PHẬT
GIÁO BA THỪA
Phần đông những người đến chùa, lạy
Phật, tụng kinh, cúng dường làm phước, cầu cho gia đình được bình yên mạnh khoẻ, tai qua nạn khỏi, cầu cho con cháu thi đậu, thăng quan
tiến chức, làm ăn hanh thông phát đạt v.v... Quan niệm đời thường của mọi người
ấy đa phần xem Phật như một vị thần linh, có quyền năng ban phước trừ hoạ, linh thiêng che chở. Những người này khi khó khăn, hoạn nạn,
buồn khổ thì đến khẩn cầu, nhưng khi khoẻ mạnh, yên vui,
làm ăn hanh thông phát đạt thì quên mất, không một ngày lai vãng. Nhưng họ
không hiểu rằng Phật pháp rất là thực tế, phát xuất từ con người, là sự tự giác
của mỗi người, và không lệ thuộc vào bất cứ một quyền năng nào. Nếu không dùng
trí tuệ để hiểu biết về Phật pháp mà chỉ đơn thuần dựa vào
niềm tin và sự cầu nguyện, thì chúng ta ngộ nhận Phật giáo như các tập tục tín
ngưỡng nhân gian, cầu thần khấn thánh mà thôi.
Vì thế tin Phật mà không hiểu Phật là hành động
huỷ báng Phật pháp, làm cho Phật pháp suy tàn. Kẻ thù của
chúng ta không phải là con người, mà là sự thiếu hiểu biết, thiếu khoan dung, độc
tài, cuồng tín, tham đắm, hận thù, ích kỷ.
Đọc tụng kinh điển Phật mà hiểu được ý nghĩa của kinh thì chúng ta mới thấy Phật giáo không phải là một
tôn giáo mà là một hệ tư tưởng của triết lý sống, là lý tưởng sống, là nghệ thuật
sống, nếu áp dụng có thể đem lại hạnh phúc và an lạc cho bản thân mình, cho gia
đình và cho xã hội.
Phật giáo được ví như một cây đại thọ có
ba phần gốc, thân và ngọn cành lá. Phần gốc là phần căn bản, được gọi là Phật
giáo Nguyên thuỷ, phần thân được ví là Phật giáo Tiểu thừa
hay Phật giáo bộ phái; phần ngọn được ví
là Phật giáo Đại thừa. Sự tồn tại của cây không thể thiếu cả ba phần. Phần
gốc giữ cho cây đứng vũng, và chuyển sinh khí qua phần thân cây và ngọn cành.
Phần thân cây nếu không có thì phần ngọn cành và lá không thể phát triển, sum
xuê. Nếu cây không có sự phát triển của cành và lá thì cây trở nên trơ trụi. Ba
phần sẽ bổ sung cho nhau, như ba thời kỳ Phật giáo trải qua nhiều thế hệ hỗ
tương cho nhau. Như vậy Phật giáo chỉ có một, đó là một vị giải thoát. Nhưng muốn
tu đạt giải thoát thì có nhiều phương pháp, dù là Nguyên thuỷ,
Tiểu thừa hay Đại thừa, cũng đều nhắm đến mục đích là giải thoát giác ngộ như
nhau.
Phương pháp tu theo Phật dạy khác với các
pháp tu ngoại đạo là không rơi vào hai cực đoan khổ hạnh và hưởng thụ, mà đi
con đường trung đạo. Đức Phật nói rằng : Khổ hạnh không giúp cho con người
thoát khổ đau, mà lại càng thêm khổ. Còn
sự hưởng thụ cũng không làm cho con người hết khổ, mà làm cho con người đắm
chìm trong ích kỷ, tham lam.
Có ba phương pháp cho người tu tập thông
thường là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật
tông. Thiền là giáo lý cơ bản của Phật giáo, ngoài thiền tông còn có Tịnh độ
tông và Mật tông. Do hoàn cảnh cuộc sống thay đổi theo từng thời đại, để thích
nghi với cuộc sống, con người ngày càng bận rộn, trong Phật giáo chia ra có nhiều
pháp môn để dễ tu tập. Nếu biết áp dụng đúng thời đúng nơi thì tất cả các pháp
môn của Phật giáo đều mang lại lợi ích cho cuộc sống hiện tại của mỗi người.
Trong một ngày bất kể khi nào, chúng ta
có thể, tập trung niệm Phật, hay quán sát hơi thở, trong mọi cử chỉ hành động của
ta, theo dõi tư tưởng và hành động của mình, một động tác cũng để ý biết mình
đang làm gì, một ý niệm dù thoáng qua cũng biết mình đang nghĩ gì, và tự quản
lý tư tưởng, không để miên man bung lung. Theo đạo Phật đó là chánh niệm, chánh
niệm tức là thiền tập. Thực hành các pháp môn của Phật dạy, hằng ngày giúp cho đời sống hiện tại và tương lai của chúng ta, giảm bớt khổ đau,
không lãng phí trí lực, sức lực, giảm bệnh lo âu phiền muộn, thư thái, an nhiên
tự tại.
Pháp môn niệm Phật là pháp môn tu tập để
sau khi chết được vãng sanh về nước Tịnh độ của Phật A Di Đà, phương pháp chính
là pháp tu niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm cho đến “ nhất tâm bất loạn” thì sự chú tâm đó chính
là định, cũng đồng như tu thiền đạt đến vô niệm nhất tâm, hai phương pháp khác
nhau nhưng đồng một điểm.
Pháp môn niệm Phật rất dễ thực hành và
phù hợp cho mọi lứa tuổi mọi căn cơ, mọi hoàn cảnh, cho người Phật tử hay không
Phật tử đều có thể thực hành được. Là phương pháp nhiếp tâm lại một chỗ dễ nhất,
vì ngắn gọn trong sáu chữ hồng danh, tâm ta như con trâu tung tăng đây đó, sáu
chữ hồng danh như sợi dây cột thẹo mũi
con trâu, có chạy cũng không chạy đâu xa được. Phật tử dù có bận rộn công việc
hằng ngày cũng có thể tu được, vừa làm vừa niệm, vừa đi vừa niệm, đi, đứng, nằm,
ngồi đều niệm, không nhất thiết phải ngồi trước bàn Phật, hay nơi thanh vắng.
Thiền có nhiều phương pháp, nhưng không
ra ngoài hai thứ thiền chỉ và thiền quán. Thiền chỉ là đình chỉ mọi suy nghĩ, để
tâm vào một đối tượng duy nhất nào đó, không cho tâm rong chạy nơi khác. Thiền
quán là quán sát theo dõi, để tâm quán sát theo dõi hơi thở vô, hơi thở ra. Hơi
thở vô biết hơi thở vô, hơi thở ra biết hơi thở ra, hơi thở vô dài biết hơi thở
vô dài; hơi thở ra ngắn biết hơi thở ra ngắn.Hay quán sát một đề tài nào đó
v.v..Như vậy gọi là thiền quán, trong khi để tâm theo dõi một đối tượng nào đó,
khiến tâm không chạy đi nơi khác tạo cho tâm ở yên nơi một đối tượng, đó là trạng
thái định tâm. Khi có định tâm, tâm sẽ phát sanh trí tuệ, nhân giới sanh định,
nhân định sanh tuệ là vậy.
Thiền chỉ thì đình chỉ được phiền não,
nhưng chưa chấm dứt hết phiền não vi tế trong tâm, còn thiền quán có khả năng cắt
dứt phiền não và phát sanh trí tuệ, đạt đến giải thoát. Đức Phật dùng thiền quán, quán 12 nhân duyên
mà chứng ngộ thành bậc Chánh giác. Ví như một anh chàng thanh niên mê say một
cô gái xinh đẹp, anh ta theo dõi và mong muốn cô gái xinh đẹp sẽ là vợ mình sau
này. Nhưng bổng nghe cô gái này đang mang bịnh ung thư, thì bao nổi hy vọng mê
say của anh ta không còn. Anh ta sẽ quán sát cô gái này sẽ tiều tuỵ xấu xí, đau đớn và sẽ chết một ngày không xa, như vậy bao
ước mộng cô gái làm vợ trong tâm anh không còn một ý niệm nào nữa, chấm dứt
hoàn toàn. Công năng của thiền quán cũng như vậy, có khả năng dập tắt phiền não
và phát sanh trí tuệ nhanh hơn và hiệu
quả hơn, nhưng thiền quán lại khó tu hơn
thiền chỉ .
Thông thường tu “ chỉ ” thuộc về tĩnh, tu
“ quán ” thuộc về động. Pháp tu tập thiền của Phật giáo là một quá trình chuyển
đổi tâm lý dựa trên nguyên tắc đối tượng, khi tâm lý thụ động hôn trầm thì hành
giả vận dụng thiền quán để đối trị. Khi
tâm lý quá năng động, loạn động thì hành giả vận dụng thiền chỉ đối trị, sự đối
trị giữ mức trung bình vừa phải và tuỳ theo căn trí của người
tu tập.
Như vậy thiền quán, thiền chỉ hay niệm Phật,
trì chú là phương pháp chuyển hoá tâm niệm từ động qua
tĩnh, loại bỏ ý niệm xấu thay vào ý niệm tốt để dập tắt ba
nghiệp thân, khẩu, ý, dẫn đến thanh tịnh tâm, khẩu thanh tịnh, ý thanh tịnh,
thì hành giả có ngay an lạc và giải thoát hiện đời, và lần lượt tiến tu tâm ý sẽ phát triển lần theo công
năng của mỗi người tuỳ theo mức độ chuyên hay chậm.
Phật giáo không chủ trương con người lệ
thuộc vào Thượng đế, thần linh của các tôn giáo hữu thần, mà Phật giáo vạch ra
lộ trình giải thoát tự thân, khơi dậy tiềm năng giác ngộ tự thân không tìm cầu
tha lực. Đạo Phật từ chối sự hiện hữu của
linh hồn bất diệt. Theo Phật giáo đời sống sinh mạng của một con người như làn
sóng trên mặt nước, phần tử này dao động tác động đến sự chuyển động những phần
tử xung quanh, các lực tương tác cứ thế mà tạo thành làn sóng lan ra xa. Một
làn sóng là một đời sống và sự tiếp diễn của các đời sống được gọi là luân hồi.
Một sinh vật khởi tâm tạo tác, phải chịu
trách nhiệm về hành vi do thân, khẩu, ý của mình mà gây ra biệt nghiệp ( hậu quả cá nhân ) hay cộng nghiệp ( hậu quả
do tập thể ). Có những hành động gây báo ứng tức thời, có hành động gây báo ứng
trong đời sống hiện tại, có hành động gây báo ứng trong đời sống kế tiếp, và có
những hành động gây báo ứng trong các kiếp sau không xác định thời gian. Theo
Duy thức học Phật giáo, những động lực tạo ra dòng vận động của duyên khởi
chính là tâm thức. Tâm là điểm trọng yếu căn cơ của mọi hành động, được đặt vào
kho tàng tâm thức theo luật duyên sanh. Tức là tàng thức, hay còn gọi là thức A
Lại Da ( thức thứ 8 ). Từ trung tâm tích trữ tâm thức, kho chứa hạt giống của mọi
hiện hữu tồn tại trong tàng thức này khi chúng tiềm ẩn được gọi là chủng tử,
khi chúng hoạt động gọi là hiện hành. Những chủng tử cố hữu và hiện hành hỗ trợ
nhau, phụ thuộc nhau tạo nên vòng tròn mãi mãi
tái diễn tiến trình của bánh xe sinh hoá, sinh tử
luân hồi. Tàng thức lưu trữ những kết quả của quá khứ, để quyết định hình thái
của đời sống kế tiếp, và như thế theo học thuyết của Phật giáo, tái sanh không
phải là sự di chuyển của linh hồn mà là kết quả của các hành động đã được thi
hành trong đời sống trước đó.
Trọng tâm của Phật giáo vẫn là hành trì
tu tập, khai mở tuệ giác, tự chủ trong nhận thức hiểu được rằng tất cả tri thức
hay ngôn ngữ tất cả chỉ là giả tạm, chỉ là mặc định của xã hội. Chuyển “ mê”
thành “ngộ” chính là chuyển hoá tâm cho đến khi quay về bản tâm thanh tịnh, không để dòng
thác tri thức khống chế mà rơi vào sai lầm chấp thủ tự ngã “ cái tôi” và cái “
của tôi” là trường tồn vĩnh viễn. Nếu con người thật sự có một tự ngã là “ cái
tôi” trường tồn thì chúng ta đã có thể chủ động mà không bị sanh, lão, bệnh, tử
đột ngột ngoài ý muốn.
Lời dạy của Phật đã trải qua bao thế hệ truyền thừa, nhưng có những ai có
duyên tìm hiểu thì sẽ thấy rằng, tất cả
những triết lý và học thuyết Phật giáo đều
mang tính thiết thực, xuất phát từ tâm lý nhu cầu cuộc sống thực tế, bối cảnh
xã hội dù có thay đổi nhưng những lời Phật dạy luôn luôn thích hợp với sự chuyển biến của tư tưởng thời đại./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét