TÍN
NGƯỠNG DARUMA CỦA NGƯỜI NHẬT
Tiếng Nhật Daruma dịch âm từ tên của vị tổ Thiền tông của Trung Hoa
là Bồ-đề-Đạt-ma. Thiền tông tại Trung
Hoa được truyền sang Nhật Bản, từ đó Thiền không những là phương pháp tu tập ở
nơi đất nước Nhật mà nó trở thành văn hoá của nước Nhật.
Trước khi nói về tín ngưỡng Daruma của
Nhật, chúng ta quay về nguồn gốc tín ngưỡng này phát xuất từ tổ Bồ đề Đạt ma. Bồ
đề Đạt ma từ Ấn Độ sang
Trung Hoa với mục đích truyền phương pháp tu tập Thiền. Phương pháp thiền của Bồ đề Đạt ma khác lạ đối
với các phương pháp tu tập thời bấy giờ với câu kệ bất hủ làm đảo lộn sự tu tập
xưa nay của phái thiền tại Trung Hoa với
câu kệ rằng:
Bất
lập văn tự
Giáo ngoại biệt truyền
Trực
chỉ nhân tâm
Kiến
tánh thành Phật.
Nghĩa là: Không dùng văn tự, truyền
ngoài kinh điển, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Với phương pháp mới
lạ này, lúc đầu ai cũng xốc, ngay cả vua Lương Võ Đế cũng lắc đầu không chấp nhận, cho Bồ đề Đạt
ma là ngoại đạo đuổi Ngài đi. Đạt Ma thấy
tâm người không hiểu nổi phương pháp tu tập của Ngài truyền ra, nên đến chùa
Thiếu Lâm ngồi quay mặt vào vách chín năm trường, không hỏi không nói cùng ai.
Đến năm thứ 9 có tên là Thần Quang nghe danh Đạt Ma mới đến hỏi đạo, nhưng Đạt
Ma không trả lời, Thần Quang đứng sau lưng trong tuyết ba ngày liên tục dưới
tuyết ngập cả người. Đạt Ma mới quay ra hỏi nhà ngươi muốn tìm cái gì? Thần
Quang nói: “Tâm tôi không an, nhờ sư an tâm cho tôi”. Đạt Ma trả lời: “Ngươi đem tâm ra đây ta an
cho”. Thần Quang tìm mãi tâm không ra,
bèn thưa với Đạt Ma “tôi tìm tâm không
ra”. Đạt Ma nói: “Ta đã an tâm cho người rồi”. Ngay đó Thần Quang ngộ được đạo.
Đạt Ma nhận Thần Quang làm đệ tử và cho pháp danh là Huệ Khả.
Pháp thiền vô ngôn vô tự chỉ thẳng tâm người
thấy tánh thành Phật bắt đầu bén duyên từ đây. Đạt Ma nhận thấy người tu thiền
sức khoẻ kém yếu, ngồi lâu đau lưng, mõi gối, nhứt chân không thể ngồi thiền được,
nên Đạt Ma bày cho phương pháp rèn luyện thân thể bằng phương pháp gọi là “dịch
cân kinh, và Tẩy tuỷ kinh” tức là phương pháp làm cho thông kinh mạch lạc và cứng
chắc xương cốt. Phương pháp này sau biến
thành Võ Đạo của chùa Thiếu Lâm tự, và cũng từ môn võ Thiếu Lâm này chiết xuất
ra các loại võ thuật khác như môn võ khinh công, tức võ khí công, dùng năng lượng
của hơi mà chịu đựng sức tấn công của đối phương. Mục đích của võ đạo là để bảo
vệ thân chứ không phải để đánh người. Gần đây Trung Hoa phát xuất ra môn thiền
tập gọi là Phật gia Pháp luân Công, còn gọi Pháp Luân Đại Công do ông Lý Hồng
Chí khởi xướng từ năm 1990 cũng phát xuất
từ gốc rễ của pháp tu luyện nầy. Các
pháp thiền song hành với pháp luyện tâm, luyện thân, giúp cơ thể thoát khỏi bệnh
tật và tâm lý tiêu cực, được Thiền tập đem lại kết quả khả quan, vì thế nhiều
người hưởng ứng, Khiến chính quyền Đảng Cộng Sản Trung Quốc lo ngại. Ông Giang
Trạch Dân đã phát động chiến dịch đàn áp
các học viên Pháp Luân Công vào tháng 7 năm 1999, số người thiệt mạng từ một
ngàn đến mười ngàn người. Sở Tôn giáo chính phủ Trung Quốc cho rằng Pháp Luân
Công đã tẩy não người dân, đe doạ an ninh xã hội và chính trị, nên mở chiến dịch
xoá bỏ phong trào tôn giáo Pháp Luân Công.
Tuy vậy Pháp Luân Công, không còn hoạt động ở
Trung Quốc nhưng đã trải qua trên 25 năm Pháp Luân Công lớn mạnh qua các nước
trên thế giới trên 125 quốc gia. Pháp
Luân Công không phải là tôn giáo, mà được xem là một hệ thống khí công, với các
bài giảng về luân lý đạo đức, nhưng
không có yếu tố tín ngưỡng tôn giáo, nghi lễ hay tín đồ. Pháp Luân Công mượn
các yếu tố từ Phật giáo và các pháp luyện công khác để hình thành nên giáo lý của
mình. Bản chất Pháp Luân Công không phải tôn giáo, vì nó không có giáo lý, giáo
luật nào cụ thể. Có thể nói Pháp Luân Công hay Pháp Luân Đại Pháp là một phong
trào tôn giáo mới.
Trở
lại tín ngưỡng Daruma, văn hoá người Nhật, ai cũng có thói quen vào dịp đầu năm
mới, ai cũng mua một búp bê daruma để trong nhà hay bàn làm việc của mình.
Daruma là loại búp bê có đáy tròn, được lấy ý tưởng từ tư thế ngồi thiền trong
ý nghĩa chín năm quay mặt vào vách thiền định của Ngài Bồ đề Đạt ma. Tiếng Nhật
của chữ Daruma (Đạt-ma). Văn hoá daruma
được hình thành sau khi thiền tông
được truyền vào nước Nhật hơn bốn thế kỷ.
Tại
thành phố Takasaki do ngài Shinetsu khai sơn năm 1697. Người ta kể rằng, cứ mỗi
dịp Tết đến, ngài Shinetsu vẽ hình Đức Đạt-ma toạ thiền và cho phổ biến như một
món quà tặng cho mọi người và gởi gắm lời chúc kiên định và quyết tâm đến tất cả. Người ta cho đó là sự khởi đầu cho sự lưu
hành búp bê daruma ở Taksaki.
Người ta
dùng búp bê daruma như là một biểu tượng để cầu mong cho mùa tơ lụa bội thu.
Ngày nay búp bê daruma trở thành nhu cầu không thể thiếu để cầu mong thành công
trong học tập, kinh doanh và nhiều phương diện khác trong cuộc sống.
Búp bê
daruma được người Nhật tặng nhau trong những dịp sinh nhật, dịp lễ Tết hay khi
một người bắt đầu sự nghiệp hay một chặng đường mới trong đời. Người ta có thể mua búp bê bình thường với mục
đích giải trí, dùng làm đồ chơi cho trẻ em, nhưng búp bê daruma có mục đích đặc
biệt và ý nghĩa rất riêng và dành cho tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi trong xã
hội. Nó được xem như là vật thể thiêng
liêng và được rước về trong những ngày đầu năm với quan niệm mang lại may mắn, an lành và thành công cho thân thủ. Mỗi năm một
lần, búp bê daruma được bán vào dịp Tết ở trong chùa hoặc ở các hội chợ gần
chùa. Người ta mua cho cá nhân hay công sở với nhiều mục đích khác nhau như cầu
nguyện thi cử đỗ đạt, đắc cử chức vụ hay làm ăn phát tài, gia đình bình yên, hạnh
phúc hay thầm nguyện một mong ước nào đó được thành tựu… Nói chung, người Nhật
thường gởi gắm vào linh vật này những mong ước của con người và đều hướng đến mẫu
số chung là thành tựu viên mãn.
Cách thể hiện tín ngưỡng daruma
trong văn hoá Nhật.
Búp bê daruma có hình tròn, rỗng được
làm bằng giấy bồi, đáy nặng. Từ tư thế ngồi kiết già theo kiểu ngồi thiền, hai
chân bắt chéo lên nhau, hay tay xếp sát vào thân thể của ngài Đạt-ma, người ta
mô phỏng và chế tạo ra búp bê daruma theo dáng người ngồi thiền, nhưng không có
chân tay. Chi tiết này còn biến tấu hơn cho đến hầu như chỉ còn lại là một con
lật đật hình đầu người. Búp bê daruma được làm thủ công, bằng kỹ thuật bồi giấy
truyền thống của người Nhật. Trên khung gỗ làm sẵn trước đó, người ta dán nhiều
lớp giấy chồng lên nhau để tạo thành daruma như ý muốn. Để làm ra một con búp
bê daruma, cần phải trải qua 18 công đoạn và tất cả đều được làm bằng tay.
Chính vì vậy mỗi búp bê có một dáng vẻ riêng, không có hai búp bê daruma hoàn
toàn giống nhau. Daruma có nhiều màu để mọi người lựa chọn nhưng tiêu biểu và
được lựa chọn nhiều hơn cả vẫn là màu đỏ truyền thống. Màu đỏ có thể bắt nguồn
từ màu y của Bồ-đề-Đạt-ma. Theo những tài liệu từ Nhật Bản thì màu đỏ chính là
màu y của những vị cao tăng vốn được mọi người kính trọng.
Sau
khi mua búp bê daruma về người ta viết ý muốn, nguyện vọng của mình trên thân
búp bê, rồi đặt daruma lên vị trí trang trọng và dễ thấy tại công sở, hoặc trên
bàn thờ Phật trong nhà để cầu mong sự việc thành công viên mãn.
Theo phong tục, đến cuối năm, búp bê
daruma được đem về chùa, tập trung lại
làm nghi thức hoá (đốt) daruma nhằm bày tỏ tâm thành kính để “báo cáo” với thần
linh rằng người đã giữ trọn tâm kiên định và mong ước nay đã trở thành hiện thực.
Như vậy, một năm cũ chấm dứt và năm mới
lại bắt đầu với những ước mơ mới với những búp bê daruma mới được mua ở lễ hội
đầu năm và đem về nhà. Nhiều nơi lấy cố định ngày mùng 6 và mùng 7 như ngày
truyền thống để tổ chức hội chợ xuân daruma.
Nếu tâm nguyện của chủ nhân chưa thành
tựu mà năm cũ đã hết, không sao, họ vẫn có thể đem daruma của mình về chùa thức
hoá. Thế rồi trong lễ hội đầu năm mới, họ lại thỉnh một daruma mới về tiếp tục
gởi vào đó tâm nguyện còn đang dang dở với quyết tâm cao hơn, ý chí nhiều hơn
và hứa hẹn nhiều kinh nghiệm hơn để thành tựu mục tiêu của mình. Cũng có người
chọn giữ daruma như là một kỷ vật sau khi thành tựu ước nguyện của mình để nhắc
nhở bản thân có thêm động lực vượt qua thử thách, vươn đến thành công trong cuộc
sống.
Triết lý sống qua tín ngưỡng daruma
Tín ngưỡng daruma trở nên ý nghĩa nhiều hơn khi chúng ta hiểu
và vận dụng giá trị triết lý chứa đựng trong nét văn hoá này chứ không đơn thuần
giữ một daruma cho mình như một cái bùa may mắn. Việc giữ daruma chỉ thật sự có ý
nghĩa khi chủ nhân nó đặt vào búp bê daruma một điều nguyện ước quan trọng như
là một mục tiêu cần hoàn thành trong năm, gởi vào đó một niềm tin thành tựu, với
quyết tâm thực hiện bằng được nguyện ước của mình. Tồn tại với thời gian, tín
ngưỡng daruma của người Nhật thể hiện sự hoà quyện, tiếp biến văn hoá Phật giáo
vào đời sống của người dân xứ mặt trời là điều hiển nhiên không ai phủ nhận. Mặc
dù việc giữ một búp bê daruma cho mình có ý nghĩa riêng với từng người, giá trị
triết lý chứa đựng trong tín ngưỡng daruma được thể hiện ở các phương diện sau:
Kiên định và quyết tâm
Qua tiểu sử và hành trạng của Tổ sư Đạt
ma, người ta đã tạo nên búp bê daruma có hình dáng rất đặc trưng với tư thế ngồi
thẳng và vững chãi. Lấy ý nghĩa từ chín năm diện bích toạ thiền của Tổ Bồ đề Đạt
ma, tư thế ngồi biểu trưng sức mạnh nội tại và sự kiên trì không mệt mỏi, không
bao giờ chịu đầu hàng, bỏ cuộc trước khó khăn của cuộc sống. Sự kiên định của Tổ
Đạt ma xưa cũng rất phù hợp với bản tánh của người Nhật, nên búp bê daruma là
biểu tượng ngầm chứa tính kiên định, đóng vai trò quan trọng trong mọi thành tựu
lớn nhỏ của cuộc sống. Người ta viết những nguyện ước vào búp bê, đó là cách sử
dụng nội lực của mình, hạ quyết tâm cho một kế hoạnh quan trọng, rồi đặt biểu
tượng này vào nơi trang trọng và dễ nhìn thấy nhất là thể hiện sự nghiêm túc và
toàn tâm toàn ý với việc mình cho là hệ trọng trong năm.
Búp bê daruma là biểu tượng kiên trì
không mệt mỏi, không bao giờ bỏ cuộc trước khó khăn trong cuộc sống. Chính biểu
tượng này gây ấn tượng mạnh, như một chất xúc tác để chủ nhân vượt qua mọi
chông gai để hoàn thành tâm nguyện. Trong những lúc chùng lòng, chùn bước và ý chí yếu đi khi trải
qua đường dài thời gian mà không đủ hâm nóng tâm nguyện ban đầu thì chính biểu
tượng búp bê daruma, không cho phép người ta dễ dàng bỏ cuộc nữa chừng.
Vững chãi không quỵ ngã
Với
đặt tính thân tròn, đáy nặng, trọng lượng của daruma tập trung ở phần dưới để
làm tròn, tạo sức bật như con lật đật, để daruma luôn trở về vị trí đứng thẳng
dù có xô ngã về hướng nào. Daruma biểu trưng cho ý chí, nghị lực đương đầu với
khó khăn, trở ngại trong cuộc sống mà không giờ chịu thua hoàn cảnh. Daruma là
hiện thân của sức mạnh nội tại và ý chí mãnh liệt, không chịu đầu hàng, ngay cả
khi sa cơ thất thế nọ vẫn có thể tự tin
đứng dậy và vươn lên. Người Nhật đã sử dụng chi tiết này một cách linh hoạt và
đúng ý nghĩa mặc dù vẫn rất đỗi đời thường.
Cuộc sống có thể làm chúng ta chao đảo
nhưng không bao giờ được ngã quỵ mà phải đứng lên bước tiếp về phía trước. Đó
chính là điều mà biểu tượng daruma muốn
gởi đến chúng ta. Đây là sức sống của niềm
tin, thái độ sống tích cực, kiên định và quyết tâm, không đầu hàng nghịch cảnh.
Thắp sáng niềm tin là thức ăn tinh thần của mỗi người để đi đến đích. Với niềm
tin không bao giờ chùn bước trước khó khăn, dù có bao nhiêu thăng trầm với nghịch
duyên, dù chập chùng gian nan do người thiếu thiện chí thiện tâm đem lại, ta vẫn
không nản lòng. Nhìn hình ảnh daruma , ta tự nhắc mình, dù có dao động, bất an
trong giây lát rồi cũng trở về vị trí đứng thẳng, vững chãi giữa trường đời.
Vì thế: Muốn thành công ắt nhiều lần thất bại
Có
ngu ngơ rồi mới có ngày khôn
Dù mưa ngập ướt đôi chân ta đó
Vững niềm tin nắng vẫn toả trên đầu.
Dù có chao đảo nhưng ta sớm lấy lại cân bằng nếu
ta biết dồn trọng lượng vào đôi bàn chân mình để đứng vững trên đất, thậm chí
đó là nơi ta té ngã, cũng không vì thế mà nhụt chí nản lòng. Bản lĩnh đứng lên
từ nơi ta ngã và sẵn sàng bước tiếp là thông điệp từ búp bê daruma vậy.
Tự kỷ ám thị tích cực: Cách nuôi dưỡng
lòng tin.
Tại sao daruma được đặt ở vị trí trang
trọng, dễ nhìn thấy trong gia đình hay nơi làm việc? Đây không chỉ để thể hiện
sự trân quý ước mơ, nâng niu hoài bão, và nghị lực của chính thân chủ daruma,
mà đây còn là một sự nhắc nhỡ thường xuyên theo cách “tự kỷ ám thị” tích cực để
thêm ý chí, nghị lực trong quá trình hiện thực hoá nguyện ước của mình. Đi ra,
đi vào ta điều nhìn thấy biểu tượng của ý chí, của quyết tâm, kiên định, của vượt
khó để trau luyện nội lực và luôn tự nhắc mình sẽ không từ bỏ sự nỗ lực cho đến
khi chạm tay đến thành công. Tự kỷ ám thị tích cực là phương pháp nhắc tâm, hâm
nóng tâm nguyện, xúc tác tinh thần để ta mạnh mẽ hơn trong cuộc sống cho đến
lúc hoàn thành những hoạch định của mình. Nhờ tự kỷ ám thị tích cực, năng lượng quyết tâm thực hiện
kế hoạch, hoài bão của mình không bị lực ma sát của cuộc sống (những chướng
duyên tạo lực cản) bào mòn mà mình vẫn được gia cố năng lượng, tiếp sức mỗi
ngày để tiếp tục phấn đấu cho đến khi thành tựu mới thôi.
Tự kỷ ám thị là cách nuôi dưỡng niềm
tin. Niềm tin là mẹ của mọi thành tựu, là bạn đồng hành của thành công, vì tất
cả bắt đầu bằng niềm tin, tiến triển trong niềm tin và kết thúc với niềm tin.
Niềm tin vào bản thân mình có thể làm được điều mình muốn sẽ có một vai
trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống
chúng ta. Niềm tin như hạt giống, mang theo một nguồn năng lượng tiềm năng, tiềm
lực, hy vọng và niềm hăng say, là động lực hành động cho mỗi cá nhân. Niềm tin
là tài sản quý báu nhất của mỗi con người vì nó song hành cùng với cả một quá
trình cho đến lúc thành công. Đây là một thuộc tính tâm lý tích cực, trong sáng
để nuôi dưỡng ý chí, thiện chí và nghị lực và quyết tâm của con người. Khi niềm
tin là chất liệu tan chảy, hoà quyện trong con người, thấm vào máu vào xương ta
thì khi ấy, niềm tin có sức mạnh vô cùng. Nó đẩy chúng ta đi tới, hiện thực hoá
những ý tưởng của mình.
Nhìn lại và bước tiếp: Nỗ lực không
ngừng
Vào dịp lễ tất niên, người ta thường
đem daruma đến chùa để hoá, dù lời nguyện có thành tựu hay chưa thành tựu, việc
làm này đều có ý nghĩa. Nếu lời nguyện thành tựu, việc hoá daruma là một hành động
trình báo kết quả mỹ mãn họ đạt được với thần linh để sự nỗ lực, quyết tâm của
họ được thần linh chứng giám và những nguyện ước mới trong năm mới lại hứa hẹn
với sự nỗ lực không ngừng của bản thân.
Thế nhưng nếu bạn vẫn chưa thành tựu
điều nguyện ước? Không sao cả, vẫn cứ
mang daruma về chùa làm lễ đốt vào dịp cuối năm. Việc này sẽ giúp bạn có sức mạnh
để thực hiện nguyện vọng hay mục tiêu của mình lần thứ hai nhanh hơn vì nó sẽ
được bắt đầu với quyết tâm cao hơn!
Trong dịp này, họ cáo với thần linh chứng minh cho họ sự nỗ lực không mệt
mỏi của mình cho đến khi ước nguyện kia được thành tựu. Thế là họ thỉnh một
daruma mới vào những ngày đầu năm và tái lập lời nguyện còn dang dở ở năm trước.
Với kinh nghiệm dày dạn hơn, cùng với ý
chí được trui rèn nhiều hơn, với quyết tâm cao hơn thì một búp bê daruma mới như một động lực để thực hiện tiếp phần công
việc còn lại đang dang dở kia là điều khả thi vậy.
Đem daruma về chùa đốt hay giữ lại cho
riêng mình đều có ý nghĩa riêng của việc làm này. Nếu đốt daruma vào cuối năm,
đây là cách người ta báo cáo thành tựu với thần linh trong ý niệm hạnh phúc
viên mãn. Bên cạnh đó, có người có sở thích giữ lại cho mình búp bê daruma mà
không đem về chùa đốt như phần lớn người Nhật vẫn làm. Việc giữ những con
daruma lại là cách để người ta ghi nhớ
những thành công và thất bại của mình trong cuộc sống với những bài học thực tế
quý giá không gì đổi được. Nhờ vậy, mỗi khi nhìn vào những linh vật này người ta quyết tâm hơn và tự tin
hơn trong những bước tiếp theo của cuộc sống. Do đó, đốt hay giữ lại daruma vào
dịp cuối năm còn tuỳ vào mỗi người, miễn sao việc làm này tạo cho chủ nhân của
những búp bê daruma có tâm lý thoải mái và có thể hỗ trợ tích cực cho tinh thần
học là được.
Giữ một búp bê daruma trong tâm
Tín ngưỡng daruma mang màu sắc Phật
giáo mà người dân xứ này đã hấp thụ được một cách nhuần nhuyễn phù hợp với dân
tộc tính của họ được các thế hệ tiếp nối xưa đến nay. Thông thường, người ta
xem sở hữu một daruma trong nhà như là một biểu tượng của may mắn, thịnh vượng, thành đạt và viên
mãn trong cuộc sống. Giữ linh vật búp bê daruma là một nét văn hoá đẹp, tuy nhiên, chỉ xem đây như một tín ngưỡng
thì sẽ không có ý nghĩa nhiều so với triết lý sống có ý nghĩa biểu trưng đằng
sau linh vật này. Ai cũng có thể sở hữu một búp bê daruma, nhưng chỉ có người
nào biết phát huy nội lực tự thân với sự tác động tinh thần từ linh vật này mới
có được lợi ích thiết thực. Với những ai xem đây thuần tuý là một biểu tượng
đem lại may mắn cho mình, thì việc giữ bên mình một búp bê daruma làm bằng giấy
bồi không giữ nó cũng không tạo nên sự khác biệt nào. Người ấy phải nhiều lần
thay daruma mà rất có thể hoài bão cũng không thành hiện thực. Nếu người biết
phát huy giá trị triết lý trong tín ngưỡng daruma để tạo nên một hiệu ứng tâm
lý tích cực hơn trong cuộc sống thì thành tựu một tâm nguyện nào đó là việc
trong tầm tay. Như vậy những hoài bão có thể biến thành sự thật hay không và mức
độ thành tựu của công việc còn tuỳ thuộc vào nhận thức và thái độ của mỗi người đối với biểu tượng daruma trong
tâm mình.
Giao thoa và tiếp biến văn hoá giữa
các nền văn hoá khác nhau trong thời đại công nghệ thông tin này là một hiện tượng xã hội tự
nhiên. Do đó, tín ngưỡng daruma không những chỉ thịnh hành ở xứ sở mặt trời, mà
còn dần lan ra các nước khác và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Ở Hà Nội, đã có tổ
chức “Ngày hội daruma” hàng năm tại các trung tâm Nhật ngữ để người Việt, nhất
là giới trẻ, dần tiếp cận với văn hoá giữ búp bê daruma. Khi hiểu được ý nghĩa
việc giữ cho mình một búp bê daruma, các bạn trẻ rất thích thú ý tưởng này và cảm
thấy hạnh phúc ngập tràn khi được tặng một búp bê daruma trước những sự kiện quan
trọng của cuộc đời.
Có bạn còn gởi, đặt hàng tận bên Nhật
và muốn giữ cho mình một biểu tượng của niềm tin, ý chí, nghị lực và quyết tâm
như thế. Tuy nhiên, giữ búp bê daruma theo cách thế nào là một vấn đề khác. Có
thể ta không cần giữ bên mình một linh vật búp bê daruma nếu không có đủ điều
kiện để làm việc ấy, ta vẫn có thể hạ quyết tâm, hâm nóng tâm nguyện, nuôi dưỡng
ý chí và nghị lực với một biểu tượng búp bê daruma được hình dung, tưởng tượng
trong tâm mình. Điều quan trọng là nghệ thuật sử dụng các giá trị triết lý của
daruma để chuyển hoá hoài bão, mơ ước thành sự thật chứ không phải việc sở hữu một búp bê daruma. Mặc dầu văn
hoá người Việt chúng ta không có daruma, nhưng qua những gì vừa trình bày,
chúng ta có thể vận dụng triết lý này một cách rất riêng cho mình để thể hiện ước
nguyện, duy trì ý chí, tiếp lửa nghị lực, nuôi lớn quyết tâm và trui rèn bản
lĩnh trước nghịch cảnh khó khăn để đi đến thành công mà không cần giữ một búp
bê daruma nào trong nhà mình./.
(Trích:
Tín ngưỡng Daruma đến triết lý cuộc sống: Liên Trí- NSGN số 227-
02/20215)
PHẦN PHỤ:
Giáo lý Phật giáo từ Ấn Độ sang Trung Hoa nói
chung và các Đại sư truyền giáo từ Ấn,
đã có sự ảnh hưởng kinh điển Phật giáo Đại thừa, như Việt Nam, Hàn Quốc,
Nhật bản … từ khởi đầu cho đến mãi về sau
đã hoà nhập với văn hoá bản địa sản sinh ra rất nhiều nét đặc thù văn
hoá cho các nước ấy.
Như
Phật giáo truyền vào Trung Hoa đã tạo cho văn hoá Trung Hoa trên 5 ngàn từ mới, và các pháp tu tập, các
phong tục tập quán, sản sinh ra các môn võ thuật v.v.. Văn Hoá Trung Hoa vốn đã
có triết lý sâu xa, nay thêm văn hoá Phật giáo hoà quyện nó trở thành văn hoá
không những triết lý mà mang đậm mầu sắc tâm linh mầu nhiệm huyền ảo v.v..
Văn hoá bản địa như nồi canh, nồi cháo nấu
xong chưa được nêm gia vị. Văn hoá Phật giáo như thêm vào gia vị nồi canh, nồi
cháo bằng: muối, vị tinh và rau thơm. Tạo nên món thức ăn hấp dẫn về khẩu vị và
hương vị. Vì thế tôn giáo được bên phái duy vật gán cho là một loại ma tuý nguy
hiểm, vì thế tôn giáo luôn bị đánh phá và đàn áp, hạn chế là vậy. Người ác lúc
nào cũng ghanh ghét và lo sợ người thiện, và luôn luôn tìm cách hảm hại
và hạn chế người thiện. Tiêu biểu Ma ba Tuần xuất hiện lúc Phật vừa chứng đạo. Vì thế tu đạo
đối trị bên ngoài và đối trị bên trong tâm lý, cả hai không phải dễ để vượt qua
chướng ngại đi đến thành công là vạn nan và gian nan.
Phật
giáo truyền vào Việt Nam không chỉ là phương pháp tu tập cầu giải thoát giác ngộ,
mà còn tạo nên một nên văn hoá dày bản chất dân tộc riêng không trùng lặp với
các văn hoá phương khác. Phật giáo Việt Nam không chỉ dành riêng cho phái xuất
gia tu tập, mà còn phổ cập cho tất cả mọi người dân không phân biệt thành phần
nào. Phật giáo Việt Nam khác với các Phật giáo nước khác, là ngoài việc tu tập
cầu giải thoát còn khơi dậy mỗi người tinh thần độc lập tự chủ, giữ nước dựng
nước. Đó là tinh thần đoàn kết yêu nước chống giặc ngoại xâm, vì thế trong các
triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đều là những triều đại ảnh hưởng Phật giáo, nên việc
ba lần đánh thắng quân Mông Nguyên đều phát xuất từ tinh thần kiên trì bất khuất
của Phật giáo đã un đúc tinh thần con người Việt.
Và tinh thần đó vẫn còn truyền lại cho
đến các thế hệ ngày nay, đo đó với các lực lượng của các nước lớn, không những mạnh về kinh tế chính trị
quân sự, súng đạn, xe cộ, tàu chiến tối tân, như Pháp, Nhật, Mỹ, Trung Quốc đã
nhiều lần đánh chiếm Việt Nam cuối cùng cũng phải rút lui.
Nhìn lại Giáo lý lời Phật dạy đã và đang hoàn
thiện con người bỏ ác làm lành, đưa đến cuộc sống con người an lạc hạnh phúc cả
thân lẫn tâm, đời này và nhiều đời sau. Vì thế lời Phật, lời Tổ dạy luôn là kim
chỉ nam cho cuộc sống con người trên mọi thời mọi lúc, đưa đến an lạc giải
thoát, là điều ai cũng nhận thấy, nhưng chưa thật sự ai cũng làm hết được./.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét