THIỆN CĂN
ĐÃ ĐỦ TỪ KIẾP TRƯỚC
Có người cả đời không tu, không niệm, nhưng
phút cuối cùng trước giờ lâm chung lại phát tâm niệm Phật, cầu sanh Tây Phương,
liền được vãng sanh. Người này đã trồng
thiện căn từ đời trước nên nay chỉ cần thời gian ngắn là thành tựu vãng sanh.
Như Lục tổ Huệ Năng, tuy chỉ là người đốn củi không biết chữ, nhưng nghe một
câu tụng của kinh Kim cang liền sáng tỏ, đến gặp Tổ Hoằng Nhẫn, không bao lâu
được ấn chứng kế thừa làm Tổ thứ 6. Với người đã có thiện căn niệm Phật sâu dày
từ đời trước thì việc tu hành đời nay cũng tương tự như vậy. Đối với thế giới
Phật A Di Đà đã có niềm tin sâu xa, hạnh vốn đầy đủ, nên chỉ cần phát nguyện
vãng sanh thì liền được vãng sanh.
Khuyến khích kẻ giải đãi : Giải đãi,
là làm biếng, không tinh tấn. Nói việc nầy, trước là gieo niềm tin với kẻ mà
tín và hạnh còn yếu, sau là khuyến khích những người giải đãi, muốn vãng sanh
mà ít chịu thực hành. Đây là nói nhân và quả mà không nói duyên. Chỉ nói mốc
ban đầu và cuối cùng mà không nói thời gian nào thì nhân thành quả. Song Phật
pháp, có nhân rồi phải đủ duyên mới thành quả, tuỳ lực tu hành của mỗi hành giả
mà thời gian có ngắn hay dài.
Nói mười niệm, tức nhân đã gieo, nhưng
phải đợi đủ duyên quả mới thành. Nếu không có mười niệm đó thì không có nhân
thì duyên dù đủ bao nhiêu, quả cũng không thành.Với người, tu thì giải đãi mà
muốn có quả nhanh chóng, thì đây là phương tiện giúp gieo mười niệm vào tạng thức,
là cái nhân để sau này tâm được bất loạn, sinh về thế giới A Di Đà.
Trong hai câu, “Chỉ phát nguyện liền
được vãng sanh” hay “Hết lòng tin thích muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm”
thì nhân không phải ba mà chỉ có một, là
ngyện. Nguyện như vậy là đã có niềm tin với thế giới A Di Đà. Phát nguyện rồi,
tuỳ công đức tu hành, tinh tấn thì hiện
đời hay kiếp sau vãng sanh, không tinh tấn thì vài chục kiếp về sau. Nhưng một
khi đã có nguyện thì trước sau gì cũng vãng sanh mà hạnh là thứ quyết định.
Ba hạng cầu vãng sanh:
1/ Kinh nói: “Này A Nan! Nếu có chúng
sanh, đối với thế giới Phật đó mà phát tâm Bồ đề, chuyện niệm Phật Vô Lượng Thọ
và giéo trồng công đức thiện căn, tất cả đều phát tâm hồi hướng nguyện sinh nước
đó, thì người ấy khi lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ cùng với chúng Tỳ kheo vây
quanh trước sau hiện trước mặt, người ấy liền theo Phật Vô Lượng Thọ vãng sanh
về nước Phật, được bất thối chuyển, sẽ được Chánh đẳng Bồ đề Vô thượng”. Đây là
hạng thứ nhất.
2/ Kinh nói: “Này A Nan! Nếu có chúng
sanh ở các nước khác phát tâm Bồ đề, tuy không chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ
cũng không hằng gieo trồng các thiện căn, chỉ dựa vào việc tu hành và các thiện
công đức của bản thân dùng đó hồi hướng Phật Vô Lượng Thọ, nguyện muốn vãng
sanh, người này khi lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ liền khiến hoá thân cùng chúng
Tỳ kheo vây quanh trước sau- quang minh và tướng hảo của hoá thân này không
khác chân Phật- hiện trước người ấy nhiếp thọ tiếp dẫn. Người ấy liền theo Phật
vãng sanh, được Bất thối chuyển và Bồ đề vô thượng”. Đây là hạng thứ hai. Hạng
này tuy có niệm Phật, có gieo trồng thiện căn, nhưng chưa được chuyên ròng như
hạng trên, nên lúc lâm chung Phật tiếp dẫn có khác.
3/ Kinh nói: Có chúng sanh trụ pháp Đại
thừa, dùng tâm thanh tịnh hướng về Phật Vô Lượng Thọ, cho đến mười niệm Phật Vô
Lượng Thọ, nguyện sinh nước Ngài; Hoặc có chúng sinh nghe pháp thậm thâm, liền
sinh tín giải, tâm không nghi hoặc, cho đến có được nhất niệm tịnh tâm, phát nhất
niệm tâm niệm Phật Vô Lượng Thọ…Người này khi lâm chung, như ở trong mộng mà thấy
Phật Vô Lượng Thọ, quyết định vãng sanh nước Phật, được bất thối chuyển và Bồ đề
vô thượng”. Đây là hạng thứ ba. Hạng này, đối với việc niệm Phật chỉ có mười niệm
hoặc nhất niệm tâm niệm Phật, nhưng vẫn được vãng sanh. Tuy vậy, phải là người
trụ pháp Đại thừa, đối với pháp thậm thâm sinh tâm tin hiểu không nghi hoặc, và
dùng tâm thanh tịnh hướng về Phật Vô Lượng Thọ. Với pháp thậm thâm sinh tâm tin
hiểu (tin mình có Phật tánh), là đã tu được mười vạn kiếp. Dùng tâm thanh tịnh
hướng về Phật Di Đà từng có duyên sâu nặng với việc niệm Phật. Vì thế, tuy tin
hiểu pháp thậm thâm mà vẫn muốn nguyện vãng sanh. Tín-hạnh- nguyện đều đủ nên
nguyện vãng sanh liền được vãng sanh.
Nói chung, có tín-hạnh-nguyện thì trước
sau gì cũng vãng sanh. Tuỳ mức độ tâm thanh tịnh mà sinh về thế giới Cực lạc
thô và tế có khác nhau.
Thai sinh và hoá sinh:
Có thai sanh và hoá sanh, vì tâm người
cầu vãng sanh không đồng nhất, thế giới Cực lạc thành có sai biệt.
Kinh nói: “Đối với việc tích tập thiện
căn là hy cầu Phật trí, phổ biến trí, Bất tư nghì trí, Vô đẳng trí, Uy đức trí,
Quảng đại trí lại rơi vào nghi hối, với thiện căn của mình chẳng thể sinh niềm
tin. Do nhân duyên ấy trong 500 năm ở trong cung điện chẳng thấy Phật, chẳng
nghe pháp, chẳng thấy chúng Bồ tát và Thanh văn… chẳng biết pháp tắc uy đức của
Bồ tát, không thể tu tập các công đức, không có nhân duyên phụng sự vô lượng
chư Phật. Các người này đều do xưa kia có tâm nghi hối. Như con của vua
Sát Đế Lợi phạm pháp….
Sự sai biệt ấy nằm ở chỗ hành giả tin hay không tin vào
Phật trí, tin hay không tin mình cũng có Phật trí như vậy.
1/ Hoá sinh: Là cách vãng sanh của người
đã có tâm tin vào Phật trí, tin mình có Phật trí ấy, tức đã phân định rõ giữa
việc thể nhập Tự tánh Di Đà và vãng sanh thế giới Cực lạc, biết vãng sanh thế
giới Cực lạc chỉ là phương tiện Đức A Di Đà dùng tiếp độ kẻ hậu sinh, giúp kẻ hậu
sinh thể nhập Tự tánh Di Đà.
2/ Thai sinh: là cách vãng sanh của
người chưa tin vào Phật trí, chưa tin mình cũng có Phật trí ấy. Nhưng đã tin có
nhân quả tội phước, chịu tu tập hạnh lành, nghe Phật danh liền khởi niềm tin, cầu
sinh về thế giới Cực lạc. Người này vãng sanh theo thai sanh. Cũng vẫn sinh
trong cung thất bảo, không có hình phạt, không có một niệm ác sự, nhưng 500 năm
không thấy Phật, thấy Bồ tát, thấy chúng Thanh văn để cúng dường, chẳng được
nghe pháp, chẳng thể tu các hành lành, nên tuy có sự vui vi diệu mà tâm không
ưa thích nơi đó. Nếu các chúng sanh ấy biết nhân đời trước, tự ăn năn hối lỗi,
cầu rời chỗ ấy, liền được toại nguyện qua chỗ Phật Vô Lượng Thọ.
Ba pháp niệm Phật của Đại sư Ấn
Quang.
Theo Tổ Ấn
Quang, trong Tư quy tập, niệm Phật có ba pháp:
1/ Chuyên niệm Phật tự lực: Cùng tột thật
tướng, lấy việc chứng ngộ làm gốc. Đối với các pháp như 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 7
đại v.v… dùng trí tuệ Bát nhã chiếu soi, thấu rõ các pháp xưa nay đương thể
toàn không, thấy được tánh chơn như vi diệu tròn đầy… Đây gọi là thật tướng niệm
Phật. Thật tướng niệm Phật này tuy là thật lý tối thâm song lại chẳng dễ tu, vì
chỉ nương nhờ vào giới-định-tuệ của chính mình, không có sự trợ giúp của tha lực.
Nếu chẳng phải là người sẵn căn duyên đời trước thì hội nó còn chẳng dễ, huống
là thực chứng.
2/ Chuyên
niệm Phật tha lực: Có ba thứ:
a-Quán
tưởng, là nương theo kinh Thập lục quán mà quán. Hoặc chuyên quán tưởng lông trắng,
hoặc quán tưởng thân rộng lớn…Quán đến đầy đủ 16 thứ.
b- Quán tượng: Là đối trước hình tượng Phật mà tưởng về tướng
hảo quang minh của Phật v.v..
c-
Trì danh, là nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà.
Pháp “Quán tưởng” tuy hay nhưng phải nhớ hình tượng Phật thấy đó chỉ là sở hiện của
tự tâm. Nếu nhận nó là cảnh thật ngoài tâm thì vướng vào ma sự, sẽ sanh cuồng.
Ba pháp này tuy hình thức thực hành
không giống nhau, nhưng đều có chung một điểm là đầy đủ lòng tin chân thành và
ước nguyện thiết tha mới có thể cùng Phật cảm ứng đạo giao, mới quyết định được
hiện đời ra khỏi Ta bà mà sanh về Cực lạc.
3-
Pháp tự tha đều niệm: Còn gọi là “Thiền
Tịnh song tu”, đặt nền tảng trên việc chuyên khán “Niệm Phật đó là ai?” Cốt để
minh tâm kiến tánh, chẳng dùng tín- nguyện cầu sanh Tây phương làm sự nghiệp.
Đã không có tín nguyện thì không thể nương vào tha lực mà vãng sanh Tây phương.
Chưa đến được chỗ nghiệp hết tình không thì cũng không thể nương vào tự lực mà
liễu thoát sanh tử. Vì thế, với pháp “Thiền Tịnh song tu” này, chỉ có người tín
nguyện đầy đủ mới có lợi ích. Còn không thì chẳng bằng hết lòng với môn trì
danh hiệu Phật.
Pháp
trì danh và ma sự.
Tổ Ấn Quang dạy: “ Pháp “Trì danh” hạ
thủ công phu dễ nhất mà thành công mau nhất. Nếu thâu nhiếp 6 căn, tịnh niệm được
liên tục thì ngay đời này sẽ chứng được niệm Phật tam muội. Khi lâm chung nhất
định vãng sanh thượng phẩm. Dù căn cơ có
hạ liệt, chưa chứng được tam muội mà dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật như con
nhớ mẹ không gián đoạn, thì đến khi lâm chung, cảm ứng đạo giao, nương nhờ từ lực
của Phật theo nghiệp vãng sanh. Nếu chí
tâm trì niệm, niệm đến toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm, ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có
tâm, không niệm mà niệm, tâm Phật cả hai cùng hiện rõ, rồi cả hai cùng mất, thì
diệu lý thật tướng chân thể hiển lộ. Ngay đó Tây phương hoàn toàn tròn sáng.
Đây là trì danh mà thâm đạt thật tướng, chẳng phải dùng quán mà tự thấy Tây
phương. Nhiếp cơ rất rộng, lợi ích rất nhiều, rất hợp với kẻ độn căn thời mạt
pháp.”
Mỗi người tuỳ vào thân phận của mình
mà lập, chẳng thể cố chấp cố định vào một pháp nào. Từ sáng đến chiều, đi, đứng,
nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, ăn cơm, đi tiêu, đi tiểu…chỉ một thánh
hiệu ấy không cho lìa tâm và miệng. Nếu như ở chỗ thanh khiết thì niệm ra tiếng
hay niệm thầm đều được. Còn khi ngủ nghỉ, tắm rửa, đi tiêu, đi tiểu cho đến những
nơi không được sạch sẽ thì chỉ nên niệm thầm, vì niệm thầm có công đức cũng vậy.
Niệm ra tiếng thì không được cung kính nên không niệm ra tiếng, chớ không phải ở
những nơi đó không được niệm Phật. Lại, khi ngủ mà niệm ra tiếng ngoài việc
không cung kính còn bị tổn khí.
Như vậy, niệm Phật có hai trường hợp, tuỳ
duyên niệm Phật và định kỳ niệm Phật. Tuỳ duyên là đi, đứng, nằm, ngồi, hay
đang làm việc, ở đâu, lúc nào cũng niệm Phật, gọi là tuỳ duyên niệm Phật. Còn định kỳ niệm Phật, tức một ngày đêm ta quy
định một thời khắc nhất định để niệm Phật. Cách chuẩn nhất, kết nối nhiều năng
lượng mạnh nhất là đối trước bàn Phật mà niệm. Chúng ta quy định niệm Phật thời gian trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy,
trong hai khoản thời gian này là thích hợp nhất. Mỗi ngày nào cũng như ngày nào không bỏ sót gọi là định kỳ niệm Phật, điều này rất
quan trọng mọi người nên chú ý và thực tập. Thời gian niệm tuỳ theo sự phát
nguyện, thời gian niệm lâu hay mau không quan trọng, mà quan trọng ở chỗ tập
cho tâm ta thành một thói quen. Chính thói quen sẽ giúp ta đối phó lúc cận tử
nghiệp tâm không bị tán loạn, thì vãng sanh là điều nắm chắc trong tay.
Phương pháp hay nhất của
việc trì danh niệm Phật là thâu nhiếp toàn bộ 6 căn, tịnh niệm liên tục. Thâu
nhiếp toàn bộ 6 căn là tâm niệm Phật. Chuyên chú nơi danh hiệu Phật tức nhiếp
được ý căn. Miệng phải niệm rõ ràng rành mạch là nhiếp được thiệt căn. Tai nghe
rõ ràng rành mạch là nhiếp được nhĩ căn. Ba căn này bị nhiếp bởi danh hiệu Phật,
thì nhãn căn quyết chẳng thể có cái nhìn tạp loạn, tức mắt cũng được nhiếp. Tỷ
căn chẳng thể có cái ngửi tạp loạn, tức mũi cũng được nhiếp. Khi niệm Phật,
thân phải đoan nghiêm nên thân cũng được nhiếp. Sáu căn đã nhiếp thì tâm không
có vọng niệm, chỉ lấy Phật làm niệm, nên là tịnh niệm. Sáu căn nếu chẳng nhiếp
thì tuy là niệm Phật mà trong tâm vẫn đầy vọng tưởng, khó mà được lợi ích thiết
thực.
Một
câu A Di Đà miên mật luôn thường niệm. Phàm có những niệm như háo thắng, giận dỗi…bất
ngờ manh động thì phải suy nghĩ “Ta là người niệm Phật, sao có thể khởi các niệm
này?” Niệm khởi liền ngừng, lâu ngày thì tất cả những thứ niệm khiến ta lao thần
tổn sức mệt thân ấy đều không thể khởi lên nữa. Do công đức bất khả tư nghị của
Phật gia trì, chưa quá 10 ngày sẽ thấy hiệu nghiệm. Nếu thỉnh thoảng niệm một
câu, hai câu mà muốn hiệu nghiệm ngay là tự dối mình dối người. Tuy vẫn có công
đức nhưng khỏi bệnh thì chẳng thể được.
Khi niệm Phật cần chí thành. Niệm Phật mà tâm
chẳng quy nhất là do đối với sanh tử, tâm chẳng tha thiết. Nếu có ý nghĩ sắp bị
dầu sôi lửa bỏng thì chẳng thể cứu viện thì tâm tự quy nhất. Khi tâm bỗng khởi
lòng thương xót thì phải biết đó là do thiện căn khai phát, nhưng không nên
nuôi dưỡng tình trạng ấy, nếu không sẽ vướng vào ma bi. Phàm có việc gì thích ý
cũng chẳng nên vui lòng. Không, sẽ vướng vào ma vui.
Khi niệm Phật, hai mắt cần nên buông xuống,
không nên để thần quá sức đến nỗi tâm bốc hoả sanh nóng nảy. Nếu đỉnh đầu phát
ngứa, đau nhức hay có các thứ bệnh khác thì cần điều hoà bên trong sao cho
thích hợp để không bịnh hoạn. Khi niệm ra tiếng cũng không nên niệm quá sức.
Bệnh cùng ma đều do nghiệp đời trước gây nên,
chỉ cần chí thành khẩn thiết niệm Phật thì bệnh tự khỏi, ma sự tự lìa. Nếu chẳng
chí thành hoặc khởi tà niệm thì tâm đoạ trong sự u tối, ma quỷ ắt quấy nhiễu.
Vào lúc niệm Phật xong, khi hồi hướng thì nên vì tất cả những oan gia trong quá
khứ mà hồi hướng, khiến mọi loài đều nhờ vào sự lợi ích niệm Phật của mình mà
siêu sanh vào đường lành.
Niệm Phật lần hạt thì có
thể ngừa giải đãi, song khi tịnh toạ niệm Phật thì chẳng nên lần hạt. Vì lần hạt
hướng động đến tâm chẳng thể định. Về lâu về dài tất sẽ sanh bịnh.
Nếu chưa được nhất tâm thì tuyệt đối không
nên nảy sinh ý tưởng muốn thấy Phật. Nếu nóng nảy muốn thấy thì tâm niệm rối rắm,
cái niệm “muốn thấy” ấy sẽ động kết
trong lòng thành “đại bệnh”. Oan gia lâu đời nương cái niệm tình tưởng vọng động
ấy hiện làm thân Phật để báo oán xưa. Đó là do tâm mình không chánh kiến. Chưa
kể một khi thấy ma mà sinh hoan hỷ thì ma nhập vào tạng phủ sẽ phát cuồng. Dù gặp
được Phật sống cũng chẳng thể cứu. Cho nên, chỉ cần niệm Phật cho được nhất
tâm, chẳng cần thấy Phật hay không. Nhất tâm rồi thì tự có cảm ứng không thể
nghĩ bàn. Nếu niệm Phật mà bị khí muộn là do nghiệp chướng khiến ra như vậy. Chỉ
cần chí thành khẩn thiết niệm Phật thì từ từ sẽ yên.
Người tu hành đời nay, phần lớn vướng vào ma
sự đều do lấy tâm vọng động mong cầu cảnh giới tốt.
Một khi cảnh giới tốt xuất hiện, nếu cho cảnh
giới ấy là ma thì cảnh giới ấy là cảnh giới tốt, hễ sanh cái tâm tham trước vui
mừng thì bị tổn hại chẳng chút lợi ích, huống chưa phải là cảnh giới tốt? Nếu
là người có công phu hàm dưỡng thì cảnh giới dù có cũng như không, nên ma cảnh
nếu hiện vẫn là cảnh giới tốt. Đó là vì gặp ma mà chẳng bị ma chuyển, tức năng
lực tinh tấn cao.
Phần “Niệm Phật hồi hướng” cũng không thể bỏ
qua. Song chỉ nên hồi hướng sau khoá công phu tối và đi kinh hành vào buổi
trưa. Còn bình thường lấy việc trì niệm Phật liên tục làm sự hồi hướng thời thường.
Mọi công hạnh ngày thường đều hồi hướng vãng sanh và cần phát Bồ đề tâm, thệ
nguyện độ sanh. Có công đức tu trì nào đều khắp vì bốn ân trong ba cõi và chúng
sanh trong pháp giới mà hồi hướng. Đã cùng chúng sanh kết sâu pháp duyên thì thắng
hạnh Đại thừa của mình chóng thành. Nếu chẳng thấu nghĩa nầy thì rơi vào tri kiến
tự lợi của phàm phu và Nhị thừa, tuy tu diệu hạnh mà cảm cái quả thấp hèn.
Phàm người niệm Phật, tuỳ
theo phương tiện của mỗi người cốt phải khắc phục cho được tập khí của mình. Phàm người đáng nói thì dù
cho đối nghịch với ta cũng phải vì người mà nói, khiến người gặp được điều lành
tránh xa điều dữ, lìa khổ được vui. Hằng ngày phải ngay thẳng rõ ràng. Với người
thì nói rõ về nhân quả báo ứng và con đường niệm Phật liễu sanh thoát tử. Dạy dỗ
con cái cũng đồng nghĩa với việc gầy dựng
nền tảng thái bình. Tâm thẳng như dây đàn căn, lời nói mập mờ lấp lửng. Muốn giữ
cái tâm có thể đối chất với quỷ thần lúc lâm chung thì làm việc gì quyết chẳng
mê mờ lý trời. Như thế đến lúc lâm chung không có hiện tượng đáng thương, đáng
tiếc xảy ra.
Kết luận: Theo những gì kinh luận đã nói, thì
có thể đúc kết như sau:
1-
Niệm Phật
muốn vãng sanh phải hội đủ ba thứ tín
-nguyện-hạnh.
2- Nói mười niệm hay một niệm được vãng sanh
đều có thể, quan trọng là tâm không loạn và nguyện về nước Phật hiện tiền.
3- Hạnh, hiện đời có thể là thiền v.v..nhưng
tâm cần không loạn và phải có tín và
nguyện với A Di Đà thì mới có thể vãng sanh.
4- Muốn được vãng sanh thượng phẩm thì điều
kiện cần là phải phát Bồ đề tâm. Vì phát tâm Bồ đề, cũng có nghĩa tin mình có
tánh như Phật, tin mình cũng có các loại trí như Phật, chỉ do vô minh mà lưu
chuyển sáu đường. Điều kiện đủ là nguyện và hạnh phải đáp ứng được việc vãng sanh.
5- Niệm Phật,
với cái nhìn của chư thánh, là pháp mà hàng căn cơ hạ liệt có thể hành
trì. Tổ Ấn Quang nói “Rất hợp với kẻ độn căn thời mạt pháp”. Nghĩa là, ngay cả
hàng độn căn cũng có thể hành pháp ấy mà đạt được kết quả tốt đẹp, không phải
do chỗ đến hạ liệt mà nói như vậy. Bởi nói niệm Phật mà tin mình có Phật tánh
thì cũng có thể kiến tánh, như Tổ Ấn Quang dạy trong pháp trì danh.
Nói phù hợp với người độn
căn, là do thuận với căn nghiệp của chúng sanh thời nay, tức thuận với tập khí
sinh khởi của dòng tâm thức mà nói. Thuận với sự sinh khởi của dòng tâm thức,
là dùng sự sinh khởi của nhất niệm A Di Đà thay thế cho sự sinh khởi của dòng vọng
tưởng, tức đưa từ cái nhiều về cái một. Tuy nhiều và một không còn đồng, nhưng
sự sinh khởi của tâm vẫn đồng, vẫn không tạo áp lực mạnh cho hành giả khi hành
trì như một số pháp thiền, dứt thẳng vào tập khí sinh khởi, đưa tâm về không,
là đi thẳng từ cái nhiều về cái không. Kiểu chim bay này, nếu không đủ lực,
hành giả sẽ bỏ cuộc nửa chừng. Còn pháp niệm Phật vẫn cho thuận với tập khí
sinh khởi của chúng sanh, nên hàng độn căn vẫn có thể hành trì. Nó là cây cầu
giúp hành giả bước dần từ động qua tĩnh không quá sốc.
Tóm lại, Thiền, Tịnh hay Mật đều là pháp của
Phật. Đúng là pháp của Phật thì nó phải vừa khế lý khế cơ. Khế lý, là điều nói
đến chỗ tột cùng, dẫn bày hành giả về cội nguồn chân thật nhất tâm. Khế cơ, là
tuỳ tâm thức của chúng sanh mà lập phương tiện.
Lý thì không khác mà phương tiện
thì có sai biệt, vì tuỳ duyên. Vấn đề của người tu là biết chọn cho mình
một pháp môn phù hợp để dứt trừ sự sinh khởi của tâm, định lực và trí tuệ đầy đủ,
tự lợi và lợi tha viên mãn./.
Trích dẫn:
Niệm Phật muốn vãng sanh của: Chân Hiền Tâm. NSGN số 252 -3/2017.
(Chân Hiền
Tâm là một nữ cư sĩ tại gia quy y với HT Thích Thanh Từ, cô rất thông hiểu về
kinh luận, cả Thiền và Tịnh. Tuy là nữ tại gia nhưng những bài viết của cô rất
sâu sắc và chuẩn, cô thông hiểu cả Thiền và Tịnh. Một hành giả vừa tu tập vừa
nghiên cứu kinh luận trợ giúp cho công tác hoằng pháp lợi sanh của cô rất đáng
tán dương).
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét