MƯỜI NIỆM
VÃNG SANH?
HT. Thiền Tâm nói: “Có kẻ nghe nói chỉ cần tín
nguyện chân thiết, khi lâm chung mười niệm hay một niệm cũng quyết được vãng
sanh Tây phương, liền nghĩ rằng cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật
cũng được. Ý niệm này thật sai lầm. Phải biết điểm quan yếu của vãng sanh là
“Thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực lạc
quốc độ”. Nếu khi lâm chung lòng không điên đảo thì mười niệm hay một niệm đều
được vãng sanh. Nhưng ai dám chắc rằng khi lâm chung lòng không điên đảo? Nếu
lúc bình thường không tinh chuyên dụng công, đến khi mạng chung tứ đại phân ly,
sức nghiệp dồn dập, thân tâm bị khổ sở làm cho mê loạn, một niệm e còn không thể
thực hành, nói chi đến mười niệm. Cho
nên kinh A Di Đà dạy rất rõ: “ Này Xá Lợi Phất!
Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe danh hiệu Phật A Di Đà, trì danh hiệu
ấy một ngày, hai ngày, ba ngày…cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì khi thọ
mệnh hết, người ấy sẽ được Phật A Di Đà
cùng thánh chúng hoá hiện ngay trước mắt, khiến sau khi mất liền sinh sang nước
Cực lạc của A Di Đà”. Muốn mệnh chung mà có thể niệm mười niệm không gián đoạn
thì bình sanh còn khoẻ mạnh, phải trì danh hiệu Phật được ít nhất một ngày nhất
tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn là ngoài câu lục tự A Di Đà ra, không có niệm
nào khác. Nếu trì được như vậy thì khi lâm chung sẽ niệm được mười niệm không
gián đoạn, nhất định vãng sanh.
- Xét trên đây thì thấy: Nếu không có hạnh thì không có cảnh giới
tương ưng là thế giới Cực lạc. Vì thế hạnh là pháp không thể thiếu trong việc
vãng sanh.
- Nếu không có tín thì tâm không tha
thiết với việc hành trì, cũng không thể lập nguyện tha thiết về thế giới A Di
Đà. Khó mà định hướng đúng chỗ đến và niệm Phật cho được nhất tâm bất loạn. Vì
thế, tín không thể thiếu trong việc vãng sanh.
- Tín và hạnh dù đủ, nhưng không có
nguyện, là nguyện về thế giới A Di Đà, thì cũng không thể về được. Bởi vì nguyện
là thứ giúp định hướng mọi công đức đến chỗ cần đến. Như phát tâm Bồ đề là
phương cách giúp giúp ấn định mọi phước đức đang có cho con đường hoàn thành Phật
đạo, không phải phục vụ cho đời sống phước báo ở thế gian. Vì thế, ngoài tín và
hạnh còn cần có nguyện. Nguyện sinh về thế giới Phật A Di Đà. Tóm lại:
-Tín là
niềm tin trợ lực cho hạnh và nguyện trong suốt hành trình đến đích.
– Nguyện giúp xác định hay định hướng chỗ muốn đến.
– Hạnh là
phương tiện giúp ta đến chỗ cần đến.
Ví dụ: Tín là động lực - Hạnh là hành động -
Nguyện là đích đến. Như vậy, đủ ba yếu tố: Động lực, hành động và mục tiêu thì
sự việc sẽ hoàn thành.
Muốn vãng sanh không thể thiếu một trong ba yếu tố đó.
Cho nên,
với người bình thường, việc hộ niệm chỉ có giá trị giúp vãng sanh khi người sắp chết bình sanh có công phu niệm Phật khá thường.Tức
phải có tín và nguyện đối với thế giới Cực lạc A Di Đà. Nhờ vậy, câu niệm Phật
bên ngoài mới có tác dụng trợ lực. Còn người sắp chết, bình sanh không niệm Phật,
tai tuy có nghe danh hiệu Phật, mắt tuy có thấy hình tượng Phật, mà tâm không
niệm Phật, không dứt nghĩ được chuyện đời, trong tâm niệm đời vẫn giữ thế chủ đạo,
thì khi lâm chung, dù có được hộ niệm, chưa chắc đủ tỉnh táo mà nghe được câu
niệm Phật. Nghe được, chưa chắc đã niệm được để tâm không tán loạn. Dù tâm
không tán loạn, chưa chắc đã được vãng sanh. Vì hạnh dù có mà không có nguyện
thì cũng không thể vãng sanh. Bởi tâm còn tha thiết với đời thì không thể hồi
hướng các phước đức có được cho thế giới A Di Đà, sao có thể vãng sanh? Cho
nên, trợ duyên dù đủ mà không có chánh
nhân thì quả không thể thành. Bình sanh, tín-nguyện-hạnh phải đủ cả ba, khi lâm
chung việc hộ niệm mới có giá trị.
Thế nên xét về việc vãng sanh thì cần
kết hợp tướng bên ngoài với việc hành trì của hành giả khi còn sống. Nếu bình
thường hành giả không có công phu niệm Phật, không tạo công đức để hồi hướng,
cũng không có chí nguyện về thế giới Cực lạc, thì dù tướng bên ngoài dù có mềm ấm,
cũng không thể kết luận hành giả đã được vãng sanh. Dù vậy, việc hộ niệm luôn cần
thiết. Ít nhất gieo duyên với người sống cũng như người chết.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét