Thứ Ba, 22 tháng 7, 2025

ĂN CHAY VÀ ĂN KIÊNG

 

ĂN CHAY VÀ ĂN KIÊNG

           Ăn chay là phương pháp tu tập đặc thù của Phật giáo Đại thừa,  và ăn chay không phải là hình thức tôn giáo mà là chung cho tất cả  những người có tôn giáo hay không tôn giáo. Bởi vậy, ăn chay đúng nghĩa của nó gọi là “ăn chay”, còn không đúng nghĩa ăn chay trở thành “ăn kiêng”.

          Và ăn chay lại phân ra nhiều loại: Chay trường, chay kỳ, thuần chay, tạp chay. Chay trường là ăn chay suốt đời; chay kỳ là ăn theo kỳ hạn, chẳng hạn trong một năm ăn trong ba tháng lại nghĩ; Chay kỳ là mỗi tháng  ăn 4 ngày hay 10 ngày v.v. Thuần chay là ăn chay không dùng bơ, sữa, trứng những thức ăn có liên quan đến động vật, chỉ thuần thực vật nên gọi là thuần chay, ăn chay cách này ít người ăn được. Tạp chay là ăn chay còn kiêm thêm ăn bơ, sữa và trứng nên gọi là tạp chay, ăn chay cách này chiếm đa số, chư Tăng Ni, Phật tử phần đông ăn chay theo cách “tạp chay”. Tạp khác với thuần, tạp nghĩa là lộn xộn, tạp loạn không chuyên nhất.

      Chay là nghĩa dịch từ Hán-Việt, chữ Trai. Trai có nghĩa là Tề, là ăn đúng giữa giờ Ngọ gọi là Thọ trai. Sau này người ta nói trại trai thành “Chay”. Lại ăn chay đối lập với ăn mặn. Lại từ “mặn” là nói trại của từ “mạng”, mạng tức là sinh mạng chúng sanh. Thay vì nói ăn mạng khó nghe, người ta nói trại là ăn mặn.

          Chay, nói trại từ chữ Trai  trong Hán-Việt, có nghĩa là trong sạch, tinh khiết, giống như giữa trưa bóng mặt trời soi khắp mọi nơi. Ăn chay là ăn thức ăn trong sạch, được xác định  trong sạch về mặt đạo đức, từ ý niệm đến hành vi và kết quả. Lâu nay chúng ta quan niệm  ăn chay là ăn thức ăn thực vật, không ăn những thức ăn có liên quan đến sinh mạng của chúng sanh, thì quan niệm này chưa đủ. Vì thế, người ta thường nói “chay lạt”  hay là “tương chay lạt”. Cách dùng từ mộc mạc đó xác định phạm vi của ăn chay, có phần đúng với tinh thần thanh và đạm của ăn chay.

          Ăn đủ sống mỗi ngày đơn giản

          Mễ, cốc đều có sẵn khắp nơi….

          Ăn chay là cách sinh hoạt thường nhật ở các đạo tràng của Phật giáo. Từ xưa Đức Phật cũng đã dạy các Phật tử cách thức ăn ở, tu tập, nhưng chỉ về sau mới có những bài viết chuyên đề Ăn chay. Trong Phật học Phổ thông của Hoà thượng Thiện Hoa đã thuyết minh về đề tài Ăn chay rằng đây là một pháp tu hành quan trọng. Trường trai bất sát, thường ăn chay không sát hại, cốt yếu nuôi dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng, tránh quả báo luân hồi, lại hợp vệ sinh, là những điều được nhấn mạnh trong Phật học Phổ thông. Bài viết này đã được tiếp thu phổ biến, thể hiện những quan điểm ăn chay của hàng Phật tử.

          Cũng viết về đề tài ăn chay, bộ Chơn lý của ngài Minh Đăng Quang nhấn mạnh về thiệt căn thanh tịnh (cái lưỡi trong sạch).  Đạo lý thiệt căn thanh tịnh là đạo lý chính để tạo ra pháp tu ăn chay. Theo đạo lý này thì ăn chay chính là tu cái lưỡi (khẩu nghiệp), không để lưỡi tham đắm vị ngon, mê say theo vật chất, mãi trầm luân trong  tam giới. Đệ tử Phật ăn chay ngày một bữa chay lạt để tạm sống tu học chứ không có tâm lý hưởng thụ ăn uống. Chính nhờ giữ gìn miếng ăn có giới luật mà các vị tu hành, tại gia xuất gia  ít bịnh, ít não, phát sanh trí tuệ, dễ dàng đạt đến quả yên vui giải thoát.  Nhờ thắng được miếng ăn mà người ta trở nên trượng phu quân tử, không bị oán thù vay trả, quả báo ác nghiệp hành phạt, và làm chủ được tâm mình, trước mọi hoàn cảnh trái ý nghịch lòng.

         Có câu: “Bịnh tùng khẩu nhập , hoạ tùng khẩu xuất”. Tức bịnh tật có là vào từ miệng, mà hoạ có cũng phát xuất từ miệng. Nghĩa là ăn uống vô độ sinh ra bệnh tật từ miệng. Nói năng độc ác, không hoà nhã là mang hoạ vào thân.  Vì thế ăn chay có khả năng kiềm chế tính tình nóng nảy, giận hờn, sân si và ngăn ngừa bịnh tật là điều nhiều người  đã thực hiện thành công.

          Bữa cơm trưa tức Ngọ thực của chư Tăng là một thời công phu tu tập, đồn hết tâm và trí vào bữa ăn, giữ chánh niệm không để cho tâm tán loạn. Cả thân lẫn tâm đều chuyên chú vào bữa cơm ăn, trước hết khởi niệm “Tam đề”: Tức nguyện đoạn nhất thiết ác, nguyện tu nhất thiết thiện, nguyện độ nhất thiết chúng sanh. Ba muỗng cơm đầu khởi niệm ba điều: Bỏ ác, làm lành và độ sanh là phần cơ bản tự lợi và lợi tha, đền đáp trong muôn một công sức của thập phương bá tánh cúng dường để có thức ăn nuôi thân tu tập.

          Thứ đến thầm quán năm điều:

1/ Một là kể công nhiều hay ít so với của kia dâng cúng

2/ Hai là xem xét đức hạnh của mình  nhiều hay ít,  đầy đủ hay không

3/ Xem thức ăn như một thứ thuốc trị bịnh đói gầy cho thân 

4/  Quán xét tham là gốc của sự khổ và tội lỗi

5/ Vì thành đạo nghiệp nên mới nhận lãnh thức ăn nầy.

     Trước khi ăn phải quán 5 điều, nội dung là nhớ ơn Tam bảo, nhớ ơn Thầy tổ, cha mẹ, những người nông dân,  những người đi chợ, nấu nướng v.v.. giúp duy trì chánh niệm trong bữa ăn với lòng biết ơn.  Năm phép quán  ý nghĩa như sau:

          1/ Tưởng niệm về nguồn gốc thức ăn:

          Nghĩ về quá trình sản xuất, thu hoạch, chế biến, vận chuyển để có được bữa ăn nầy, từ đó thấy được sự vất vả của nhiều người, và sự quan hệ giữa mình với nhân sinh vũ trụ.

          2/ Tự kiểm điểm tư cách của mình (đức hạnh).

          Xét bản thân mình có được bao nhiêu đức hạnh, để xứng đáng  nhận thức ăn này không. Có những hành vi tốt đẹp nào xứng đáng với những gì mình đang được hưởng.

          3/  Buông bỏ lòng tham.

          Nhận thức rằng, thức ăn là để duy trì sự sống, chứ không phải để thoả mãn lòng tham, và thương xót những người đang thiếu thốn.

          4/ Xem thức ăn như một phương  thuốc chữa bệnh.

          Nhận biết rằng, thức ăn là dưỡng chất giúp cho cơ thể khoẻ mạnh, không nên xem đó là niềm vui, thú vui, là sự thưởng thức.

          5/ Chấp nhận và biết ơn.

          Dù no hay đói vẫn giữ tâm trạng  thái thanh thản và biết  ơn những người đã chuẩn bị bữa ăn, cũng như những người làm ra thức ăn.

          Thực hành năm phép quán giúp cho người ăn nuôi dưỡng lòng biết ơn, sự tỉnh thức và tránh xa những thói ăn uống vô độ.

          Bữa ăn của người tu trong Phật giáo, trước khi ăn chánh niệm, Tam đề, Ngũ quán với ý nghĩa tưởng nhớ công ơn lao khó nhọc của kẻ xa người gần làm nên thức ăn. Với tâm niệm tri ân và tưởng niệm đến những người còn đang thiếu thốn mà nguyện cầu họ được no đủ.

          Bữa ăn của người tín đồ Công giáo, trước khi ăn họ làm phép thánh để  tưởng nhớ đến Chúa, công ơn của Chúa tạo ra con người, tạo ra thức ăn, tạo ra sự sống… Trước khi ăn họ làm phép tưởng niệm ba ngôi: Chúa cha, Chúa con, Thánh thần A men.

           Ngày nay có số ca sĩ, hoa hậu, vận động viên nổi tiếng  trên thế giới ăn chay trường được khen ngợi, nhưng có lẽ những người ấy  chỉ ăn kiêng thôi, chứ chưa phải ăn chay thực sự. Ăn kiêng là để giữ cho thân mình khoẻ mạnh, đẹp hình thể, hoặc để trị bệnh… Như các cách ăn của Tiên sinh Ohsawa cũng là ăn kiêng để dưỡng thân chữa bệnh. Vậy ăn kiêng là một phần của ăn chay, chỉ ở khía cạnh cũng ăn thực vật, chứ mục đích và hành vi của ăn kiêng thì chưa chay. Ngược lại, những ai tuy ăn chay nhưng lo món ăn này  món kia cho đủ chất, cho sang cho đẹp. Như các món chay giả mặn v.v… đều là thức ăn chay mà biến thành kết quả ăn kiêng.

                    Ăn chay nói dấu triết hiền

                    Tương dưa, rau muối, long thiền sạch trong,

                    Ăn chay để dạ trống không

                    Chẳng ham, chẳng độc, chẳng lòng ghét ganh…

          Ăn chay trước hết phải có cơ sở đạo đức, nếu không thì chẳng khác gì động vật ăn cỏ. Đệ tử Phật ăn chay với các ý nghĩa là: một là để tu cái lưỡi, không để nó đưa mình vào chốn trần lao; hai là không muốn tạo nghiệp sát, dù trực tiếp hay gián tiếp; ba là vì tâm từ bi, không nỡ cướp đi sinh mạng của chúng sanh, biết rằng chúng sanh nào cũng ham sống sợ chết và cũng có thân quyến của chúng; và bốn là vì tôn trọng tánh linh bình đẳng của muôn loài.

                    Tánh linh người và vật cũng đồng

                    Tuy không biết nói mà lòng biết nghe!

           Xét về văn hoá, khi nhân loại còn đắm chìm trong sự tranh đua, giết chóc, trong các thú vui vật chất, thì việc ăn thịt, uống máu, cho đến việc tìm mọi cách để bồi bổ thân thể…sẽ được đa số mọi người chấp nhận. Nhưng một khi trình độ dân trí và tâm linh nâng cao, trong các xã hội tiến bộ hay các tổ chức tôn giáo, thì con người tìm cách làm trong sạch thân thể và tâm hồn của mình bằng những  cách ăn uống  đơn giản. Ngày nay, ăn chay không những chỉ được thực hành trong truyền thống Phật giáo mà còn được nhiều người trên thế giới áp dụng ở mức độ ăn kiêng.

          Về mặt xã hội, theo tầm nhìn sâu xa của Phật giáo, thì ăn chay là một cách đóng góp hiệu quả cho nền hoà bình thế giới. Bài kệ sau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ vấn đề này

                    Hằng ngày trong bát canh ăn

                    Oán sâu như biển, hận bằng non cao

                    Muốn xem binh lửa thế nào,

                    Hãy nghe quán thịt tiếng gào đêm thâu!

          Chính quan điểm “vật dưỡng nhân” đã làm con người sống trái với lẽ công bằng của tạo hoá, lẽ bình đẳng của chúng sanh  trong vũ trụ. Nhưng đồi với lối sống cao thượng và tế nhị của đạo Phật sẽ tạo ra một văn hoá ẩm thực tinh khiết , đơn giản lành mạnh./.

(trích và dựa theo: Đầu năm tản mạn về ăn chay: KS. Minh Bình- NSGN số 227- 2/2015).

{]{

ĂN CHAY VÀ ĂN KIÊNG Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét