HAI
LOẠI VÔ MINH
Vô minh câu sinh và vô minh phân
biệt.
Vô
minh câu sinh : là vô minh có chủng tử được huân tập trong tạng thức từ vô thuỷ, khi ta sinh thì nó cũng liền sinh theo. Có thể xem vô
minh câu sinh như là vô minh bản năng tiên nhiên, tự nhiên vốn có, không cần học
tập. Nói cách khác, có sinh mạng thì tự nhiên có vô minh gọi là vô minh câu
sinh.
Vô
minh phân biệt : là loại tâm si mê do phân biệt không như lý sinh ra, như nói “
nhập gia tuỳ tục” nghĩa là sống trong xã hội thì phải theo
phong tục, văn hoá của xã hội đó, dù đó là thiếu những tập
tục nhân văn, phi đạo đức. Hành trạng của vô minh phân biệt dễ thấy, đó là những
nhận thức sai lầm chỉ có tính cách nhứt thời. không căn bản, như nói : “ giận mất
ngon”, đó là vô minh phân biệt, có thể điều chỉnh, sửa sai.
Vô
minh chính là vọng tưởng điên đảo ( nhận biết sai, hiểu biết trái ngược ) nên
khi hiện hành, vô minh sẽ tạo ra hai hậu quả tiêu cực cho nhận thức. Một là
phán quyết sai lầm, sẽ dẫn đến hậu quả thất bại, nguy hiểm. Hai là do dự không
quyết, sẽ đưa đến tâm trạng nửa tin nửa ngờ, chần chừ lưỡng lự, không hạ quyết
tâm, đánh mất cơ hội, tâm nguyện không thành, kết quả không đạt. Nhìn từ phạm
trù đối lập : Lý-Sự, vô minh được phân làm hai loại :
Lý
vô minh : là si mê về mặt chân lý hay nguyên lý, nghĩa là không thấy được chân
tâm thanh tịnh của mình và cũng không nhận chân được bản thể của vạn hữu trong
pháp giới. Lý vô minh thường khiến hữu tình luôn vọng chấp ngã tướng và pháp tướng
của vạn pháp là chân thật, rồi cứ mãi chạy theo bám lấy chúng một cách điên đảo
không biết buông xả. Khi lý đã vô minh thì sự tất nhiên cũng vô minh. Như không
thông hiểu nguyên tắc cơ bản của pháp môn thiền định mà cũng học đòi ngồi thiền
nhập định, kết quả đắc định đã không thành, mà thậm chí còn có thể bị tẩu hoả nhập ma nữa. Tục ngữ có câu :“Đừng thấy kẻ khác ăn khoai
mài mà mình cũng vát mai chạy quấy ”. Lý vô minh thuộc về loại căn bản vô minh.
Sự vô minh :
là si mê về mặt sự tướng của vạn pháp, nghĩa là không hiểu rõ về sự vận
động của những sự vật trong thế gian. Do không nắm bắt được quy luật vận động của
các sự vật, hiện tượng, nên những hoạt động của ta phạm phải sai lầm. Người bị
sự vô minh chi phối có thể là do không hiểu được lý vô minh, nhưng cũng có trường
hợp là do người ấy “ năng thuyết bất năng hành”. Như trong kinh Lăng Nghiêm, Đức
Phật đã ân cần khuyến cáo Tôn giả A Nan
rằng : “ Ông tuy nhiều kiếp có trí nhớ siêu phàm, có thể ghi nhớ tất cả nghĩa
lý thâm sâu trong tam tạng kinh điển Như
Lai đã giảng, nhưng như thế cũng không giúp ông giải thoát sanh tử, không bằng
một ngày tu hạnh vô lậu” ( Nhữ tuy lịch kiếp ức trì Như Lai bí mật diệu nghiêm,
bất như nhứt nhựt tu vô lậu nghiệp ).
Kinh
Lăng Nghiêm nói : “ Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn, tri kiến vô kiến, tư tức
Niết bàn ”. Nghĩa là : Tri kiến mà chấp nơi tri kiến là gốc rễ của vô
minh, tri kiến mà không chấp nơi tri kiến
ấy, đó mới gọi là Niết bàn . Do đó, vô minh là đầu mối của sanh tử khổ đau và
luân hồi.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét