VAI
TRÒ CỦA TẬP ĐẾ TRONG TÂM THỨC
Trong Tứ diệu đế, Tập đế là một phạm trù quan trọng dẫn đến Khổ. Khổ-
Tập- Diệt- Đạo. Sở dĩ có Khổ là do nguyên nhân gây ra từ Tập mà có. Vậy muốn hết
Khổ phải trừ Tập, và sau đây là sự phân tích về diễn biến của Tập.
Nghĩa tập hợp
chủng tử.
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta tiếp
xúc với nhiều người, nhiều sự vật và nhiều sự kiện khác nhau. Nói theo ngôn ngữ Duy thức học, mỗi ngày
chúng ta tiếp xúc với nhiều pháp khác nhau. Các pháp này được tiền ngũ thức và
ý thức ghi nhận rồi khởi lên các so đo, suy lường, toan tính, quyết định làm việc
này, hay việc kia, thâu nhận các khổ, vui, phát sinh sự yêu, ghét…Tất cả việc
trên đều đưa vào thức thứ tám lưu trữ. Mặc dù tất cả đều được lưu trữ, nhưng chỉ
những sự kiện nào huân tập thành chủng tử mới được lưu trữ lâu dài. Còn các sự
kiện khác chỉ được lưu trữ trong một thời gian ngắn rồi mất đi.
Ví dụ người nào, vật nào chúng ta thường tiếp
xúc hằng ngày, khi gặp là ta nhớ ngay, còn những người và vật nào chỉ gặp qua một
lần lâu sau gặp lại chúng ta không thể nhận ra được. Cho nên Tập có nghĩa là
huân tập, tức là lặp đi lặp lại trở thành thói quen gọi là Tập. Thí như có những
người không có gì đặc biệt đối với ta. Ta chỉ gặp họ một đôi lần rồi thôi. Sau
đó một thời gian, ta sẽ quên họ. Và nếu có gặp lại ta cũng không nhận ra. Có những
người chúng ta thường gặp, có sự quan tâm, trao đổi nhiều vấn đề với nhau. Sau
đó dù không còn gặp lại, thỉnh thoảng hình ảnh của họ vẫn xuất hiện trong ý thức của ta. Trải qua thời gian
lâu dài, thậm chí đến khi không còn nhớ
nghĩ về họ, nhưng nếu gặp lại, chúng ta có khả năng nhận biết họ. Ở đây sự gặp
gỡ nhiều lần(tập), sự quan tâm tương tác với nhau chính là điều kiện huân tập
hình ảnh người ấy biến thành chủng tử, lưu trữ lâu dài trong thức thứ tám.
Nói một cách tổng quát, trong cuộc sống,
việc tiếp xúc nhiều lần với một pháp nào chính là điều kiện huân tập để pháp ấy
và các sự kiện liên quan đến pháp ấy, biến thành chủng tử, lưu trữ lâu dài
trong tâm. Trên mặt hành tác cũng vậy, công việc nào được chúng ta thực hiện
nhiều lần thì hành vi ấy cũng được đưa vào thức thứ tám, lưu trữ dưới hình thức
chủng tử. Tóm lại, thức thứ tám là nơi lưu trữ chủng tử của các pháp được huân
tập. Đây là nghĩa tập hợp các pháp.
Hỏi: Ý thức cũng có khả năng
lưu trữ các sự kiện quá khứ, đâu cần viện dẫn một thức thứ tám mơ hồ khó thấy
khó hiểu?
Đáp: Đúng là ý thức cũng có khả năng lưu trữ các sự
kiện quá khứ nhưng chỉ trong một thời gian ngắn thôi. Việc để cho các pháp
thành chủng tử rồi lưu trữ một cách lâu dài nằm ngoài khả năng của ý thức. Có
nhiều lý do để chỉ ra rằng ý thức không có khả năng lưu trữ lâu dài. Ở đây lược
nêu ba lý do:
1/ Nếu các sự kiện quá khứ được lữu trữ
trong ý thức thì chúng ta phải thường ý
thức được chúng. Trong thực tế, có nhiều sự kiện, đã lâu rồi chúng ta không còn
nhớ nghĩ về chúng. Hôm nay đột nhiên lại hiện về trong ý thức. Khi không nhớ về
chúng, chúng ở đâu trong ý thức?
2/ Có những sự kiện do nhu cầu buộc
chúng ta phải nhớ lại, dù rất cố gắng vẫn
không sao nhớ được. Sau đó một thời gian, thậm chí khi không còn quan tâm, sự
kiện ấy lại xuất hiện trong ý thức. Điều trên có thể lý giải rằng các sự kiện
quá khứ phải được lưu trữ ở một thức khác, do thức này có cơ chế vận hành khác
với ý thức, nên ý thức không có được sự
chủ động trong vấn đề quên nhớ.
3/ Ý thức hoạt động có gián đoạn. Đó
là những lúc ta chết giấc hoặc ngủ say. Nếu có sự lưu trữ thì khi ý thức ngừng
hoạt động, các sự kiện được lưu trữ phải
mất đi. Trên thực tế, chúng ta từng có lần chết giấc hoặc không ít khi ngủ say,
những lúc đó ý thức hoàn toàn vắng mặt. Song khi về già, chúng ta vẫn có khả
năng nhớ lại nhiều sự kiện thuộc thời niên thiếu. Điều đó chứng tỏ thức có khả
năng lưu trữ lâu dài các sự kiện quá khứ phải hoạt động không ngừng nghỉ. Vậy
phải là thức thứ tám không thể là ý thức.
Nghĩa phát khởi hiện hành chủng tử.
Thông thường, các chủng tử trong trạng
thái thuỳ miên, nghĩa là ngủ ngầm trong
tâm. Lúc này, các chủng tử đồng như không. Khi đủ duyên, chủng tử mới sinh khởi
làm nhân cho các pháp xuất hiện trở lại nơi các thức. Đây là nghĩa phát khởi hiện
hành chủng tử các pháp của tâm.
Thí dụ: Nhiều người khi về già, nhớ lại
những sự kiện đã diễn ra vào lúc niên thiếu. Các sự kiện này đã không được nhớ
nghĩ đến trong nhiều năm tháng, hôm nay đột nhiên tràn về. Rõ ràng trong bao
nhiêu năm tháng qua, các sự kiện này ngủ ngầm trong tâm, nhưng không mất đi, để
nay có thể tái hiện trong tâm thức. Hoặc trong cuộc sống, có nhiều sự kiện thuộc
quá khứ, đã từ lâu chúng ta không hề nhớ nghĩ về chúng. Đột nhiên một ngày đẹp
trời lại xuất hiện trong ý thức. Quá khứ vẫn ngủ yên trong tâm, chờ khi đủ
duyên lại hiện hành nơi ý thức.
Nghĩa huân tập.
Như
đã nói ở trên, chỉ những pháp nào có sự huân tập mới thành chủng tử. Vậy
là huân tập gì? Huân là xông ướp. Như tấm
vải sạch vốn không mùi, nếu ướp hương hoa lâu ngày, nó sẽ có mùi hương hoa. Tập là lặp đi lặp lại. Sự lặp đi lặp
lại nhiều lần của nhận thức, tư tưởng, tình cảm, hành vi… của một người có tác
động huân tập thành chủng tử trong thức thứ tám của người ấy. Sự lặp đi lặp lại,
nếu đi kèm với trạng thái tâm lý thích hợp như sự ưa thích, sự tập trung v.v..sẽ
mau thành chủng tử.
Học bài là một sự huân tập. Khi học
bài, chúng ta phải đọc tới đọc lui bài học nhiều lần. Nếu ngồi học với tinh thần
tự giác, có sự ham muốn tìm hiểu, có sự tập trung v.v…chúng ta sẽ mau thuộc
bài. Nếu ngồi học với tinh thần chán ngán, vì bị ép buộc, học với thái độ lơ đễnh…
chúng ta sẽ lâu thuộc bài. Ở trường hợp đầu, sau khi thuộc bài sẽ nhớ lâu và dễ
dàng hơn khi cần nhớ lại. Ở trường hợp sau, dù đã thuộc bài nhưng dễ quên, vì
trường hợp này chưa có sự huân tập tốt.
Tương tự, nếu chúng ta làm một công việc gì với sự ưa thích, sự tập
trung, chúng ta sẽ mau thành công việc ấy. Trong trường hợp ngược lại, dù đã
làm lâu, cũng khó làm giỏi công việc ấy.
Mối
quan hệ giữa pháp được huân tập và pháp hiện hành.
Sự huân tập của pháp làm xuất hiện chủng
tử trong tâm. Ở đây pháp được huân tập là nhân, chủng tử là quả. Do sự phát khởi
của chủng tử mà pháp hiện hành nơi các thức. Ở đây chủng tử là nhân, pháp hiện
hành là quả. Do nhân và quả luôn đồng loại hoặc đồng tính, nên pháp được huân tập
và pháp hiện hành luôn đồng loại hoặc đồng tính. Nói một cách dễ hiểu, chúng ta
huân vào tâm thứ gì về sau nó sẽ phát ra lại thứ đó.
Thí
dụ: Nếu thường học toán, chúng ta sẽ có kiến thức về toán. Hiểu được toán học,
giải được các bài toán. Các môn học khác cũng vậy. Nếu ngày nào cũng tập ngồi
thiền, về sau sẽ thành người giỏi toạ thiền. Nếu hay hút thuốc, sẽ trở thành
người ghiền thuốc. Nếu thường xuyên uống rượu sẽ trở thành bợm rượu.
Nếu hay nhìn về người về vật với tâm vị
tha, chúng ta sẽ trở thành người sống vì người khác. Nếu thường nhìn về người
và vật với tâm vị kỷ, chúng ta sẽ trở thành người chỉ biết vì mình.
Nếu thường để tâm sân làm chủ, ta sẽ
trở thành người hay sân. Nếu thường để tâm kiêu mạn làm chủ, ta sẽ trở thành
người kiêu mạn.
Nếu
hay nói nhiều, ta sẽ trở thành người nhiều chuyện…
Sự huân tập chủ động và huân tập bị động.
Sự huân tập do ta quyết định thực hiện
để đạt mục tiêu nào đó, gọi là huân tập chủ động.
Thí dụ: Quyết học bài cho thuộc để đi
thi cho đậu. Hoặc quyết định học đàn để trở thành người đàn giỏi, quyết định học
toán để trở thành nhà toán học.
Trong cuộc sống có nhiều sự kiện thường
diễn ra trước mắt chúng ta, dù không có chủ định, tâm chúng ta vẫn chịu sự huân
tập của các sự kiện đó. Đây là sự huân tập
bị động.
Thí dụ: Bước ra đường là bảng quảng
cáo thuốc đau đầu, của công ty A đập vào mắt ta. Việc này diễn ra mỗi ngày. Lâu
dần huân thành chủng tử. Thông thường chủng tử này ngủ yên trong tâm. Đến khi đủ
duyên, như đau đầu, nó sẽ sinh khởi khiến ta nhớ lại loại thuốc của công ty A.
Kèm với cảm tưởng rằng, sản phẩm ấy là tốt nhất, là phù hợp với ta hơn cả. Điều
này đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định mua loại thuốc để trị bệnh. Ở
đây các nhà quảng cáo đã vận dụng tính dễ bị huân tập của tâm để hướng chúng ta
đến với các sản phẩm của họ.
Trên thực tế, có sự huân tập chủ động,
có sự huân tập bị động, có sự huân tập vừa chủ động vừa bị động, có sự huân tập
tự nguyện hay huân tập do bị ép buộc. Điều đó đóng vai trò rất lớn trong việc
hình thành tính cách tâm lý của con người.
Tính cá nhân của sự huân tập.
Sự huân tập chỉ có tác dụng đối với chủ thể được huân tập, không có tác dụng
với người khác.
Ví dụ: Anh A tập hút thuốc, về sau trở
thành người ghiền thuốc. Anh B không tập hút thuốc thì không thành người ghiền
thuốc. Cũng là bợm nhậu như nhau, nhưng nếu anh A tập không uống rượu nữa (cai rượu) lâu dần A hết ghiền rượu. Nếu B
không tập cai rượu và vẫn có điều kiện để
uống tiếp thì B không hết ghiền rượu.
Không chỉ với sự huân tập chủ động, sự
huân tập bị động cũng mang tính chất cá nhân. Vì kết quả của sự huân tập không
chỉ phụ thuộc vào số lần lặp đi lặp lại của pháp mà còn phụ thuộc vào trạng
thái tâm lý của mỗi cá nhân khi có tập.
Sự huân tập bị động giải thích tại sao
ở những vùng miền có những phong tục tập quán đặc thù, tâm lý những người ở đó
có những điểm giống nhau (đồng nghiệp). Mặc dù vậy, do tính cá nhân của sự huân
tập, nếu nhìn kỹ sẽ thấy tính cách tâm lý của mỗi người vẫn có những điểm riêng
khác với người khác (biệt nghiệp). Do số lượng chủng tử trong thức thứ tám của
mỗi người là rất lớn, nên trong thực tế, không
thể tìm thấy hai người có tính cách tâm lý hoàn toàn giống nhau.
Huân sanh huân trưởng
Việc huân tập để tạo ra chủng tử mới gọi
là huân sanh. Việc huân tập để chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành, gọi là huân
trưởng. Vì thế, đối với các thiện nghiệp, luôn cần có sự huân tập để làm phát
sinh chủng tử mới cũng như để giúp cho chủng tử sẵn có phát triển lớn mạnh.
Ví dụ: Để nhớ một điều gì đó, chúng ta
cần tậ hup trung nghĩ về điều ấy. Việc nghĩ tới nghĩ lui về điều muốn nhớ là
cách để chủng tử thuộc điều ấy phát khởi hiện hành. Với chủng tử đang ở giai đoạn
huân sanh sẽ khó phát khởi hiện hành hơn chủng tử sẵn có. Vì chủng tử đang ở
giai đoạn huân sanh chưa đủ mạnh như chủng tử sẵn có.
Thí dụ: Trước đây ta đã học Anh văn và
có một trình độ nhất định. Do không có nhu cầu sử dụng nên không học tiếp. Trải
qua thời gian dài, vốn liếng Anh văn dường như quên hết. Song do có nhu cầu hiện
tại, ta học lại Anh văn. Việc học bây giờ dễ dàng hơn nhiều so với lần học trước.
Vì lúc này chủng tử Anh văn đã sẵn có trong tâm. Chỉ cần huân trưởng là nó phát
khởi hiện hành cho ta sử dụng.
Chủng tử mạnh chủng tử yếu.
Chủng tử gọi là yếu vì nó khó phát khởi
hiện hành. Đây là chủng tử chưa có được sự huân tập đủ và thường xuyên.
Chủng tử gọi là mạnh vì nó dễ phát khởi
hiện hành. Đây là chủng tử có sự huân tập thường xuyên trong thời gian dài. Chủng
tử mạnh nếu để lâu không có sự huân tập sẽ trở nên yếu và khó phát khởi hiện
hành. Cần có nhiều thời gian huân trưởng để nó phát khởi.
Thí dụ: Trước đây ta đã từng chơi đàn giỏi, do bỏ lâu nên hiện tại
việc đánh đàn gặp nhiều khó khăn. Trước
đây ta đã vận dụng Anh văn một cách thành thạo. Do không sử dụng đã lâu, cũng không huân tập, nên hiện tại ta gặp khó
khăn khi sử dụng Anh văn trong việc giao tiếp hay dịch thuật.
Quay trở lại vấn đề quên và nhớ của ý
thức. Ý thức chỉ có sự chủ động trong vấn đề huân trưởng, nghĩa là chủ động quyết
định nhớ lại một sự kiện nào đó và thực hiện việc nghĩ về sự kiện ấy để tạo ra
sự huân trưởng cho chủng tử. Việc có nhớ được hay không, dễ nhớ hay khó nhớ còn
phụ thuộc vào tình trạng mạnh yếu của chủng tử. Điều này giải thích tại sao ý
thức không hoàn toàn có được sự chủ động trong vấn đề quên nhớ.
Chủng
tử sẵn có, chủng tử mới sinh.
Chủng tử sẵn có là chủng tử có sẵn khi
sinh ra.
Chủng tử mới sinh ra là chủng tử mới
được tập thành trong đời này.
Bất kỳ một người nào cũng được sinh ra
với thức thứ tám chứa nhiều chúng tử sữn có, nhờ những chủng tử này mà một đứa
bé lúc mới sinh ra đã biết khóc, biết đói, biết tìm sự che chở ở người mẹ.
Do đó có sự sai khác về chủng loại của
chủng tử, sự sai khác giữa chủng tử mạnh và chủng tử yếu, nên vô thức lúc mới
sanh ra đã mang tính cá nhân cá biệt. Chính điều này đã làm đứa cho những đứa
trẻ dù được nuôi dạy trong môi trường giống nhau, chịu sự huân tập như nhau vẫn
phát triển thành những tính cách cá tâm lý khác nhau.
Sự
sai khác về chủng tử sẵn có sẽ giải thích tại sao con người lại có nhiều khuynh
hướng khác nhau, như người hướng nội, người hướng ngoại, người có năng khiếu về
toán, người có năng khiếu về văn, người thích làm giáo viên, người thích buôn
bán, người dễ dạy, người khó dạy, người có khuynh hướng chạy theo đời sống dục
lạc, người có khuynh hướng tu hành xa lìa các dục… chủng tử sẵn có cũng giải thích vì sao có các hiện tượng
đặc biệt như thần đồng.
Chủng tử sẵn có với phân tâm học.
Ai sinh ra với thức thứ tám chứa nhiều
chủng tử sẵn có. Những dòng chủng tử này tiềm chứa nhiều sai biệt giữa người
này với người khác. Lúc mới sinh ra, đứa bé chưa chịu nhiều sự huân tập đến từ
bên ngoài, nhu cầu đơn giản, chỉ là nhu cầu sinh tồn tối thiểu như ăn, ngủ, bài
tiết… nên chỉ có một ít chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành. Ở giai đoạn này sự
sai khác tâm lý của đứa bé này với đứa bé kia chưa nhiều. Càng lớn lên, con người càng chịu nhiều sự huân
tập đến từ bên ngoài. Sự phát triển của thân xác và sự phát triển của ý thức
phân biệt làm phát sinh nhiều nhu cầu mới như nhu cầu thương yêu, che chở, nhu
cầu thích ứng với môi trường và những người chung quanh, nhu cầu được hưởng những
thú vui vật chất và tinh thần, nhu cầu học hỏi tìm hiểu, nhu cầu phô trương bản
ngã… Những điều vừa nói là điều kiện (duyên) để nhiều chủng tử sẵn có phát khởi
hiện hành, dẫn đến sự sai khác về mặt tâm lý và hành vi giữa người này và người
kia ngày càng nhiều, càng rõ nét. Hiện nay, dù số lượng con người trên thế giới
rất lớn, 7 tỷ người, nhưng chúng ta vẫn không thể tìm thấy hai người hoàn toàn
giống nhau về mặt tâm lý.
Nhìn lại Phân tâm học, khi mới xuất hiện
ở đầu thế kỷ 20, Phân tâm học Freud đã tạo ra một chấn động lớn. Nhiều người
cho rằng đây là một cuộc cách mạng trong Tâm lý học. Tuy vậy, trải qua hơn một
thế kỷ phát triển, Phân tâm học vẫn chưa có những khám phá mới đáng kể. Nhược
điểm chủ yếu của Phân tâm học là các nhà Phân tâm học chỉ mới thấy được một vô
thức lúc mới sinh mang tính đại đồng. Những mô hình vô thức này còn quá đơn giản,
nên khong thể thích ứng với sự đa dạng, phức tạp, tinh vi của các hiện tượng
tâm lý con người. Chính điều này đã làm cho Phân tâm học chưa có được vị trí
tương xứng trong Tâm lý học hiện đại./.
Phần
giải thích thêm về tập:
Trên đây trích phần Tập, vai trò của Tập trong
thức thứ tám đến đây tạm dừng. Tập là một
thói quen, việc gì lặp đi lặp lại thì thành thói quen không bỏ được gọi là tập.
Vậy nói cho đủ nghĩa gọi là Tập nghiệp, tập cũng là nghiệp, nghiệp cũng là tập,
vì thế những gì thành thói quen bỏ không được ta thường nói Nghiệp tôi nặng, mà
vô hình trung không biết thủ phạm của Nghiệp là gì, chính là thói quen. Ví dụ uống
rượu quen ghiền rượu, ăn trầu quen ghiền trầu, hút thút quen ghiền thút. Ghiền
phát xuất từ tập, tập tích tụ thành nghiệp. Vậy nghiệp nặng, nghiệp nhẹ, nghiệp
ác, nghiệp thiện đều do chúng ta huân tập hoặc đời này hay đời trước mà thành.
Vậy
Nghiệp hay Tập không có vị thần linh nào chủ động trong việc nầy, nên mỗi khi
khổ đến cứ cầu bên ngoài cho mình hết khổ, thì chưa thật sự hết khổ, mà phải chấm
dứt tập thì khổ hết. Phật, Bồ tát chỉ giúp ta tăng thêm ý chí và nghị lực để chấm
dứt tập mà thôi.
Như vậy Tập nghiệp không phải là cái định mệnh
hay số mạng như người ta nghĩ. Tập làm ác thì có thể thay đổi thành tập làm thiện,
tập uống rượu thì có thể tập giảm uống rượu, hay tập bỏ uống rượu vậy thôi. Vì
thế việc thay đổi nghiệp hay chuyển hoá nghiệp không khó, chỉ quyết tâm kiên
trì thì ai cũng có thể làm được. Nghĩ như vậy, việc tu tập không khó như người
ta tưởng.
(Bài này được trích một phần của tiêu đề: Tám thức với Tâm lý học hiện đại - Thức thứ
tám - của Chánh Tấn Tuệ - NSGN số 232- 7/2015).
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét