tức thành Phật.
Chư vị nên nắm lấy thời gian, chớ tạp dụng tâm, hãy khéo léo tu đi.
Chúng
ta chìm trong kiếp sống điên đảo đảo điên như mộng huyễn này, ngày qua ngày
không biết được sự tự tại của Đức Phật, không nghĩ đến việc thoát sanh tử, cứ
theo thiện ác mà thăng trầm, tuỳ nghiệp lực mà thọ báo.
Người
đời đa số làm thiện ít, tạo ác lại nhiều, nên ít kẻ giàu sang mà lắm người bần
khổ . Chìm trong sáu nẻo luân hồi thọ muôn vạn khổ sở. Có kẻ sáng sinh chiều chết
hoặc chỉ sống được vài năm. Có người sống đến tuổi già mới chết. Nhưng tất cả đều
không làm chủ được mình. Vì vậy mới có chủ trương nương vào bi nguyện của Phật
để có thể tu hành. Bởi chư Phật và Bồ tát có uy lực, có hạnh nguyện từ bi hỷ xả,
thừa khả năng cứu giúp chúng ta ra khỏi biển khổ, đến được bờ quang minh.
Từ
bi nghĩa là thấy tất cả chúng sanh quá thống khổ, nên dùng lòng lân mẫn thương
xót cứu độ, khiến họ lìa khổ được vui.
Hỷ
xả nghĩa là thấy tất cả chúng sanh khởi tâm niệm tốt gieo trồng phước điền thảy
đều tuỳ hỷ tán thán. Đối với các chúng sinh đang cần sự
giúp đỡ, đều tuỳ theo nhu cầu mà bố thí cho họ. Lúc Thế Tôn
còn đang tu, Ngài đã thành Bồ tát hạnh, bố thí hết đầu, não, xương, tuỷ …Cho nên Ngài từng nói : “ Trong cõi Tam thiên Đại thiên,
chưa có một mảnh đất nhỏ nào mà ta không từng bỏ thân chôn
xương”.
Hôm
nay, chư vị cần phải nỗ lực bám vào câu thoại đầu mà khán,
chẳng nên để thời giờ trôi suông. /.
***
0 nhận xét:
Đăng nhận xét