Thứ Ba, 22 tháng 7, 2025

HỘ NIỆM VÃNG SANH

 

HỘ NIỆM VÃNG SANH

         Phương pháp hộ niệm cho người sắp lâm chung đã khởi sự khoản từ năm 2000 trở lại đây rất thịnh hành ở một số đạo tràng Tịnh độ.  Hộ niệm là một việc tốt, tốt cho cả người sống và lẫn người sắp chết, là việc nên làm.  Có điều, hộ niệm là một chuyện mà vãng sanh được hay không là chuyện khác. Bởi vì vãng sanh còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố mà hộ niệm dù có tốt bao nhiêu cũng chỉ là trợ duyên, chưa phải là chính nhân để việc vãng sanh xảy ra. Trong khi quả muốn thành tựu thì nhân và duyên phải đầy đủ, quả mới thành tựu.

          Vọng tưởng là thứ quyết định có thân căn và cảnh giới của một chúng hữu tình.

          Vọng tưởng, là muốn nói đến phần hiện hành của các chủng tử trong tạng thức. Luận Đại thừa Khởi tín gọi nó là “Thức tương tục”. Nó biểu hiện cho cái gọi là “Phần đoạn sanh tử” của chúng sanh, là nhân đưa đến sáu đường Người, Trời, A tu la,  Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.

          Luận Đại thừa Khởi tín nói: “Tất cả pháp chỉ nương nơi vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh giới”. Ngài Hiền Thủ, Tổ thứ ba tông Hoa Nghiêm giải thích: “Tướng sai biệt có, là do biến kế vọng tình của ông tạo ra, xưa nay không thật. Như y nơi mắt bệnh mà vọng thấy  có hoa đốm ở trong hư không, nên nói đều “nương nơi vọng niệm mà có sai biệt”.

          Lại có người hỏi: “Vì sao lại biết nương nơi vọng niệm mà sinh?”. Tổ giải thích: “Vì khi các thánh nhân lìa vọng niệm thì không có cảnh giới này. Đã không có cảnh giới này thì biết cảnh giới này từ vọng sanh”.

  Đó là chỗ thực chứng của người xưa, giúp ta biết thân căn và cảnh giới mà một chúng hữu tình đang thọ nhận là do chính tâm tưởng của chúng hữu tình ấy hiện ra. Như ngủ rồi mộng, như mắt bệnh rồi thấy có hoa đốm trong hư không. Tức, không có tâm niệm thì không có thân căn và cảnh giới. Có tâm niệm thì có thân căn và cảnh giới. Tuỳ tâm niệm của chúng sanh mà có cảnh giới sáu đường. Lực của tâm bất thiện mạnh thì hiện thân căn và cảnh giới khổ. Lực của tâm thiện mạnh thì hiện thân căn và cảnh giới vui. Như thân bệnh tâm lo thì mộng thấy cảnh mệt nhọc lao khổ. Thân khoẻ mạnh tâm thư thái thì mộng thấy cảnh an vui .v.v…

          Tuỳ tâm niệm mà chúng sanh có thân căn và hoàn cảnh hoặc khổ hoặc vui, nên Phật Tổ nói về ba nghiệp và dạy người giữ giới, tu thiện để chúng ta có được thân căn an hoà và cảnh giới an vui. Dù an vui, nhưng một khi còn tâm niệm thì vẫn còn sinh tử.

          Nói niệm Phật nhất tâm bất loạn được vãng sanh về thế giới Cực lạc Phật A Di Đà, mà không nói dứt sanh tử như chư vị A La hán, là y cứ vào việc còn niệm hay không còn niệm này. La hán đã dứt được mọi sanh diệt hiện hành. Sinh diệt hiện hành mất thì thân căn cảnh giới mất, không còn sinh không còn tử, nên nói dứt sinh tử. Niệm Phật, dù nhất tâm bất loạn vẫn còn một niệm danh hiệu Phật hoặc hình tướng Phật v.v.. nên nói vãng sanh. Nói vãng sanh hay dứt  sanh tử, là y cứ vào việc niệm còn hay mất mà thôi.

          Thiền tông, đích đến là ngộ nhập trở lại Phật tri kiến, là trở về sống với tâm chân thật của mình. Với pháp môn niệm Phật thì đây là ngộ nhập cảnh giới Tự tánh A Di Đà. Muốn vậy, tâm phải lìa nhị biên phân biệt. Tức tâm không ở trạng thái sinh diệt của phàm phu, cũng không trụ không như tâm Nhị thừa. Nhận được tâm chân thật thì mọi cảnh giới không phải không mà như mộng huyễn. Đây là chỗ tâm chứng của hàng Bồ tát Bát địa. Sao gọi là mộng huyễn? Trong kinh Lăng già, Phật nói: “Các pháp chóng diệt như điện nên nói huyễn”. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Như có người trong mơ, thấy mình té xuống sông lớn. Vì muốn thoát nạn nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại phương tiện và dũng mãnh nên được thức tỉnh. Khi đã thức tỉnh, những việc trong mơ đều dứt cả”.

 (Đoạn trên là sự giải thích trình bày tâm theo quan niệm của hành giả Thiền tông, nên đối với hàng sơ cơ, căn trí yếu kém thì không thể có hy vọng vãng sanh. Nếu tin tưởng vào “Bản nguyện của Phật Di Đà” thì hành giả có đủ lòng tin nơi Phật rồi, thì nương nhờ năng lực bản nguyện của Phật mà chuyển vọng niệm thành chánh niệm lúc lâm chung sẽ có phần vãng sanh. Vì thế nếu căn cứ vào kiến giải của Thiền mà hành trì niệm Phật cầu vãng sanh rất khó. Do vậy, người tu Tịnh độ  chuyên tâm niệm Phật đầy đủ ba tư lương: Tín-Hạnh-Nguyện thì an tâm hơn, hy vọng  sẽ dự phần vãng sanh).

Cảnh giới A Di Đà là chân hay vọng.

Bát nhã tâm kinh nói: “Tướng không của các pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không mắt, tai, mũi….” Thứ gì là chân thì không tướng, cũng không có chỗ nơi. Nếu có tướng thì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.

Với người đã sống với Tự tánh Di Đà thì không nói chân cũng không nói vọng. Nói chân nói vọng là do đới với tâm chúng sanh mà nói. Đứng ở góc độc  tâm chúng sanh mà nói thì…

- Những ai đã sống được với  Tự tánh Di Đà của mình thì thế giới Di Đà thật báo. Nói thật vì đã nhận ra thực chất của thế giới ấy. Đó là phương tiện độ sanh của Phật A Di Đà dùng tiếp độ kẻ hậu sinh.

Những ai vãng sanh về thế giới Di Đà mà chưa sống được với Tự tánh Di Đà thì thế giới Di Đà cũng là thật có với họ, như mình thấy cảnh giới như huyễn hiện nay là thật. Nhưng thật ra nó chỉ là hoá thành như hoá thành của hàng La hán, chưa thể gọi đó là chân. Chính vì cái thấy thật  đó mà kinh Pháp hội Vô lượng thọ Như Lai nói:

“Đầy đủ các diệu nguyện

Thành tựu cõi như thế

Biết pháp như điện ảnh

Trọn vẹn đạo Bồ tát

Đủ các cội công đức

Thọ ký sẽ thành Phật

Thông đạt tánh các pháp

Tất cả không vô ngã”

Phải đầy đủ diệu nguyện mới có thể thành tựu được thế giới Di Đà, nhưng chỉ khi thể nhập được Tự tánh Di Đà, tức biết tất cả pháp chỉ như bóng ảnh điện chớp, tánh của chúng là không, là vô ngã, thì biết vãng sanh thế giới Di Đà chỉ mới là phương tiện của chư Phật dùng tiếp độ kẻ hậu sinh. Biết vậy rồi mới trọn vẹn đạo Bồ tát, không phải vãng sanh về đó là đủ.

Phân tích thành nhiều cái nhìn như thế là vì pháp thế gian là pháp Duyên khởi, mọi thứ đều lệ thuộc vào duyên. Duyên thay đổi thì pháp thay đổi. Duyên ở đây chính là tâm thức của chúng hữu tình. Mọi cảnh giới không ra ngoài tâm thức ấy. Tuỳ nghiệp thức của từng loại, từng người mà cảnh giới dù là một, có khi thành khác nhau.

Nói theo Trung luận thì cảnh giới Di Đà “không có cũng không không”, tuỳ duyên mà thành có, thành không.

“Không có không không” nói về thực chất của cảnh giới ấy. Chỉ có Tự tánh Di Đà sẵn đủ trong mỗi chúng sanh, là tâm chân như trong luận Đại thừa khởi tín, là Phật tánh trong kinh Đại bát Niết bàn. Bát nhã gọi nó là tướng Không, chính là tánh không. Tánh không của tất cả pháp thì không rơi vào nhị biên phân biệt, không thể nói có hay không. Song không phải không ngơ, nên tuỳ duyên mà hiện tướng. Ứng với hành giả niệm Phật mà tin-nguyện-hạnh đầy đủ thì cảnh Di Đà là có. Nếu không niệm Phật cầu vãng sanh hay niệm Phật cầu vãng sanh mà tín-nguyện-hạnh thiếu thì cảnh giới Di Đà là không. Song cảnh giới Di Đà dù có hay không thì Tự tánh Di Đà ai cũng sẵn đủ, chỉ do vô minh che đậy mà dạt theo sinh tử khổ đau.

Cùng một cảnh mà phàm phu và thánh nhân thấy khác nhau. Tự tánh Di Dà phàm phu và thánh đồng sở hữu như nhau. Nhưng phàm phu và thánh nhân chỉ sở hữu về tánh không, không đồng sở hữu về cảnh giới do tâm niệm mình biến ra. Cảnh giới Ngạ quỷ thì chỉ những ai có tâm niệm Ngạ quỷ mới sở hữu. Cảnh giới Cực lạc thì chỉ ai cầu vãng sanh và tâm được bất loạn mới sở hữu. Có niệm Phật mà tín-nguyện-hạnh không đủ thì cảnh giới Di Đà cũng không hiện, nói là không tín-nguyện-hạnh. Vì thế nên biết, Tự tánh Di Đà thì chân mà cảnh giới Di Đà thì như bóng ảnh, do tín-nguyện-hạnh mà có, không tín-nguyện-hạnh thì không.

          Muốn vãng sanh phải đầy đủ tín-nguyện-hạnh.

          Cảnh giới Di Đà, thực chất chỉ là bóng ảnh đối với người chưa sống được với Tự tánh Di Đà, nhưng muốn thành tựu  được cảnh giới ấy, Đức Di Đà đã phải “Đủ đầy các diệu nguyện”, còn chúng sanh thì tín-nguyện-hạnh phải đủ mới về được. Vì cảnh giới bên ngoài là quả của những tâm niệm bên trong. Cảnh luôn tương ưng với tâm. Niệm tham sân có lực thì hiện các đường dữ. Niệm lương thiện có lực thì hiện các đường lành. Muốn sanh cõi Phật thì tâm phải tương ưng với cõi Phật. Như muốn thể nhập Tự tánh Di Đà thì tâm phải lìa nhị biên phân biệt (trung đạo), vì cảnh ấy không thuộc nhị biên phân biệt. Muốn vãng sanh thế giới của Phật A Di Đà thì tâm phải tương ưng với những gì mà Phật A Di Đà đã nói, thông qua 48 lời nguyện.

          Lời nguyện 19: Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi, lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt. Nếu không như vậy thì tôi không lấy ngôi Chánh giác.

            Phát tâm Bồ đề, là trên cầu Phật đạo, dưới hoá độ chúng sanh. Cầu Phật đạo chính là cầu Niết bàn Phật. Quả muốn là Niết bàn Phật thì nhân phải thấu đạt được Phật tánh (Tự tánh Di Đà). Kinh Đại Niết bàn nói: “Phật tánh là nhân. Niết bàn là quả”. Cho nên, tu các công đức nói đây chính là tu vô lậu học Giới-Định-Tuệ và làm các việc lợi ích cho tha nhân. Đó là phương tiện giúp hành giả trở về với Tự tánh Di Đà của mình.

          Phát tâm Bồ đề là tín chân thật. Tu các công đức (tự lợi và lợi tha song hành), là hạnh đầy đủ. Chí tâm  phát nguyện muốn sinh về nước tôi, là nguyện tha thiết. Tín-nguyện-hạnh đầy đủ nên quyết định sẽ sanh về thế giới Phật A Di Đà.

          Điềm báo được sinh về thế giới ấy là “Tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt”. Việc này chỉ có người được vãng sanh mới thấy được. Tức nó là cảnh giới của riêng người được vãng sanh, và chỉ những ai đồng nghiệp như người ấy mới thấy được, không phải là cảnh giới mà tất cả mọi người sống đây đều thấy. Nếu không hiểu được mặt duyên khởi này của pháp, sẽ cho rằng kinh nói không chính xác, cũng không có ai vãng sanh. Vì chưa từng thấy việc đó xảy ra. Làm thế nào thấy được, khi mọi cái thấy đều là sở kiến của một cái năng kiến (là nghiệp thức chúng sanh) mà phần năng kiến mỗi người không đồng.

          Dù cảnh do nhân duyên biến là đồng thì qua sở tri của từng người, cảnh thuộc phân biệt biến cũng chưa chắc đồng, huống là  phần nhân duyên biến đã không đồng. Cho nên, việc hiện thân tiếp dẫn kẻ vãng sanh không phải không có, chỉ là đã đủ nhân duyên để thấy chưa? Chỉ những ai có tâm thức tương ưng với cảnh giới ấy mới thấy được. Như người thấy nước là nước, nhưng ngạ quỷ thấy đó là lửa hoặc là máu. Không phải ngạ quỷ thì không thể thấy lửa hoặc máu. Người không có nghiệp vãng sanh thì không thể thấy được Phật A Di Đà và đại chúng vây quanh. Nếu không thấy mà không cho là không có thì cũng như người mù không thấy mặt trời mà cho là không có mặt trời.

          Lời nguyện 20: Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng các cội công đức, chí tâm hồi hướng  muốn sanh về nước tôi, nếu không được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

          Nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ nước tôi, là tín sâu xa.

          Chuyên nhớ nước tôi và trồng các cội công đức, là hạnh sâu xa.

          Chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi, là nguyện thiết tha.

          Hạng tín-hạnh-nguyện này, so với trên không bằng, nhưng cũng đầy đủ tín-nguyện-hạnh, đương nhiên cũng vãng sanh. Tuỳ niềm tin đối với Phật trí mà hoặc là vãng sanh theo thai sanh hoặc là vãng sanh theo hoá sanh.

          Lời nguyện thứ 18: Khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương hết lòng tin thích muốn sanh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.

          Hết lòng tin thích, là tin vững mạnh.  Tin thích muốn về nước tôi, là nguyện thiết tha.  Mười niệm là nói đến hạnh niệm Phật.  Chỉ cần mười niệm không gián đoạn thì liền sinh cõi Cực lạc. Đây có hai trường hợp:

          1/ Nhân duyên đầy đủ (trực tiếp): Muốn nói đến mười niệm vào lúc cận tử nghiệp. Bởi cận tử nghiệp quyết định cảnh giới đầu thai đối với một người sắp lâm chung.

         2/ Nhân có mà duyên chưa đủ (gián tiếp): Muốn nói ai từng niệm được mười niệm trong đời với chí nguyện về thế giới A Di Đà, cũng sẽ được vãng sanh khi đủ duyên. Quan trọng nằm ở hai chữ “đủ duyên”.

          Bình thường niệm Phật, nếu lực niệm không mạnh thì dễ ngủ quên. Ngủ rồi, giật mình tỉnh giấc mới thấy mình vẫn niệm mà không phải niệm danh hiệu Phật. Cho nên, vào đêm ba mươi của đời người, là lúc tứ đại phân ly, tâm mịt mờ khó biết, dù chỉ ba niệm cũng khó mà tỉnh giác để niệm, nói chi là mười niệm. Vì thế bình thường cần phải niệm Phật sao cho lực của niệm Phật phải là lực chủ đạo trong tất cả các loại nghiệp lực mình đang có.  Chỉ khi ngủ quên mà tâm vẫn niệm được danh hiệu Phật không dứt thì mới mong cận tử nghiệp, mười niệm được liên tục không gián đoạn.

{]{

HỘ NIỆM VÃNG SANH Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét