Thứ Ba, 22 tháng 7, 2025

QUAN NIỆM KHỔ ĐAU TRONG ĐẠO PHẬT

 

QUAN NIỆM KHỔ ĐAU TRONG ĐẠO PHẬT

                    Bể khổ mênh mông sóng ngút trời

                    Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi

                    Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió

                    Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi

                                                                             (Đoàn Như Khuê)

          Như bao tôn giáo khác, Phật giáo luôn đề cao triết lý nhân sinh làm sao để con người nhận thức được bản chất của khổ đau và thực hành khổ đau như thế nào để con người không bị rơi vào trạng thái tuyệt vọng, để khi đối mặt với đau khổ của cuộc sống hiện thực, con người biết sống tích cực trong chính cuộc đời ngắn ngủi này. Đức Phật  khi còn là thái tử, Ngài sống trong nhung lụa, trái tim của Ngài đã cảm nhận được nỗi thống khổ của sinh, lão, bệnh và tử, sự biến đổi không ngừng của vạn vật trên trần thế. Ngài không thể ngồi yên để nhìn đồng loại của mình chịu khổ, Ngài đã xuất gia với tâm nguyện tìm ra phương pháp tu tập chân chính nhất để con người có thể giải thoát được những nỗi khổ về vật chất và tinh thần giữa cuộc đời hiện hữu.

          Tìm hiểu quan niệm khổ đau của Phật giáo để  thấy được tính tích cực của tôn giáo này trong vai trò là kim chỉ nam dẫn lối cho con người nhận thức được khổ và giải thoát khỏi những nỗi khổ mà con người từ khi thọ thai đến khi nhắm mắt xui tay phải gánh nhận.

- Quan niệm khổ đau trong đạo Phật.

Khổ là sự kiện đầu tiên Phật đã cảm nhận trong cuộc sống nhân sinh của con người qua bốn lần đi dạo ngoài cửa thành.  Đau, già, bịnh, chết  là những hình ảnh ấy luôn ám ảnh và thôi thúc Thái tử Tất Đạt Đa ngày đêm thao thức muốn tìm ra con đường cứu khổ cho chúng sanh.  Trong kinh Phật thường ví dụ những khổ đau của con người trùng trùng điệp điệp như biển cả mênh mông, nên gọi là biển khổ. Từ đó người đời cho Phật giáo có cái nhìn tiêu cực đối với cuộc đời. Vì sao Phật nói đời là khổ mà người đời lại cho là tiêu cực?  Vì Phật là bậc đã giác ngộ thấy mọi sự mọi vật đúng như thật với con mắt tuệ giác; còn người đời mê muội với cái nhìn tham dục nên không thấy được bản chất thực của cuộc đời. Người giác ngộ thấy cuộc đời là khổ, người mê thấy đời là vui. Vì thế Phật thương chúng sanh mê muội lấy khổ làm vui, cho vui là khổ vì thế cứ mãi trầm luân trong sanh tử. Phật chỉ ra nguyên nhân của khổ và phương pháp loại trừ khổ.  Như vậy chúng ta phải hiểu như thế nào về từ “khổ” trong Phật giáo.

Tiếng Phạn gọi là “duhkha” gồm hai  từ ghép là: duh và kha. Kha có nghĩa là cái lỗ tròn ở giữa bánh xe dùng để đưa cái trục xe vào đó. Duh có nghĩa là “bất ổn”. “bất an”, “rối loạn”. Theo Philippe Cornu, một học giả lỗi lạc là Viện trưởng Viện Đại học Phật giáo Âu châu, duhkha không phải chỉ giản dị có nghĩa là những đau khổ thuộc thân xác hay tinh thần, mà khổ đau còn bao hàm cả những thể dạng bất toại nguyện và những cảm tính bất an mà tất cả chúng ta đều cảm thấy trong cuộc sống của mình. Nói một cách vắn tắt hơn thì đấy là sự bất toại nguyện của sự hiện hữu. Cách hiểu về khổ đau- duhkha rộng hơn, Hoà thượng Thiện Siêu giải thích trình bày về Khổ đế, Hoà thượng cho rằng, duhkha ngoài nghĩa bất toại nguyện thì phải được hiểu đầy đủ 4 nghĩa: Khổ, Vô thường,  Không và Vô ngã- đây là 4 pháp ấn quan trọng của Phật giáo.

Như vậy, khi tìm hiểu về khổ đau- duhkha chúng ta không chỉ dừng lại ở cách hiểu đó là sự bất an, rối loạn ở thể xác lẫn tinh thần mà duhkha còn bao hàm cả trạng thái hạnh phúc tương đối. Khi con người hiểu rõ được căn nguyên của sự vật, hiện tượng, con người sẽ tự tìm cho mình được cách giải thoát ra khỏi những bấn loạn hiện hữu. Đó mới chính là giá trị của từ duhkha trong quan niệm Phật giáo.

Trong bài thuyết giảng đầu tiên ở vườn Lộc uyển cho 5 anh em Kiều Trần Như, Đức Phật đã nêu lên Bốn sự thật cao quý (Tứ diệu đế), trong sự thật thứ nhất Đức Phật nêu lên khái niệm về Khổ đau và vô thường, đấy là những gì làm nền tảng cho giáo lý. Dựa trên nền tảng  đó Bốn sự thật liên kết chặt chẻ và mạch lạc với nhau giúp hình thành toàn bộ đạo pháp. Bốn sự thất ấy như sau:

a/KHỔ: Sự sống là khổ đau, bởi vì tất cả đều vô thường (Khổ đế). Có tám loại khổ chính mà con người phải gánh chịu:1- sinh khổ, 2- già khổ, 3-bịnh khổ,  4-chết khổ, 5- Gặp những người mình không thích khổ (oán tằng hội khổ),  6- Xa lìa người mình yêu thích khổ (Ái biệt ly khổ), 7- Mong muốn không được khổ (cầu bất đắc khổ), 8- (Ngũ ấm xí thạnh khổ). Khổ vì phải gánh chịu sự biến đổi của cái thân năm ấm. Bốn khổ trước thuộc về sinh lý; ba khổ tiếp theo thuộc về tâm lý; và khổ cuối cùng chung cho cả tâm-sinh lý.

b/ TẬP: Nguồn gốc  của khổ đau phát sinh từ dục vọng (Tập đế)- do Thập nhị nhân duyên (tức 12 nhân duyên có quan hệ mật thiết, cái này làm nhân, làm duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời làm nhân cho cái sau), tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người, gồm: Vô minh- hành thức- danh sắc- lục nhập- xúc- thọ-ái-thủ-hữu-sinh-lão- tử.

c/DIỆT: Phương thuốc chữa chạy là đình chỉ mọi dục vọng (Diệt đế). Muốn diệt trừ khổ đau thì phải diệt trừ vô minh. Khi vô minh bị diệt thì trí tuệ được chiếu sáng, khi đó con người sẽ hiểu rõ được bản chất của vũ trụ và con người để thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.

d/ĐẠO: Có một con đường mang lại sự chấm dứt đó, đấy là con đường Bát chánh  (Đạo đế) (Bát chánh đạo). Đấy là con đường cao quý  gồm có tám nhánh, ấy là Chánh kiến (quán thấy đúng), Chánh tư duy (tư duy đúng) Ngôn ngữ đúng (Chánh ngữ); hành động đúng (Chánh mạng), Phương tiện sinh sống đúng (Chánh nghiệp), siêng năng đúng (Chánh tinh tấn),  chú tâm đúng (Chánh định) sự tĩnh tâm đúng (chánh tuệ). Bát Chánh đạo được phân làm ba nhóm:

 Nhóm thứ nhất: Thuộc về đạo đức hay giới luật gồm có:  

  a/ Chánh ngữ - Không nói dối, không dèm pha, không nói lời hung ác, không nói lưỡi đôi chiều.

b/ Chánh mệnh - Hành động đúng: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm

c/ Chánh nghiệp - Sinh sống đúng: không làm những nghề có hại đến người và vật, như nghề đồ tể,  buôn bán vũ khí, chăn nuôi súc vật, bán rượu,  cho vay nặng lãi v.v..

Nhóm thứ hai: thuộc tĩnh tâm hay thiền định gồm có:

a/ Chánh tinh tấn - Siêng năng đúng : Điều ác chưa sanh thì ngăn chận không sanh,  điều ác đã sanh thì sớm chấm dứt; Điều thiện chưa sanh, thì sớm phát sanh, điều thiện đã sanh thì càng phát sanh . Tức siêng bỏ ác và siêng làm lành.

b/ Chánh niệm - Chú tâm đúng, suy nghĩ chú tâm vào những điều tích cực, đem lại lợi ích thân và tâm cho mình và người khác.

c/ Chánh định -Tập trung tâm thức đúng, đây thuộc lĩnh vực thiền định, thí như tập trung tâm thức vào hơi thở…

-Nhóm thứ ba: là sự hiểu biết tối thượng, hay gọi là trí Bát nhã gồm có:

a/ Chánh tư duy - Tư duy đúng: quên mình vì mọi người, vô ngã vị tha, không ích kỷ, từ bi yêu thương tất cả chúng sanh, không não hại chúng sanh.

b/Chánh kiến - Sự hiểu biết đúng: Thấu triệt được Tứ diệu đế.

Như vậy trên hơn hai ngàn năm trước Đức Phật đã tìm ra căn bệnh Khổ đau duhkha mà con người thường xuyên phải gánh chịu trên thân xác và tâm thức. Đức Phật đã phân tích cho chúng ta thấy nguyên nhân sâu kín của mọi thứ bệnh đang đày đoạ con người và đưa ra phương thuốc để hoá giải  tận cội rễ của tất cả mọi khổ đau ấy gọi chung là duhkha. Phương thức của Ngài đưa ra đó là tự mỗi người hãy nhận ra sự vô minh của mình để diệt trừ nó, hãy nhận thức về tính vô thường của thế giới, tính vô ngã của chủ thể. Khi đó, con người mới tự mình đem lại an lạc trong cuộc đời mà không bị những nỗi khổ đau bám víu, đưa con người vào trạng thái  bất an và lo sợ trong cuộc sống.

Đạo Phật nói đời là Khổ mà còn chỉ ra nguyên nhân của nỗi Khổ, không dừng lại ở đó. Phật giáo còn đưa ra phương cách  giúp con người thoát khổ, thoát những bất an, đau khổ đang hiện hữu. Phật giáo bàn về khổ đau duhkha ở nhiều nghĩa lớp khác nhau, nhưng cái điểm chung ở đây chính là vô minh mà ra. Muốn diệt trừ khổ duhkha thì con người phải diệt trừ vô minh. Mà ai là người diệt trừ khổ đau- câu trả lời là sự tự thân vận động của mỗi một con người. Sự tự thân ấy không có cách nào khác là trang bị những hiểu biết về quy luật luân hồi sanh tử, thuyết vô ngã, vô thường mà giáo lý đạo Phật đã chỉ ra mỗi cho chúng ta. Khi mà con người đã nhận thức rõ được bản chất của vạn vật được vận hành theo quy luật sinh tử luân hồi, vô ngã, vô thường thì khi đó con người đối mặt với khổ đau, một cách an nhiên tự tại. Đó chính là giá trị của đạo Phật mang lại cho chúng sanh.

Kết luận: Phật giáo chủ trương giúp con người giải thoát khổ đau ngay chính trong cuộc sống hiện tại. Khi con người nhận thức được căn nguyên của khổ là do vô minh, vạn vật đều vận hành theo quy luật vô thường, vô ngã, nhân quả. Khi đó con người tự mình luyện tập, tự mình vượt lên chính những khổ đau ấy  bằng một  tâm thế an nhiên tự tại, làm được như vậy con người đã tu đạt đến  trạng thái Niết bàn, tức con người giải thoát được thân tâm khỏi khổ đau, đạt đến trạng thái tĩnh tại, vô lo.

Khi đến với đạo Phật, con người không chỉ nhận thức được bản chất của khổ đau mà biết cách giải thoát khỏi những khổ đau ấy ngay tại cuộc sống hiện hữu. Đó chính là tính nhân văn mà Phật giáo đem lại cho cuộc sống nhân loại./.

(Dựa theo và trích: Tìm hiểu quan niệm khổ đau- duhkha của Phật giáo: TS. Hoàng Sĩ Nguyên & THS. Lê Thu Huyền – NSGN- số 227/ 02/2015).

{]{

QUAN NIỆM KHỔ ĐAU TRONG ĐẠO PHẬT Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét