QUAN
NIỆM KHỔ ĐAU TRONG ĐẠO PHẬT
Bể
khổ mênh mông sóng ngút trời
Khách
trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền
ai ngược gió, ai xuôi gió
Ngẫm
lại cùng trong bể khổ thôi
(Đoàn Như
Khuê)
Như bao tôn giáo khác, Phật giáo luôn
đề cao triết lý nhân sinh làm sao để con người nhận thức được bản chất của khổ
đau và thực hành khổ đau như thế nào để con người không bị rơi vào trạng thái
tuyệt vọng, để khi đối mặt với đau khổ của cuộc sống hiện thực, con người biết
sống tích cực trong chính cuộc đời ngắn ngủi này. Đức Phật khi còn là thái tử, Ngài sống trong nhung lụa,
trái tim của Ngài đã cảm nhận được nỗi thống khổ của sinh, lão, bệnh và tử, sự
biến đổi không ngừng của vạn vật trên trần thế. Ngài không thể ngồi yên để nhìn
đồng loại của mình chịu khổ, Ngài đã xuất gia với tâm nguyện tìm ra phương pháp
tu tập chân chính nhất để con người có thể giải thoát được những nỗi khổ về vật
chất và tinh thần giữa cuộc đời hiện hữu.
Tìm hiểu quan niệm khổ đau của Phật
giáo để thấy được tính tích cực của tôn
giáo này trong vai trò là kim chỉ nam dẫn lối cho con người nhận thức được khổ
và giải thoát khỏi những nỗi khổ mà con người từ khi thọ thai đến khi nhắm mắt
xui tay phải gánh nhận.
- Quan niệm khổ đau trong đạo Phật.
Khổ là sự kiện đầu tiên Phật đã cảm nhận
trong cuộc sống nhân sinh của con người qua bốn lần đi dạo ngoài cửa thành. Đau, già, bịnh, chết là những hình ảnh ấy luôn ám ảnh và thôi thúc
Thái tử Tất Đạt Đa ngày đêm thao thức muốn tìm ra con đường cứu khổ cho chúng
sanh. Trong kinh Phật thường ví dụ những
khổ đau của con người trùng trùng điệp điệp như biển cả mênh mông, nên gọi là
biển khổ. Từ đó người đời cho Phật giáo có cái nhìn tiêu cực đối với cuộc đời.
Vì sao Phật nói đời là khổ mà người đời lại cho là tiêu cực? Vì Phật là bậc đã giác ngộ thấy mọi sự mọi vật
đúng như thật với con mắt tuệ giác; còn người đời mê muội với cái nhìn tham dục
nên không thấy được bản chất thực của cuộc đời. Người giác ngộ thấy cuộc đời là
khổ, người mê thấy đời là vui. Vì thế Phật thương chúng sanh mê muội lấy khổ
làm vui, cho vui là khổ vì thế cứ mãi trầm luân trong sanh tử. Phật chỉ ra
nguyên nhân của khổ và phương pháp loại trừ khổ. Như vậy chúng ta phải hiểu như thế nào về từ
“khổ” trong Phật giáo.
Tiếng Phạn gọi là “duhkha” gồm hai từ ghép là: duh và kha. Kha có nghĩa là cái lỗ
tròn ở giữa bánh xe dùng để đưa cái trục xe vào đó. Duh có nghĩa là “bất ổn”.
“bất an”, “rối loạn”. Theo Philippe Cornu, một học giả lỗi lạc là Viện trưởng
Viện Đại học Phật giáo Âu châu, duhkha không phải chỉ giản dị có nghĩa là những
đau khổ thuộc thân xác hay tinh thần, mà khổ đau còn bao hàm cả những thể dạng
bất toại nguyện và những cảm tính bất an mà tất cả chúng ta đều cảm thấy trong
cuộc sống của mình. Nói một cách vắn tắt hơn thì đấy là sự bất toại nguyện của
sự hiện hữu. Cách hiểu về khổ đau- duhkha rộng hơn, Hoà thượng Thiện Siêu giải
thích trình bày về Khổ đế, Hoà thượng cho rằng, duhkha ngoài nghĩa bất toại
nguyện thì phải được hiểu đầy đủ 4 nghĩa: Khổ, Vô thường, Không và Vô ngã- đây là 4 pháp ấn quan trọng
của Phật giáo.
Như vậy, khi tìm hiểu về khổ đau- duhkha
chúng ta không chỉ dừng lại ở cách hiểu đó là sự bất an, rối loạn ở thể xác lẫn
tinh thần mà duhkha còn bao hàm cả trạng thái hạnh phúc tương đối. Khi con người
hiểu rõ được căn nguyên của sự vật, hiện tượng, con người sẽ tự tìm cho mình được
cách giải thoát ra khỏi những bấn loạn hiện hữu. Đó mới chính là giá trị của từ
duhkha trong quan niệm Phật giáo.
Trong bài thuyết giảng đầu tiên ở vườn Lộc uyển
cho 5 anh em Kiều Trần Như, Đức Phật đã nêu lên Bốn sự thật cao quý (Tứ diệu đế),
trong sự thật thứ nhất Đức Phật nêu lên khái niệm về Khổ đau và vô thường, đấy
là những gì làm nền tảng cho giáo lý. Dựa trên nền tảng đó Bốn sự thật liên kết chặt chẻ và mạch lạc
với nhau giúp hình thành toàn bộ đạo pháp. Bốn sự thất ấy như sau:
a/KHỔ: Sự sống là khổ đau, bởi vì tất cả đều
vô thường (Khổ đế). Có tám loại khổ chính mà con người phải gánh chịu:1- sinh
khổ, 2- già khổ, 3-bịnh khổ, 4-chết khổ,
5- Gặp những người mình không thích khổ (oán tằng hội khổ), 6- Xa lìa người mình yêu thích khổ (Ái biệt
ly khổ), 7- Mong muốn không được khổ (cầu bất đắc khổ), 8- (Ngũ ấm xí thạnh khổ).
Khổ vì phải gánh chịu sự biến đổi của cái thân năm ấm. Bốn khổ trước thuộc về sinh
lý; ba khổ tiếp theo thuộc về tâm lý; và khổ cuối cùng chung cho cả tâm-sinh
lý.
b/ TẬP: Nguồn gốc của khổ đau phát sinh từ dục vọng (Tập đế)-
do Thập nhị nhân duyên (tức 12 nhân duyên có quan hệ mật thiết, cái này làm
nhân, làm duyên cho cái kia, cái này là quả của cái trước, đồng thời làm nhân
cho cái sau), tạo ra chu trình khép kín trong mỗi con người, gồm: Vô minh- hành
thức- danh sắc- lục nhập- xúc- thọ-ái-thủ-hữu-sinh-lão- tử.
c/DIỆT: Phương thuốc chữa chạy là đình chỉ mọi
dục vọng (Diệt đế). Muốn diệt trừ khổ đau thì phải diệt trừ vô minh. Khi vô
minh bị diệt thì trí tuệ được chiếu sáng, khi đó con người sẽ hiểu rõ được bản
chất của vũ trụ và con người để thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử.
d/ĐẠO: Có một con đường
mang lại sự chấm dứt đó, đấy là con đường Bát chánh (Đạo đế) (Bát chánh đạo). Đấy là con đường
cao quý gồm có tám nhánh, ấy là Chánh kiến
(quán thấy đúng), Chánh tư duy (tư duy đúng) Ngôn ngữ đúng (Chánh ngữ); hành động
đúng (Chánh mạng), Phương tiện sinh sống đúng (Chánh nghiệp), siêng năng đúng
(Chánh tinh tấn), chú tâm đúng (Chánh định)
sự tĩnh tâm đúng (chánh tuệ). Bát Chánh đạo được phân làm ba nhóm:
Nhóm thứ nhất: Thuộc về đạo đức hay giới luật gồm có:
a/ Chánh
ngữ - Không nói dối, không dèm pha, không nói lời hung ác, không nói lưỡi đôi
chiều.
b/ Chánh mệnh - Hành động đúng: Không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm
c/ Chánh nghiệp - Sinh sống đúng: không làm
những nghề có hại đến người và vật, như nghề đồ tể, buôn bán vũ khí, chăn nuôi súc vật, bán rượu, cho vay nặng lãi v.v..
Nhóm thứ hai: thuộc tĩnh tâm hay thiền định gồm có:
a/ Chánh tinh tấn - Siêng năng đúng : Điều ác
chưa sanh thì ngăn chận không sanh, điều
ác đã sanh thì sớm chấm dứt; Điều thiện chưa sanh, thì sớm phát sanh, điều thiện
đã sanh thì càng phát sanh . Tức siêng bỏ ác và siêng làm lành.
b/ Chánh niệm - Chú tâm đúng, suy nghĩ chú
tâm vào những điều tích cực, đem lại lợi ích thân và tâm cho mình và người
khác.
c/ Chánh định -Tập trung tâm thức đúng, đây
thuộc lĩnh vực thiền định, thí như tập trung tâm thức vào hơi thở…
-Nhóm thứ ba: là sự hiểu biết tối thượng,
hay gọi là trí Bát nhã gồm có:
a/ Chánh tư duy - Tư duy đúng: quên mình vì mọi
người, vô ngã vị tha, không ích kỷ, từ bi yêu thương tất cả chúng sanh, không
não hại chúng sanh.
b/Chánh kiến - Sự hiểu biết đúng: Thấu triệt
được Tứ diệu đế.
Như vậy trên hơn hai ngàn năm trước Đức Phật
đã tìm ra căn bệnh Khổ đau duhkha mà con người thường xuyên phải gánh chịu trên
thân xác và tâm thức. Đức Phật đã phân tích cho chúng ta thấy nguyên nhân sâu
kín của mọi thứ bệnh đang đày đoạ con người và đưa ra phương thuốc để hoá giải tận cội rễ của tất cả mọi khổ đau ấy gọi
chung là duhkha. Phương thức của Ngài đưa ra đó là tự mỗi người hãy nhận ra sự
vô minh của mình để diệt trừ nó, hãy nhận thức về tính vô thường của thế giới,
tính vô ngã của chủ thể. Khi đó, con người mới tự mình đem lại an lạc trong cuộc
đời mà không bị những nỗi khổ đau bám víu, đưa con người vào trạng thái bất an và lo sợ trong cuộc sống.
Đạo Phật nói đời là Khổ mà còn chỉ ra nguyên
nhân của nỗi Khổ, không dừng lại ở đó. Phật giáo còn đưa ra phương cách giúp con người thoát khổ, thoát những bất an,
đau khổ đang hiện hữu. Phật giáo bàn về khổ đau duhkha ở nhiều nghĩa lớp khác
nhau, nhưng cái điểm chung ở đây chính là vô minh mà ra. Muốn diệt trừ khổ duhkha
thì con người phải diệt trừ vô minh. Mà ai là người diệt trừ khổ đau- câu trả lời
là sự tự thân vận động của mỗi một con người. Sự tự thân ấy không có cách nào
khác là trang bị những hiểu biết về quy luật luân hồi sanh tử, thuyết vô ngã,
vô thường mà giáo lý đạo Phật đã chỉ ra mỗi cho chúng ta. Khi mà con người đã
nhận thức rõ được bản chất của vạn vật được vận hành theo quy luật sinh tử luân
hồi, vô ngã, vô thường thì khi đó con người đối mặt với khổ đau, một cách an
nhiên tự tại. Đó chính là giá trị của đạo Phật mang lại cho chúng sanh.
Kết luận: Phật giáo chủ trương giúp con người giải
thoát khổ đau ngay chính trong cuộc sống hiện tại. Khi con người nhận thức được
căn nguyên của khổ là do vô minh, vạn vật đều vận hành theo quy luật vô thường,
vô ngã, nhân quả. Khi đó con người tự mình luyện tập, tự mình vượt lên chính những
khổ đau ấy bằng một tâm thế an nhiên tự tại, làm được như vậy con
người đã tu đạt đến trạng thái Niết bàn,
tức con người giải thoát được thân tâm khỏi khổ đau, đạt đến trạng thái tĩnh tại,
vô lo.
Khi đến với đạo Phật, con người không chỉ nhận
thức được bản chất của khổ đau mà biết cách giải thoát khỏi những khổ đau ấy
ngay tại cuộc sống hiện hữu. Đó chính là tính nhân văn mà Phật giáo đem lại cho
cuộc sống nhân loại./.
(Dựa theo
và trích: Tìm hiểu quan niệm khổ đau- duhkha của Phật giáo: TS. Hoàng Sĩ Nguyên
& THS. Lê Thu Huyền – NSGN- số 227/ 02/2015).
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét