NGŨ
MINH TRONG GIÁO LÝ ĐẠO PHẬT
Đối với một vị hoằng pháp phải có đủ ngũ
minh, thì sự nghiệp hoằng pháp mới thuận lợi thành công. Vậy ngũ minh là những
gì : Nội minh, Y phương minh, Công xảo minh; Thanh minh và Nhân minh. 1/ Tức phải
am tường hiểu biết giáo lý của đạo mình đang theo; 2/ phải biết về thuốc men để
chữa trị cho mình và người khác; 3/ Phải biết kỹ thuật trong các ngành nghề
khoa học kỹ thuật, nông nghiệp, thương nghiệp v.v… để làm
ra của cải vật chất ; 4/ Phải biết về ngôn ngữ, ngữ pháp, ngữ nghĩa, sinh ngữ của
các nước khác; 5/ Phải biết lý luận, phân tích chứng minh để làm sáng tỏ các vấn
đề sai trái, chánh tà v.v…
Ngũ là năm, minh là sáng tỏ, hiểu biết
trên hai phương diện ngôn ngữ và hành động của một sự việc.
Ngũ minh không chỉ áp dụng cho người hoằng
pháp mà còn ứng dụng cho tất cả người thế tục trong xã hội. Trong xã hội muốn
phát triển sự nghiệp của mình được bền vững thì cần hiểu hết năm phần nầy trong
cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của mình.
1/ Nội minh : Môn học chuyên nghiên cứu về giáo nghĩa của tự
giáo. Như đối với Phật giáo, trước tiên người hoằng pháp cần phải có kiến thức
về Phật pháp. Muốn hoằng pháp, nghĩa là muốn đem giáo pháp truyền bá trong nhân gian, để mọi người đều được thấm
nhuần Phật pháp, hưởng sự lợi ích, thì trước tiên tự mình phải hiểu rõ giáo lý
của đạo Phật, nếu không hiểu giáo lý thì không thể thực hành đúng chánh pháp được.
Không những chỉ tự thân không thể thực hành đúng chánh pháp, mà cũng không thể
truyền đạt cho người khác hiểu biết rõ tôn chỉ của đạo Phật để họ áp dụng tu tập.
2/ Y Phương minh : Môn học
chuyên nghiên cứu về bệnh lý của các chứng bệnh, về dược lý tức dược tính của
các dược liệu và phương pháp bào chế thuốc men và về y lý tức phương pháp chữa
trị các căn bệnh. Thế gian đầy dẫy những bệnh nhân đau khổ về vật chất lẫn tinh
thần. Những phương thuốc chữa trị tâm bệnh rất cần thiết, nhưng những phương
thuốc chữa trị thân bệnh cũng không phải là không quan trọng. Nếu có điều kiện
và thời gian thì người làm công tác hoằng pháp nên học chuyên môn về y dược, để
có thể cứu chữa cho người bệnh, đó là một công tác xã hội rất thích hợp với
lòng từ bi. Các bác sĩ, các lương y, nếu là Phật tử thì đã có trong tay một
phương tiện hành đạo cứu khổ rất thuận lợi, đem lại sự an vui đến cho người bệnh.
3/ Công xảo minh : Cũng gọi là công nghệ minh, là môn học chuyên
nghiên cứu về các dịch vụ công nghiệp, thương mại, khoa học, kỹ
thuật. Đối với người Phật tử, cuộc sống cần phải có đủ điều kiện kinh tế, mới
có thể tổ chức cứu tế, giúp đỡ người nghèo đói, bệnh tật, thể hiện lòng từ bi,
vị tha của Bồ tát. Công nghệ và kỹ thuật mỗi ngày mỗi tiến
bộ theo đà phát triển của văn minh khoa học, do vậy người Phật tử cần phải học
tập để có những phương tiện hành đạo có hiệu quả và rộng rãi trong phạm vi xã hội.
4/ Thanh minh : Môn học
chuyên nghiến cứu về ngôn ngữ, ngữ pháp, ngữ nghĩa, như bộ môn ngôn ngữ học
ngày nay. Đây là môn học không chỉ chú trọng về ngôn ngữ trong giao tiếp, mà
còn đề cập đến vai trò của văn học trong việc chú thích, trước tác, phiên dịch,
giảng giải kinh, luật, luận. Đặc biệt đối với Phật giáo trong thời đại hội nhập
và phát triển ngày nay, việc trang bị cho mình những ngoại ngữ được xem là sinh
ngữ là một nhu cầu cần thiết. Trên tinh thần đó, ngoài việc thông hiểu như cố
ngữ Pali, Sankrit, Hán cổ…để giúp chúng ta hiểu rõ những lời dạy của chư Phật,
chư Tổ, người hoằng pháp còn phải biết thêm
những sinh ngữ như Anh ngữ, Hoa ngữ…để hỗ trợ cho sự nghiệp hoằng pháp.
5- Nhân minh : Là một môn
luận lý học của Phật giáo, chủ trương chứng minh lập thuyết bằng Nhân, nghĩa là
đặt vấn đề và suy cứu đến lý do của vấn đề đó. Một lập luận đầy đủ theo luận thức
nhân minh phải có đủ ba phần : Tôn,
Nhân, Dụ, gọi là tam chi tác pháp. Tôn là chủ trương. Nhân là lý do thành lập
chủ trương ấy. Dụ là những sự kiện cụ thể đem ra để chứng minh. Môn học này có
chức năng như môn Logic học phương Tây là trang bị cho người biện luận một
phương pháp tư duy lý luận có tương quan nhân quả chặt chẽ và chính xác. Am tường
giáo lý chưa đủ, muốn trình bày giáo lý ấy một cách rõ ràng, khúc chiết, muốn
có lập thuyết vững vàng, người hoằng pháp cần phải dựa trên một phương pháp luận
lý. Phương pháp luận lý ấy, trong Phật giáo gọi là Nhân minh luận thể hiện qua
luận thức nhân minh. Ví dụ :
- Tôn : Mọi sự vật đều vô thường
- Nhân : Vì do duyên sanh,
- Dụ : Như bàn, ghế…
Như vậy, môn luận lý nhân minh có
phần giống với luận lý học hình thức của Atistote, nhưng lại đầy đủ và sắc bén
hơn, vì luận lý nhơn minh có đủ tính cách diễn dịch và quy nạp dựa trên căn bản
mối liên quan mật thiết với nhau giữa ba phần : tôn, nhân, dụ của một luận thức.
Như vậy ngũ minh là 5 phương thức làm
phát huy kiến thức và phát triển vật chất trong đời sống sinh hoạt của một xã hội,
và làm cho đạo pháp phát triển vững bền không bị các tư tưởng khác bác bẻ, xem
thường. Sở dĩ đạo Phật được nhiều giới trí thức xưa nay chấp nhận, đồng thuận đều
nhờ trên 5 phương pháp cùng nhau phối hợp giữa đạo và đời, làm cho đạo Phật ở
đâu, thời nào cũng không bị lỗi thời trong nếp sống nhân gian, mặc dù khoa học
có phát triển đến đâu, với 5 phương pháp ngũ minh đều được áp dụng và duy trì./.
( Trích phần ngũ minh trong tập : Tìm hiểu nhân minh- HT Thiện
Toàn- 2019 )
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét