VỌNG TƯỞNG LÀ SỰ TRỞ NGẠI TRONG VIỆC
TU TẬP
Trên con đường tu tập, hai việc hôn trầm
và vọng tưởng là hai chướng ngại lớn của người xuất gia cũng như người tại gia
nói chung và người tu thiền nói riêng. Nếu
như hôn trầm làm mê hoặc chơn tánh, trí tuệ bị lặn chìm thì vọng tưởng cũng làm
cho hành giả điên đảo không kém. Vọng tưởng ví như mặt nước hồ thu bị gió khuấy
động, tạo ra những đợt sóng lao xao, rì rào khiến cho một người với thị lực
bình thường nhìn vào không thể nhận ra và thấy
đúng được hình ảnh và khuôn mặt của chính mình.
Thế nên việc điều chỉnh vọng tưởng là một quá
trình tu tập rất công phu và cần thiết cho mỗi hành giả. Nhưng muốn điều phục vọng
tưởng, điều đầu tiên chúng ta cần phải nhận diện được nó cho thật rõ ràng, từ
đâu sanh khởi, vì sao lại sanh khởi và làm cách nào để hoá giải? Khi thấy rõ tiến trình làm sinh khởi và từ đó
rút ra được phương pháp điều phục vọng tưởng của chính mình. Nếu thực hành đúng
theo lời Phật dạy thì sẽ thoát khỏi vọng tưởng và tuỳ miên; lúc đó chúng sẽ thực
sự nếm được “vị ngọt” của Chánh pháp ngay trong cuộc sống này.
Đức Phật dạy rằng, sự nguy hiểm của vọng
tưởng, nó sẽ đưa đẩy con người lần quẩn trong vòng hý luận, ngày càng đưa con
người xa rời thực tế mà không giải quyết được vấn đề gì cả. Như câu chuyện chú
Sa di Tăng Hộ trong kinh A-hàm như sau:
Tăng Hộ xuất gia với một vị thầy
vừa là bổn sư cũng vừa là cậu của chú. Một
hôm chú được thí chủ cúng cho một xấp vải để may y, chú đem xấp vải may y trình
lên thầy bổn sư và xin cúng dường cho thầy.
Thầy chú từ chối không nhận vải y của Tăng Hộ cúng dường. Từ đó trong lòng chú
không vui, chú đứng hầu sau lưng thầy mà
lòng hờn giận, thầm nghĩ: “ Thầy mình ở ngoài đời là cậu ruột của Ta. Ta đối với
Thầy vừa có tình ruột thịt vừa có tình thầy trò, thế mà thầy vẫn lạnh nhạt với
ta, không thèm nhận đồ cúng dường của ta. Ngài đã không thương ta, thì ta còn
đi tu làm gì nữa cho thêm phiền não, chi bằng ta hoàn tục quách. Rồi chú suy
nghĩ đến việc đem bán xấp vải đẹp này rồi mua một con dê cái. Sau con dê cái nó
sẽ đẻ một bầy dê con, và chú sẽ đem bán kiếm một số tiền làm vốn. Cứ như thế
chú sẽ có nhiều tiền và sẽ cưới một cô vợ. Cô ấy sẽ sinh ra một thằng con trai.
Chú sẽ lấy tên của cậu chú đặt tên cho nó. Rồi chú cùng vợ để nó ngồi trên xe, đẩy đến tinh xá thăm cậu.
Nhưng đi giữa đường cô vợ giành ẵm con, vô tình vất phải cục đá rớt đứa con xuống
đường, chú giận quá mắng cho vợ một trận “Mày không chịu để con cho tao bồng,
làm như vậy để rớt con như thế hả. Thật là hư thân…” Vừa nói chú vừa lấy cây gậy đánh nàng một
cái. Và như thế chú gõ cái quạt vào đầu ông sư phụ một cái bốp. Sư phụ biết
dòng tư tưởng của chú, sư phụ lên tiếng nói:
“Này con đánh không trúng mụ đàn bà kia đâu, mà trúng ngay đầu ta đó.
Lúc này chú Sa di Tăng Hộ mới tỉnh ngộ”.
Qua câu chuyện này chúng ta thấy, tuy
là vọng tưởng nhưng nó có sức lôi cuốn ghê gớm. Cũng may chỉ mới là vọng tưởng
thôi, chứ chưa phải là sự thật! Vọng tưởng làm mê mờ bản tâm của chúng ta, từ một
niệm hờn giận của chú Sa di Tăng Hộ mà sinh khởi biết bao nhiêu vọng tưởng
khác, diễn biến như một cuộn phim. Đây là
khuynh hướng bành trướng nguy hiểm của tâm, nó kết lại với nhau thành một
mạng lưới khái niệm rối ren, liên hệ ba khoảng thời gian qua những tiến trình
nhận ra, hồi tưởng và suy đoán. Mê lộ rối ren của vọng tưởng hý luận đã ám ảnh,
áp đảo chú Sa di. Chú Sa di thực sự trở
về thực tại chỉ khi nào bản thân chú thoát được vọng tưởng này.
Khổ đau hay hạnh phúc cũng đều do tâm
tưởng của chúng ta tạo ra. Nếu chúng ta biết “như lý tác ý” thì cuộc đời sẽ an lạc, thảnh thơi, ngược lại
chúng ta sẽ bị vọng tưởng hành hạ làm đau khổ triền miên. Như vậy, hạnh phúc hay khổ đau đều do chính
chúng ta tạo ra, chỉ cần thay đổi cách nhìn, hướng về điều thiện thì cuộc sống
sẽ tươi đẹp, an ổn, tâm hướng về điều ác
thân và tâm sẽ đau khổ bất an. Khi chúng ta thấy niệm ác khởi lên trong tâm, biết
nó là nguy hại, hạ liệt, uế nhiễm, đau khổ thì lập tức xả bỏ, đoạn tận, viễn
ly. Khi đã xả ly, đoạn tận niệm ác thì sự thanh tịnh của tâm và các thiện pháp
sẽ hiện tiền trước mắt, tâm chúng ta sẽ được hoàn toàn an lạc và thanh thản, đời
sống chúng ta được giải thoát hoàn toàn không còn khổ đau nữa.
Ta thấy, tiến trình nhận thức qua các giác quan bắt đầu
từ xúc rồi sinh ra các cảm thọ và tiếp theo sau là sự bành trướng các suy nghĩ,
vọng tưởng. Từ các vọng tưởng, hý luận khởi lên các sự tranh chấp đấu tranh.
Đây là đầu mối của luân hồi sanh tử. Như vậy, một khi con người làm chủ được
các dục, không bị các phiền não chi phối, không có tham ái đối với hữu và phi hữu,
thì thoát khỏi sự chi phối của tưởng.
Tuy nhiên, vọng tưởng trong tâm rất tế
nhị khó thấy, khiến tâm quay cuồng theo dục vọng khó điều phục như kinh Pháp cú
đã nói:
“Khó
nắm giữ, khinh động
Theo
các dục quay cuồng
Lành
thay điều phục tâm
Tâm
đều an lạc đến”
Khi nói điều phục tâm, chính là nói đến
việc điều phục các vọng tưởng, không để cho chúng ngự trị nơi tâm. Để thoát được sự chi phối của
vọng tưởng, chúng ta cần có phương pháp điều phục vọng tưởng. Phật dạy: “Khi
nào không có sự thi thiết của xúc, thời sự thi thiết của thọ không được hiển lộ.
Khi nào không có sự thi thiết của thọ,
tưởng, suy tầm, thời sự thi thiết của sự ám ảnh một số hý luận vọng tưởng được hiển lộ…” Nghĩa là, Tỳ kheo sau khi mắt
thấy sắc, tâm không hướng đến các sắc khả ái, tâm không ghét bỏ các sắc không
khả ái, sống với niệm an trú, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết rõ tâm giải
thoát và tuệ giải thoát. Do vậy, các bất thiện
pháp đã khởi lên được đoạn diệt không có dư tàn… Như vậy toàn bộ các pháp hý luận
không xuất hiện, không thể làm sinh khởi đấu tranh, cuối cùng tất cả bất thiện
pháp, không còn dư tàn. Nếu “do bất cứ
nhân duyên gì, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh một người” thì chớ có hoan hỷ,
chớ có đón mừng, chớ có chấp thủ, các hý luận vọng tưởng ấy. Nghĩa là khi vọng
tưởng khởi lên thì chúng ta đừng chạy theo nó, đừng nuôi lớn nó, mà phải “bỏ
đói vọng tưởng” cho nó tự sinh tự diệt. Chúng ta không nên đè nén chúng mà để tự
nó lắng xuống. Thực hành được như vậy sẽ đoạn tận bảy tuỳ miên và các vọng tưởng
hý luận.
Phật dạy
phương pháp tu tập kiểm tra những suy nghĩ hằng ngày, bằng cách phân các suy tư
thành hai loại, những suy nghĩ thuộc về tham, sân, si phân thành một loại và những
suy tư nào thuộc vô tham, vô sân, vô si phân thành một loại. Sau khi phân loại
quán chiếu và thấy những suy nghĩ thuộc tham, sân, si rất nguy hiểm, dẫn đến hại
mình hại người thì chúng ta phải từ bỏ, không nên suy nghĩ đến; ngược lại những
loại suy nghĩ nào thuộc vô tham, vô sân vô si, là những suy tư không nguy hiểm,
lợi mình lợi người, tăng trưởng trí tuệ, dẫn đến Niết bàn, thì chúng ta tiếp tục
phát huy loại tư duy này một cách “nhiệt tâm, tinh cần”, giống như mục đồng
canh chừng không cho trâu vào ruộng lúa ăn mạ của người. Với thực hành như vậy,
hành giả đoạn trừ được năm triền cái, lần lượt chứng tứ thiền, chứng túc mạng
trí, thiên nhãn trí, lậu tận trí và cuối cùng được giải thoát giác ngộ. Như vậy,
chúng ta thấy rằng, pháp môn này không những loại bỏ các tranh chấp, hý luận mà
còn loại trừ bảy tuỳ miên, đoạn tận các pháp bất thiện, giúp hành giả giải
thoát khỏi, sanh, già, bệnh, chết một cách triệt để.
Tóm lại, Phật dạy cách ra khỏi thế giới
hý luận, không nên trú tướng chung hoặc tướng riêng của các cảnh trần, nếu
không thì các pháp bất thiện sẽ tràn vào tâm mình.. Phải nên cắt dứt hoàn toàn
gốc rễ của các khái niệm tạp nhiễm mang khuynh hướng bành trướng, đồng thời trở về theo dõi và kiểm
soát tâm mình trước, xúc, thọ, tưởng, tư để đoạn tận các tuỳ miên tham, sân ,
si… Đây là chủ trương và tinh thần giáo
dục của Đức Phật.
Mọi khổ đau đều do vọng tưởng tạo nên, một ví dụ về sự
tác hại của vọng tưởng như sau: Có đôi vợ chồng nọ, mua được tấm vé số trúng độc
đắc. Sau khi nhận tiền trúng số hai vợ chồng không tính đem số tiền đó làm vốn
kinh doanh, hay bỏ ngân hàng lấy lãi mà tiêu dùng cho cuộc sống hằng ngày.
Nhưng vợ chồng thống nhất mua một chiếc xe bốn chỗ để vợ con đi chơi cho vui,
không ngờ xe chạy không được thời gian bao lâu. Hôm nọ vợ chồng rủ nhau con cái
đi chơi xa, không dè nữa đường mất tay lái xe rơi xuống vực thẳm, thế là cả gia
đình đều đi du ngoạn thế giới bên kia không còn ai trở về. Câu chuyện thương tâm này và các câu chuyện
khác tất cả đều phát xuất từ vọng tưởng mà ra. Vì thế, nếu không khéo tu tập và
học hỏi chúng ta luôn luôn bị vọng tưởng dẫn dắt là chuyện bình thường hằng
ngày. Vọng tưởng rất khó kiểm soát và rất
khó điều phục nếu không siêng học hỏi và thực tập tu học thì khó ra khỏi vòng
xoáy của vọng tưởng vậy./.
(Trích và dựa theo: Tiến trình sinh khởi vọng
tưởng và phương pháp điều phục….TN Huyền Minh- NSGN số 292 - 7/2020).
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét