HỘ NIỆM
VÃNG SANH
Phương
pháp hộ niệm cho người sắp lâm chung đã khởi sự khoản từ năm 2000 trở lại đây rất
thịnh hành ở một số đạo tràng Tịnh độ. Hộ
niệm là một việc tốt, tốt cho cả người sống và lẫn người sắp chết, là việc nên
làm. Có điều, hộ niệm là một chuyện mà
vãng sanh được hay không là chuyện khác. Bởi vì vãng sanh còn lệ thuộc vào nhiều
yếu tố mà hộ niệm dù có tốt bao nhiêu cũng chỉ là trợ duyên, chưa phải là chính
nhân để việc vãng sanh xảy ra. Trong khi quả muốn thành tựu thì nhân và duyên
phải đầy đủ, quả mới thành tựu.
Vọng tưởng là thứ quyết định có
thân căn và cảnh giới của một chúng hữu tình.
Vọng tưởng, là muốn nói đến phần hiện
hành của các chủng tử trong tạng thức. Luận Đại thừa Khởi tín gọi nó là “Thức
tương tục”. Nó biểu hiện cho cái gọi là “Phần đoạn sanh tử” của chúng sanh, là
nhân đưa đến sáu đường Người, Trời, A tu la,
Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.
Luận Đại thừa Khởi tín nói: “Tất cả
pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có tất
cả tướng cảnh giới”. Ngài Hiền Thủ, Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm giải thích: “Tướng
sai biệt có, là do biến kế vọng tình của ông tạo ra, xưa nay không thật. Như y
nơi mắt bệnh mà vọng thấy có hoa đốm ở
trong hư không, nên nói đều “nương nơi vọng niệm mà có sai biệt”.
Lại có người hỏi: “Vì sao lại biết
nương nơi vọng niệm mà sinh?”. Tổ giải thích: “Vì khi các thánh nhân lìa vọng
niệm thì không có cảnh giới này. Đã không có cảnh giới này thì biết cảnh giới
này từ vọng sanh”.
Đó là chỗ thực chứng của người xưa, giúp ta biết
thân căn và cảnh giới mà một chúng hữu tình đang thọ nhận là do chính tâm tưởng
của chúng hữu tình ấy hiện ra. Như ngủ rồi mộng, như mắt bệnh rồi thấy có hoa đốm
trong hư không. Tức, không có tâm niệm thì không có thân căn và cảnh giới. Có
tâm niệm thì có thân căn và cảnh giới. Tuỳ tâm niệm của chúng sanh mà có cảnh
giới sáu đường. Lực của tâm bất thiện mạnh thì hiện thân căn và cảnh giới khổ.
Lực của tâm thiện mạnh thì hiện thân căn và cảnh giới vui. Như thân bệnh tâm lo
thì mộng thấy cảnh mệt nhọc lao khổ. Thân khoẻ mạnh tâm thư thái thì mộng thấy
cảnh an vui .v.v…
Tuỳ tâm niệm mà chúng sanh có thân căn
và hoàn cảnh hoặc khổ hoặc vui, nên Phật Tổ nói về ba nghiệp và dạy người giữ
giới, tu thiện để chúng ta có được thân căn an hoà và cảnh giới an vui. Dù an
vui, nhưng một khi còn tâm niệm thì vẫn còn sinh tử.
Nói niệm Phật nhất tâm bất loạn được
vãng sanh về thế giới Cực lạc Phật A Di Đà, mà không nói dứt sanh tử như chư vị
A La hán, là y cứ vào việc còn niệm hay không còn niệm này. La hán đã dứt được
mọi sanh diệt hiện hành. Sinh diệt hiện hành mất thì thân căn cảnh giới mất,
không còn sinh không còn tử, nên nói dứt sinh tử. Niệm Phật, dù nhất tâm bất loạn
vẫn còn một niệm danh hiệu Phật hoặc hình tướng Phật v.v.. nên nói vãng sanh.
Nói vãng sanh hay dứt sanh tử, là y cứ
vào việc niệm còn hay mất mà thôi.
Thiền tông, đích đến là ngộ nhập trở lại
Phật tri kiến, là trở về sống với tâm chân thật của mình. Với pháp môn niệm Phật
thì đây là ngộ nhập cảnh giới Tự tánh A Di Đà. Muốn vậy, tâm phải lìa nhị biên
phân biệt. Tức tâm không ở trạng thái sinh diệt của phàm phu, cũng không trụ
không như tâm Nhị thừa. Nhận được tâm chân thật thì mọi cảnh giới không phải
không mà như mộng huyễn. Đây là chỗ tâm chứng của hàng Bồ tát Bát địa. Sao gọi
là mộng huyễn? Trong kinh Lăng già, Phật nói: “Các pháp chóng diệt như điện nên
nói huyễn”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như có người trong mơ, thấy mình té xuống
sông lớn. Vì muốn thoát nạn nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại
phương tiện và dũng mãnh nên được thức tỉnh. Khi đã thức tỉnh, những việc trong
mơ đều dứt cả”.
(Đoạn trên là sự giải thích trình bày tâm theo
quan niệm của hành giả Thiền tông, nên đối với hàng sơ cơ, căn trí yếu kém thì
không thể có hy vọng vãng sanh. Nếu tin tưởng vào “Bản nguyện của Phật Di Đà”
thì hành giả có đủ lòng tin nơi Phật rồi, thì nương nhờ năng lực bản nguyện của
Phật mà chuyển vọng niệm thành chánh niệm lúc lâm chung sẽ có phần vãng sanh.
Vì thế nếu căn cứ vào kiến giải của Thiền mà hành trì niệm Phật cầu vãng sanh rất
khó. Do vậy, người tu Tịnh độ chuyên tâm
niệm Phật đầy đủ ba tư lương: Tín-Hạnh-Nguyện thì an tâm hơn, hy vọng sẽ dự phần vãng sanh).
Cảnh giới
A Di Đà là chân hay vọng.
Bát nhã tâm
kinh nói: “Tướng không của các pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch,
không mắt, tai, mũi….” Thứ gì là chân thì không tướng, cũng không có chỗ nơi. Nếu
có tướng thì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.
Với người
đã sống với Tự tánh Di Đà thì không nói chân cũng không nói vọng. Nói chân nói
vọng là do đới với tâm chúng sanh mà nói. Đứng ở góc độc tâm chúng sanh mà nói thì…
- Những
ai đã sống được với Tự tánh Di Đà của
mình thì thế giới Di Đà thật báo. Nói thật vì đã nhận ra thực chất của thế giới
ấy. Đó là phương tiện độ sanh của Phật A Di Đà dùng tiếp độ kẻ hậu sinh.
Những ai
vãng sanh về thế giới Di Đà mà chưa sống được với Tự tánh Di Đà thì thế giới Di
Đà cũng là thật có với họ, như mình thấy cảnh giới như huyễn hiện nay là thật.
Nhưng thật ra nó chỉ là hoá thành như hoá thành của hàng La hán, chưa thể gọi
đó là chân. Chính vì cái thấy thật đó mà
kinh Pháp hội Vô lượng thọ Như Lai nói:
“Đầy đủ các diệu nguyện
Thành tựu cõi như thế
Biết pháp như điện ảnh
Trọn vẹn đạo Bồ tát
Đủ các cội công đức
Thọ ký sẽ thành Phật
Thông đạt tánh các pháp
Tất cả không vô ngã”
Phải đầy
đủ diệu nguyện mới có thể thành tựu được thế giới Di Đà, nhưng chỉ khi thể nhập
được Tự tánh Di Đà, tức biết tất cả pháp chỉ như bóng ảnh điện chớp, tánh của
chúng là không, là vô ngã, thì biết vãng sanh thế giới Di Đà chỉ mới là phương
tiện của chư Phật dùng tiếp độ kẻ hậu sinh. Biết vậy rồi mới trọn vẹn đạo Bồ
tát, không phải vãng sanh về đó là đủ.
Phân tích
thành nhiều cái nhìn như thế là vì pháp thế gian là pháp Duyên khởi, mọi thứ đều
lệ thuộc vào duyên. Duyên thay đổi thì pháp thay đổi. Duyên ở đây chính là tâm
thức của chúng hữu tình. Mọi cảnh giới không ra ngoài tâm thức ấy. Tuỳ nghiệp
thức của từng loại, từng người mà cảnh giới dù là một, có khi thành khác nhau.
Nói theo
Trung luận thì cảnh giới Di Đà “không có cũng không không”, tuỳ duyên mà thành
có, thành không.
“Không có
không không” nói về thực chất của cảnh giới ấy. Chỉ có Tự tánh Di Đà sẵn đủ
trong mỗi chúng sanh, là tâm chân như trong luận Đại thừa khởi tín, là Phật
tánh trong kinh Đại bát Niết bàn. Bát nhã gọi nó là tướng Không, chính là tánh
không. Tánh không của tất cả pháp thì không rơi vào nhị biên phân biệt, không
thể nói có hay không. Song không phải không ngơ, nên tuỳ duyên mà hiện tướng. Ứng
với hành giả niệm Phật mà tin-nguyện-hạnh đầy đủ thì cảnh Di Đà là có. Nếu
không niệm Phật cầu vãng sanh hay niệm Phật cầu vãng sanh mà tín-nguyện-hạnh
thiếu thì cảnh giới Di Đà là không. Song cảnh giới Di Đà dù có hay không thì Tự
tánh Di Đà ai cũng sẵn đủ, chỉ do vô minh che đậy mà dạt theo sinh tử khổ đau.
Cùng một
cảnh mà phàm phu và thánh nhân thấy khác nhau. Tự tánh Di Dà phàm phu và thánh
đồng sở hữu như nhau. Nhưng phàm phu và thánh nhân chỉ sở hữu về tánh không,
không đồng sở hữu về cảnh giới do tâm niệm mình biến ra. Cảnh giới Ngạ quỷ thì
chỉ những ai có tâm niệm Ngạ quỷ mới sở hữu. Cảnh giới Cực lạc thì chỉ ai cầu
vãng sanh và tâm được bất loạn mới sở hữu. Có niệm Phật mà tín-nguyện-hạnh
không đủ thì cảnh giới Di Đà cũng không hiện, nói là không tín-nguyện-hạnh. Vì
thế nên biết, Tự tánh Di Đà thì chân mà cảnh giới Di Đà thì như bóng ảnh, do
tín-nguyện-hạnh mà có, không tín-nguyện-hạnh thì không.
Muốn vãng sanh phải đầy đủ tín-nguyện-hạnh.
Cảnh giới Di Đà, thực chất chỉ là bóng
ảnh đối với người chưa sống được với Tự tánh Di Đà, nhưng muốn thành tựu được cảnh giới ấy, Đức Di Đà đã phải “Đủ đầy
các diệu nguyện”, còn chúng sanh thì tín-nguyện-hạnh phải đủ mới về được. Vì cảnh
giới bên ngoài là quả của những tâm niệm bên trong. Cảnh luôn tương ưng với
tâm. Niệm tham sân có lực thì hiện các đường dữ. Niệm lương thiện có lực thì hiện
các đường lành. Muốn sanh cõi Phật thì tâm phải tương ưng với cõi Phật. Như muốn
thể nhập Tự tánh Di Đà thì tâm phải lìa nhị biên phân biệt (trung đạo), vì cảnh
ấy không thuộc nhị biên phân biệt. Muốn vãng sanh thế giới của Phật A Di Đà thì
tâm phải tương ưng với những gì mà Phật A Di Đà đã nói, thông qua 48 lời nguyện.
Lời
nguyện 19: Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề, tu các
công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi, lúc họ mạng chung, tôi và
đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt. Nếu không như vậy thì tôi không lấy ngôi
Chánh giác.
Phát tâm Bồ đề, là trên cầu Phật đạo, dưới
hoá độ chúng sanh. Cầu Phật đạo chính là cầu Niết bàn Phật. Quả muốn là Niết
bàn Phật thì nhân phải thấu đạt được Phật tánh (Tự tánh Di Đà). Kinh Đại Niết
bàn nói: “Phật tánh là nhân. Niết bàn là quả”. Cho nên, tu các công đức nói đây
chính là tu vô lậu học Giới-Định-Tuệ và làm các việc lợi ích cho tha nhân. Đó
là phương tiện giúp hành giả trở về với Tự tánh Di Đà của mình.
Phát tâm Bồ đề là tín chân thật. Tu
các công đức (tự lợi và lợi tha song hành), là hạnh đầy đủ. Chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi, là nguyện
tha thiết. Tín-nguyện-hạnh đầy đủ nên quyết định sẽ sanh về thế giới Phật A Di
Đà.
Điềm báo được sinh về thế giới ấy là
“Tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt”. Việc này chỉ có người được vãng
sanh mới thấy được. Tức nó là cảnh giới của riêng người được vãng sanh, và chỉ
những ai đồng nghiệp như người ấy mới thấy được, không phải là cảnh giới mà tất
cả mọi người sống đây đều thấy. Nếu không hiểu được mặt duyên khởi này của
pháp, sẽ cho rằng kinh nói không chính xác, cũng không có ai vãng sanh. Vì chưa
từng thấy việc đó xảy ra. Làm thế nào thấy được, khi mọi cái thấy đều là sở kiến
của một cái năng kiến (là nghiệp thức chúng sanh) mà phần năng kiến mỗi người
không đồng.
Dù cảnh do nhân duyên biến là đồng thì
qua sở tri của từng người, cảnh thuộc phân biệt biến cũng chưa chắc đồng, huống
là phần nhân duyên biến đã không đồng.
Cho nên, việc hiện thân tiếp dẫn kẻ vãng sanh không phải không có, chỉ là đã đủ
nhân duyên để thấy chưa? Chỉ những ai có tâm thức tương ưng với cảnh giới ấy mới
thấy được. Như người thấy nước là nước, nhưng ngạ quỷ thấy đó là lửa hoặc là
máu. Không phải ngạ quỷ thì không thể thấy lửa hoặc máu. Người không có nghiệp
vãng sanh thì không thể thấy được Phật A Di Đà và đại chúng vây quanh. Nếu
không thấy mà không cho là không có thì cũng như người mù không thấy mặt trời
mà cho là không có mặt trời.
Lời
nguyện 20: Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu tôi,
chuyên nhớ nước tôi, trồng các cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi, nếu không được toại
nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
Nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ nước
tôi, là tín sâu xa.
Chuyên nhớ nước tôi và trồng các cội
công đức, là hạnh sâu xa.
Chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước
tôi, là nguyện thiết tha.
Hạng tín-hạnh-nguyện này, so với trên
không bằng, nhưng cũng đầy đủ tín-nguyện-hạnh, đương nhiên cũng vãng sanh. Tuỳ
niềm tin đối với Phật trí mà hoặc là vãng sanh theo thai sanh hoặc là vãng sanh
theo hoá sanh.
Lời
nguyện thứ 18: Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương hết lòng tin thích
muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy
ngôi Chánh giác.
Hết lòng tin thích, là tin vững mạnh. Tin thích muốn về nước tôi, là nguyện thiết
tha. Mười niệm là nói đến hạnh niệm Phật. Chỉ cần mười niệm không gián đoạn thì liền
sinh cõi Cực lạc. Đây có hai trường hợp:
1/
Nhân duyên đầy đủ (trực tiếp): Muốn nói đến mười niệm vào lúc cận tử nghiệp. Bởi
cận tử nghiệp quyết định cảnh giới đầu thai đối với một người sắp lâm chung.
2/
Nhân có mà duyên chưa đủ (gián tiếp): Muốn nói ai từng niệm được mười niệm
trong đời với chí nguyện về thế giới A Di Đà, cũng sẽ được vãng sanh khi đủ
duyên. Quan trọng nằm ở hai chữ “đủ duyên”.
Bình thường niệm Phật, nếu lực niệm
không mạnh thì dễ ngủ quên. Ngủ rồi, giật mình tỉnh giấc mới thấy mình vẫn niệm
mà không phải niệm danh hiệu Phật. Cho nên, vào đêm ba mươi của đời người, là
lúc tứ đại phân ly, tâm mịt mờ khó biết, dù chỉ ba niệm cũng khó mà tỉnh giác để
niệm, nói chi là mười niệm. Vì thế bình thường cần phải niệm Phật sao cho lực của
niệm Phật phải là lực chủ đạo trong tất cả các loại nghiệp lực mình đang có. Chỉ khi ngủ quên mà tâm vẫn niệm được danh hiệu
Phật không dứt thì mới mong cận tử nghiệp, mười niệm được liên tục không gián
đoạn.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét