TÂM SANH TỬ KHÔNG THA THIẾT
Vì
sao chúng ta niệm Phật không nhất tâm, hay bị vọng tưởng và hôn trầm xâm nhập
trong những lúc công phu tu tập?
Niệm Phật không chuyên, công phu không đắc
lực, lúc đầu tinh tấn lúc sau dần không muốn niệm, trước siêng sau biếng lần lần
bỏ cuộc. Khi niệm Phật nếu không vọng tưởng thì hôn trầm xuất hiện, tất cả những
trạng thái này do nguyên nhân từ đâu?
Trạng thái này ai cũng có,
vậy làm thế nào để giải quyết nó đây? Theo các lời khai thị của các vị Tổ sư, tất
cả đều do Tâm sanh tử của ta không tha thiết mà ra. Vậy tâm sanh tử là tâm gì?
Tức là ta không quyết liệt để tâm hướng đến thoát ra ngoài sanh tử. Sanh tử là
từ nói tắt , nói cho đủ là “sanh tử luân hồi” nghĩa là hết sanh lại tử, tử rồi
lại sanh.
Chúng ta rõ biết pháp môn Tịnh độ rất thù
thắng, biết công đức của danh hiệu Phật không thể nghĩ bàn, thế nhưng câu Phật
hiệu càng niệm càng thấy vô vị, càng thiếu công lực, đến sau cùng thậm chí bỏ
luôn, không còn niệm nữa. Do nguyên nhân gì? Nguyên nhân căn bản do tâm sanh tử
không tha thiết.
Các lời dạy của các vị Tổ sư rằng, mọi thứ
khổ nhất ở thế gian chẳng qua là khổ sanh tử, không liễu sanh tử, thì sanh tử,
tử sanh. Ra khỏi bào thai này lại nhập vào bào thai khác. Thế cũng đã khổ lắm rồi, huống hồ không thoát ra
khỏi luân hồi, khó tránh đọa vào bụng heo, bụng chó, bụng ngựa, bụng trâu, bò
v.v.. chỗ nào cũng vào, đầu thai làm heo, làm chó, trâu, bò ngựa v.v…
Cái thân làm người thì khó
được nhưng lại dễ mất, nếu có một ý niệm sai biệt liền đọa vào ba đường ác, địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Tam đồ dễ vô mà khó ra, thời gian ở địa ngục vừa dài
lâu lại vừa khổ sở bức bách vô cùng.
Ngài Ấn Quang
nói . “Con người ở thế gian, việc gì cũng có kế hoạch lo toan, duy việc sanh tử
thì bỏ qua một bên không màng tới, chờ đến khi mạng chung thì theo nghiệp mà đi
đầu thai, không biết tâm thức lúc này lại tiếp tục đầu thai về đâu? cõi trời
hay cõi người, hay ba đường ác. Một khi đọa lạc vào, trăm ngàn kiếp khó có ngày
trở lại làm thân người, cho nên pháp liễu sanh tử không thể không thường xuyên
đề cập, nhắc nhỡ” .
Sau khi chết đi về đâu?
chúng ta chưa biết được, nếu công phu tu tập chưa đắc lực. Đây là đại sự mỗi
người cần phải quán niệm thường xuyên. Chúng ta suốt ngày cứ bận rộn với những
việc không cấp bách, không quan trọng, cứ lo tranh chấp với những việc không
quan hệ gì với sanh tử, chưa bao giờ cho việc sanh tử là trọng đại, cũng không
biết lo sợ cái khổ của luân hồi lục đạo, cũng không nghĩ sau khi chết sẽ đầu
thai về cõi nào?
Đôi lúc nhìn thấy bạn bè,
người thân đột ngột qua đời, tạm thời có chút cảm động, cảm xúc, thế nhưng nhanh
chóng bị những việc cấp bách của thế gian chôn vùi trong quên lãng.Tuy nhiên có
niệm Phật vài câu, nhưng niệm rồi có thể được vãng sanh không? Nếu không vãng
sanh thì đời sau sẽ phải chịu khổ khi đọa vào ba đường ác. Vì thế hãy quán chữ
Tử hằng giờ hằng phút trong mỗi ngày.
Mỗi khi thấy
người chết, mình thường tự nhũ, lần này về nhà mình nhất định phải tu, phải niệm
Phật cho tốt hơn, buông xả hết mọi thứ duyên. Thế rồi, chỉ qua một vài ngày,
tánh nào vẫn hoàn tật đó, trước đây lăng xăng với những việc không cần thiết thế
nào thì giờ vẫn cứ lăng xăng như thế ấy. Kết quả sau khi chết phải chịu sa đọa
vào ba đường ác, cho nên Tổ dạy chúng ta luôn quán niệm chữ Tử là vậy.
Tổ Ấn Quang
khai thị rằng. “Muốn tâm không tham chuyện bên ngoài, phải chuyên tâm niệm Phật,
dù không thể chuyên cũng bắt nó chuyên, không thể niệm bắt nó phải niệm, không
thể nhất tâm, bắt nó phải nhất tâm”
Không có pháp đặc biệt nào khác, chỉ đem cái
chữ Tử quán niệm thường xuyên. Nghĩ rằng, ta sẽ chết, trước sau cũng phải chết.
Đời nay may mắn được làm thân người, được gặp Phật pháp, nếu không siêng năng
tinh tấn tu tập, không nhất tâm niệm Phật, cầu sanh Tây phương, khi hơi thở
không còn, thì chắc chắn sẽ vô chảo dầu sôi, lò than, chảo nước nóng, núi đao rừng
kiếm, chịu khổ không biết bao nhiêu, lúc đó cầu ra khỏi chỗ đó cũng khó có được.
Muốn niệm một niệm Phật cũng không được, cho dù ra khỏi địa ngục, còn phải đọa
vào ngạ quỷ, bụng to cổ nhỏ, đói khát triền miên, không từng nghe thấy danh từ
cửa nước, rất khó có được một bửa ăn tạm no, chưa nói đến ăn ngon. Sau khi
thoát ra khỏi kiếp ngạ quỷ, lại làm súc sanh, bị người cưỡi trên lưng, bị đánh
bị đập, đi xa chở nặng, cuối cùng đem thân làm thức ăn cho con người, bị nước
sôi, lửa nóng khổ thân, bị xào bị nấu, xương thịt trở thành thức ăn cho con người
và các loài khác. Nếu ra khỏi súc sanh làm lại được thân người, thì ngu si vô
trí, tánh tình hung hăng, lấy việc tạo nghiệp làm đức năng, cho việc tu tập là
gông cùm, xiềng xích, là khổ sở, là đọa đày. Được làm thân người không quá ba
mươi năm rồi chết, trở lại sa đọa vào ba đường ác, lại tiếp tục luân hồi trong
lục đạo, dù muốn ra khỏi cũng không làm chủ được mình. Khéo biết quán tưởng như
thế, việc cầu sanh Tịnh độ mau thành tựu.
Nếu có quán tưởng như thế, thì chúng ta mới
biết sợ biết lo trong mọi thời, mọi lúc mọi nơi đều tiết lộ tâm sanh tử vô cùng tha thiết, một
khi tâm sanh tử tha thiết chắc chắn tâm cầu vãng sanh tha thiết, vì thế hoa sen
nơi Tịnh độ có phần, chắc chắn tâm cầu vãng sanh sớm có ngày vãng sanh.
Hiện
tại ở thế giới loài người cũng quá khổ, huống nữa ở nơi ba đường ác. Vì sao phải
cầu vãng sanh? Vì ở thế giới này đầy dẫy sự khổ, khổ thân, khổ tâm, khổ hoàn cảnh.
Đối với thân luôn bịnh tật, đối với tâm mê mờ bất giác, đối với đạo thầy tà bạn
ác vô số kể, đối với xã hội pháp luật luôn thay đổi, đối với thời tiết, nắng
mưa, bảo lụt, động đất sóng thần, dịch bệnh v.v diễn ra liên tục. Bên trong
không yên tâm, bên ngoài không yên thân làm sao tu cho có kết quả là việc vô
cùng khó khăn. Vì thế, cần phải cầu sanh tịnh độ, vì ở Tịnh độ dễ tu dễ thành,
không có khổ về tâm và không có khổ về thân, vì cùng ở chung với các bậc Thánh
làm bạn. Nên gọi là cõi Cực lạc, thế giới Tịnh độ gọi là cực lạc, ngược lại cõi
nhân gian gọi là cực khổ, hai cảnh giới khác nhau trên hai lãnh vực tâm lý và vật
lý.
Quán niệm cảnh giới khổ nơi thế giới ta ở
như vậy, nên sớm niệm Phật cầu sanh Tây phương, một phút không chần chừ, không
luyến tiếc bất cứ thứ gì ở trần gian này nữa. Vì thế lúc lâm chung tâm ta không
một chút lưu luyến nên việc vãng sanh được nhẹ nhàng. Hiểu được như thế ngày
đêm chúng ta không ngừng dụng công, nghĩ đến sanh tử đại sự, nghĩ đến vô thường
nhanh chóng nên dù một phút cũng không dám buông lung. Cho nên kiên trì niệm Phật
không gián đoạn.
Luôn nghĩ mình như đang rớt xuống vực
sâu, lúc nào cũng muốn được thoát lên, tâm niệm Phật cầu sanh Tây phương lại
cũng như thế, nên ma nghiệp dễ tiêu trừ.
Điều quan trọng khi muốn thoát khổ, từng niệm đều biết sợ chết sẽ bị đọa
xuống tam đồ ác đạo. Câu Phật hiệu tự nhiên sẽ thành thục, tịnh nghiệp tự nhiên
sẽ thành. Tất cả trần cảnh không thể đoạt mất chánh niệm của mình.
Niệm Phật không bị hôn trầm thì tán loạn,
đó là hiện tượng niệm Phật tâm không được tha thiết, niệm lấy lệ, niệm như học
trò trả bài cho cô giáo. Nếu niệm Phật với tâm khẩn cấp như cần đang cầu cứu ra
khỏi lửa cháy, như nước đang ngập, như giặc cướp đang đuổi giết, thì tâm mới
không bị tán loạn hay hôn trầm làm chủ.
Ngài Ấn Quang treo một câu đối để nhắc nhở
mình. Đạo nghiệp chưa thành, nào dám để
tâm này tán loạn, cái chết sắp đến, xin tạ từ mọi thứ xã giao.
Đại sư Tỉnh Am trong bài
văn khuyên phát Bồ đề tâm được Ấn Quang đại sư vô cùng tán thán, trong đó miêu
tả cái khổ của sanh tử cũng là trạng huống đời đời kiếp kiếp trong lục đạo luân
hồi của chúng ta.
“Ta
cùng chúng sanh, từ bao kiếp trước, quanh quẩn trong tử chưa hề thoát ra, lúc
làm người, lúc sanh cõi trời, khi chui vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cổng
đen sáng mở tối lại chui vào, hang sắc tạm rời lại đi vô, leo lên núi đao, thân
không còn mảnh da nguyên vẹn, vịn vào hàng cây kiếm, từng ô thịt bị rách bươm.
Viên sắt nóng
không trừ được cơn đói, vừa nuốt vào gan ruột nát tan, nước đồng sôi không giải
được khát, uống vào thịt xương tan nhừ, cưa bén xẻ thân đứt xong liền lành lại
tiếp tục tái diễn, gió nghiệp thổi qua chết xong lại sống, trong thành rực lửa,
tiếng thét thảm thương, trên bàn ngào nướng, vang vọng tiếng gào tê tái. Nơi ngục
băng hàn, thân hình xanh như nhụy sen xanh, máu thịt rã nứt lại đỏ như sen đỏ
trổ hoa.
Trong chốn địa ngục, một đêm sống chết đến
cả vạn lần so với nhân gian, một buổi hành hình lâu tròn thế kỷ, bao phen lính
ngục trừng trị mệt mõi, nào ai chịu tin lời răn của Diêm Vương. Lúc bị hình phạt
mới biết khổ, hối hận cũng đã muộn rồi! Khi được thoát ra thì liền quên ngay, vẫn
nghiệp cũ lại gây như trước.
Đánh con lừa văng máu nào hay chính mẹ
mình đang đau khóc, xua heo vào giết, nào hay chính cha mình sắp rã thây.
Ăn thịt con mà không hay không biết, Văn
Vương cũng thế, ăn thịt song thân mà nào có biết, phàm phu nhân gian cũng thế
thôi. Năm xưa ân ái, nay thành oan gia, ngày trước oán thù nay là cốt nhục.
Đời trước là mẹ đời này làm dâu, thưở xưa
là cha nay lại làm chồng, có thần thông túc mạng soi thấy, thật đáng hỗ thẹn,
đáng kinh đáng sợ, lấy thiên nhãn mà nhìn, thật đáng buồn cười tội nghiệp.
Trong vũng phân nhơ, bao bọc mười tháng,
qua đường ngập máu để được sanh ra, thật đáng thương quá, bé thơ biết gì, mọi sự
chẳng hiểu.
Lớn lên dần hiểu, tham dục liền sanh,
loáng thoáng đã già đau bệnh tìm tới, vô thường nhanh chóng cũng đi theo sau.
Gió lửa giao tranh, thần thức bắn loạn, khí huyết vơi cạn, da thịt khô dần, từng
lỗ chân lông như bị kim đâm, mỗi một khiếu huyệt đang bị dao cắt.
Rùa đem bị nấu, lột được vỏ ra, tưởng chừng
còn dễ, thần thức rời khỏi xác thân, khó gấp bội phần. Tâm con người thường
không vững, như kẻ lái buôn bôn ba khắp chốn, còn thân thì không định hình, như
nhà cửa cứ mãi đổi thay, nhiều như bụi trần trong thế giới cũng không sao đếm hết
số lần sanh tử luân hồi khổ đau. Ba đào bốn biển lường sao cho hết nước mắt biệt
ly? Xương cốt chất chồng trội hơn núi cao, dẫy đầy thây chết nhiều hơn đại địa.
Giá như không được nghe lời Phật dạy, việc ấy ai thấy ai nghe. Không xem kinh
Phật lý này ai hiểu, ai biết. Thế mà, có kẻ vẫn mãi tham luyến, vẫn cứ si mê. Một
lỡ trăm sai. Thân người khó được lại dễ mất, vận may dễ qua khó tìm trở lại. Đường đời mờ mịt, biệt ly dài lâu, tam đồ ác
báo rồi phải tự thọ. Khổ không thể kể xiết, nào ai thế cho . Cho nên phải quyết tâm đoạn dứt dòng sanh tử,
vượt nẻo ái hà, mình với người cùng thoát, cùng lên bờ giác. Công lao muôn kiếp
chính là bắt đầu từ nay.
Sư Ưu Đàm đời nhà Nguyên có bài
Quay nhìn hài
cốt chất như núi
Nước mắt phân
ly thành sông biển lớn
Thế giới cuối
cùng cũng hư hoại
Đời người qua
mau như búng tay
Có gì vui đâu
kiếp con người
Trải qua ngàn
lần thay đổi mãi
Lúc làm thân
nam khi thân nữ
Mang lông đội
sừng bao vạn kiếp
Không nhân đời
nay sanh Tịnh Độ
Lạc bước đầu
thai thì muộn rồi.
Ba phần cơ bản của pháp môn Tịnh độ là tin
sâu nguyện thiết, hành chuyên. Nếu tâm sanh tử không tha thiết, thì lấy đâu tin
sâu nguyện thiết, không tin sâu nguyện thiết, sao có thể vãng sanh được?
Cổ nhân nói.
“Cuộc đời cứ
già đi trong bận rộn
Mấy ai chịu
ngưng trước khi lìa đời”
Đại đa số con người bị già đi trong những
chuỗi ngày lăng xăng bận rộn, không mấy ai nghĩ đến cái chết để sớm buông xả bớt
những chuyện của thế gian, cứ như thế khi ta lâm chung sẽ đi về đâu?
Việc lớn sanh tử từ vô lượng kiếp đến nay,
không chỉ niệm vài câu Phật hiệu một cách lơ là, hữu khẩu vô tâm mà có thể giải
quyết được vấn đề.
Câu Phật hiệu của chúng ta thường xuyên bị
xen tạp, đánh mất hoặc gián đoạn. Nếu thật sự muốn ngay trong đời này vãng sanh
thì cố gắng ngay nơi tín nguyện mà hạ thủ công phu cho tốt, muốn tín nguyện vững
mạnh, trước tiên phải có tâm sanh tử tha thiết.
Lời khai thị của Hám Sơn đại sư:
“Khai thị niệm Phật thiết yếu”. Pháp môn niệm
Phật cầu sanh Tịnh độ này, vốn là vì muốn liễu sanh tử đại sự, nên nói niệm Phật
liễu sanh tử, nay người phát tâm vì muốn liễu sanh tử nên mới chịu niệm Phật,
chỉ nói niệm Phật có thể liễu sanh tử, nếu không biết căn gốc của sanh tử thì
hướng về đâu mà niệm. Nếu cái tâm niệm Phật kia không đoạn được căn gốc sanh tử,
làm sao lại liễu thoát được sanh tử.?
Thế nào là căn gốc của sanh tử? Người xưa
nói: “Nghiệp bất trọng bất sanh Ta bà, ái bất đoạn bất sanh Tịnh độ” cho thấy
ái căn là gốc rễ của sanh tử.
Tất cả chúng
sanh hứng chịu cái khổ của sanh tử đều do lỗi của ái dục, suy rộng ra ái căn không
phải chỉ một đời này mới có, cũng chẳng phải một, hai, ba, bốn đời trước đã có,
nó từ vô thủy khi bắt đầu có sanh tử đến nay, đời đời kiếp kiếp, thụ thân xã
thân đều do ái dục mà lưu chuyển.
Hãy nghĩ xem
từ hiện nay lui về ngày xưa, đã từng có một ý nghĩ nào xa lìa ái căn đâu, cái
chủng tử ái căn chồng chất sâu dầy nên sanh tử cũng vô tận.
Nay phát tâm
niệm Phật, chỉ biết cầu sanh Tây phương một cách trống không, ngay đến danh từ
ái là gốc của sanh tử cũng không biết, thì lấy đâu ra ý niệm để đoạn, như vậy một mặt niệm Phật, mặt khác thì
cứ tăng trưởng gốc sanh tử. Niệm Phật như thế không tương quan gì đến việc sanh
tử.
Mặc cho bạn
niệm Phật đến mức độ nào, đến khi lâm chung, chỉ thấy ái căn hiện ra, khi đó mới
biết niệm Phật chẳng được gì, rồi oán trách niệm Phật không linh, hối hận đã muộn.
Cho nên
khuyên người niệm Phật ngày nay, trước phải biết ái là căn gốc của sanh tử, từng
niệm đều phải đoạn ái căn. Người tại gia niệm Phật, mắt nhìn con cháu, gia
duyên tài sản, không một thứ gì không thích, thật từng việc từng ý nghĩ đều
nóng lòng lo âu sinh kế sống chết, như toàn thân ở giữa đống lửa vậy.
Khi niệm Phật
trong tâm chưa từng có một ý nghĩ buông bỏ ái căn (sự ham thích), chỉ nói vì
sao niệm Phật không tha thiết, nào hay ái nó đang làm chủ tể, khiến việc niệm
Phật chỉ ở ngoài da, như thế dù Phật hiệu cứ niệm, ái căn cứ mặc tình tăng trưởng.
Nhất là lúc
tình cảm con cái hiện ra, xem lại câu Phật hiệu của mình có thể chóng chọi lại
cái ái này không ? Nếu không thì làm sao đoạn được sanh tử. Ái duyên này đã
huân tập quen thuộc quá nhiều đời rồi, niệm Phật thì mới phát tâm, còn rất xa lạ
lại không thiết thực, nên không đắc lực. Phải biết tình cảm yêu thương ở trước
mắt này không làm chủ được, đến khi lâm chung chắc chắn cũng sẽ không làm chủ nỗi.
Cho nên
khuyên người niệm Phật, điều kiện đầu tiên phải có tâm biết tha thiết với sanh
tử, tâm tha thiết muốn đoạn sanh tử, phải từng ý niệm muốn chặt dứt gốc rễ của
sanh tử, được như vậy mỗi ý niệm đều giúp ta liễu thoát sanh tử, hà tất phải chờ
đến lúc ba mươi tháng chạp (ý nói lúc lâm chung) mới liễu thoát, quá muộn! Phải
nói. trước mắt đều là việc sanh tử, đều muốn giải quyết cho xong, từng ý niệm đều
thật sự tha thiết, đều như từng nhát dao chỉa thẳng vào sanh tử, dụng tâm được
như vậy, nếu không ra khỏi được sanh tử thì chư Phật đều nói hư vọng sao?
Bởi thế, tại
gia hay xuất gia, chỉ cần hiểu được tâm sanh tử, chính là thời tiết xuất ly
sanh tử vậy, không còn diệu pháp nào hơn.
Trung ngôn
nghịch nhĩ, thuốc đắng là thuốc hay. Tổ sư vô cùng từ bi, đọc hết đoạn khai thị
này, chúng ta như bắt được bảo vật, bài khai thị này gọi là “niệm Phật thiết yếu”
thật đúng với danh xưng.
Lời khai thị
này chỉ ngay vào nguồn gốc của căn bệnh, tuy không dài lắm, nhưng chất lượng của
nó trong Tịnh tông thật không thấp, đối với việc chỉ dẫn chúng ta cách niệm Phật,
thiết thật có chỗ rõ ràng để hạ thủ công phu.
Như vậy, hai điểm trở ngại niệm Phật mà không
được vãng sanh là do tâm nguyện rỗng
không, thứ hai là để Ái làm chủ tể, niệm phật chỉ để ngoài da. Tự mình hoàn toàn
không có tâm xuất ly, không có chân tín nguyện thiết thực, những việc làm hằng
ngày chỉ là bề mặt, như thế làm sao vãng sanh được? Chư tổ nói pháp môn niệm Phật
là “vạn người tu, vạn người thành” thế nhưng hiện nay vạn người tu chỉ có vài
ba người đạt. Vấn đề xuất phát từ chỗ nào? Ngài Vĩnh Minh nói “Vạn người tu vạn
người thành, là chỉ cho những người có đầy đủ tín nguyện”. Chân tín nguyện thiết
thì vạn người tu vạn người đạt. Tín không chân, nguyện không thiết mới biến
thành vạn người tu vài ba người đạt.
Vấn đề tồn tại một cách phổ biến của
chúng ta là. Tín, Nguyện, Hành không đủ chất lượng, không thể nói là không tin,
mà là bán tín bán nghi, cũng chẳng phải không có nguyện, vừa nguyện lại vừa do
dự, không phải không có hành, cái hành đó như phơi đồ một nắng mười mưa làm sao
khô được. Tỷ dụ vãng sanh cần có 100 % mà tín nguyện của chúng ta chỉ có 10 %
niềm tin, 10 % tâm nguyện thì làm sao vãng sanh được.
Vì sao tín
nguyện hành không đủ, nguyên nhân căn bản vẫn là không có tâm xuất ly. Tâm xuất
ly ở đây chính là tâm nhàm chán Ta bà, vui cầu Cực lạc. Người xưa nói. nguyện rời
khỏi Ta bà như kẻ tội mong ra khỏi ngục tù, nguyện sanh Tây phương như gã cùng
tử xa quê lâu ngày mong trờ về quê cũ. Nay chúng ta một chút tâm này cũng không
có, phải biết tâm xuất ly chính là nội hàm của tín nguyện.
Đại sư Hám Sơn khuyên
chúng ta buông xả, lời nói thống thiết, chẳng qua là muốn thúc giục chúng ta, bởi
vì chúng ta bị mê mờ dại khờ quá lâu rồi! Đối với việc sanh tử không hề động
lòng dốc tâm, ai cũng nói. khó buông xả quá! Buông không nổi! Buông không được!
Kỳ thật, có gì mà không buông được? Chỉ là chúng ta nuối tiếc không chịu buông!
Hãy nghĩ xem có đúng vậy không?
Nuối tiếc con
cái, nuối tiếc tài sản, nuối tiếc bạn bè, người thân, nuối tiếc sự cung kính,
khen tặng của người đối với mình, nuối tiếc danh vọng địa vị v.v.. Những thứ
này đều là từng lớp dây xiết chặt chúng ta trong lục đạo luân hồi. Nuối tiếc
không buông xả thì là gốc rễ của sanh tử tiếp tục tăng trưởng bám sâu đến vô lượng
kiếp rồi vô lượng kiếp nữa, không biết đến bao giờ mới có ngày ló đầu ra được.
Đối với ái chúng ta cứ ôm giữ trong lòng, còn đối với hận thì nhớ mãi không
quên, như vậy thì làm sao mà vãng sanh? Cho nên trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương,
Phật than rằng. “Người ôm chấp vợ con, nhà cửa, tài sản còn hơn kẻ bị nhốt tù,
bị nhốt trong tù còn có ngày phóng thích, tâm ôm chấp vợ con không có ngày viễn
ly”.
Một ngày
trong 24 giờ chúng ta hãy nghĩ xem, được bao nhiêu giờ để tâm nhớ đến Cực lạc? Bao
nhiêu giờ lo và sống với Ta Bà? Thời gian lo sống với Ta Bà rất nhiều, Tâm nhớ
Cực lạc rất ít. Trong 24 giờ có được 10 phút nghĩ đến vãng sanh không? Tỷ lệ
này thật chênh lệch một trời một vực.
Tình trạng sống một
ngày như vậy, nếu mỗi ngày đều như thế, một năm trôi qua lại một năm, chúng ta
lấy gì để đi Tây Phương? Mới biết chúng ta đang bị nguy hiểm biết dường nào! Hòa
Thượng Hải Hiền dạy những người niệm Phật rằng. “Niệm Phật cho tốt, thành Phật
mới là đại sự, những thứ khác đều là giả”. Trên đời tất cả mọi thứ đều là giả tạm,
chỉ có niệm Phật thành Phật mới là thật, luôn mong sớm về Tây Phương Cực lạc,
được như vậy việc cầu vãng sanh mới chắc thật, không rỗng tếch. Bằng không phải
cố gắng nổ lực dụng công.
Chúng ta niệm Phật bao nhiêu năm rồi hy vọng
có được vãng sanh không? Việc này không cần hỏi ai, tự hỏi chính mình! Đại sư
Ngẫu Ích có một tiêu chuẩn để đo lường.
“Thế tình nhạt
đi một phần, niệm Phật tự có một phần đắc lực, sinh kế của Ta Bà nhẹ đi một phần,
vãng sanh Tây Phương liền thêm một phần vững chắc, việc này chỉ có tự hỏi tâm
mình, không cần phải hỏi thiện tri thức, vì họ chỉ khuyên nên nhạt thế tình, nhẹ
sinh kế, chuyên tu xuất ly là chính yếu”.
Tự tâm mình
phải hiểu rõ, đối với thế giới Ta bà này tiêu cực, mới có thể tích cực với Tây
Phương Tịnh đô, đối với Ta Bà càng buông xả, mới càng nắm bắt được Tây Phương Cực
lạc. Tình cảm với thế gian càng nhẹ, với Cực Lạc mới càng sâu, sinh kế của thế
gian nhẹ đi một phần hoặc mười phần, niềm hy vọng vãng sanh Tây Phương sẽ được
một phần đến mười phần. Vì thế Hòa thượng Hải Hiền mới nói “A Di Đà là căn gốc
của ta”.
Hám Sơn đại sư khai thị rằng. “Tu hành
quan trọng nhất là phải vì sanh tử tâm thiết. Tâm sanh tử không tha thiết, làm
sao dám nói niệm Phật thành phiến? Vã lại chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay,
niệm niệm vọng tưởng, tình căn phủ lấp kiên cố, đời này từ lúc ra đời có từng
khởi lên ý niệm thống thiết vì sanh tử chăng? Mỗi ngày từng niệm đều thuận theo
thế tình, không thường phản tỉnh. Nay muốn dùng tín tâm phù du hư vọng để đoạn
sanh tử nhiều đời. Khác nào rải từng giọt nước mong cứa đám lửa đang cháy, nào
có lý này? Quả vì sanh tử tâm thiết niệm niệm như cứu lửa đang cháy trên đầu,
như sợ mất thân người trăm kiếp khó được lại.
Phải nắm chặt câu Phật hiệu, quyết vượt
qua vọng tưởng, ở tất cả mọi nơi niệm niệm phân minh không bị vọng tưởng che lấp
chướng ngại, có thể hạ thủ công phu một cách tích cực tha thiết như vậy, lâu dần
thành thói quen, tự nhiên tương ưng, dù không cầu thành phiến mà công phu tự thành
phiến.
Nếu đem việc niệm Phật làm hình thức bên
ngoài, thì cũng chẳng lợi ích gì, đến tận vị lai tế cũng không bao giờ thành
công. Nên phải lập tức dõng mãnh chuyên cần, chớ chậm trễ. Niệm Phật phải vì sanh tử tâm tha thiết, trước
phải đoạn ngoại duyên, chỉ giữ một niệm là câu A Di Đà Phật xem như mạng sống của
mình, niệm niệm không quên, niệm niệm không dứt, đi đứng nằm ngồi, cuối xuống đứng
lên, động tĩnh, rảnh rang hay bận rộn trong tất cả mọi lúc mọi nơi, không si
không mê, không vướng những duyên khác dụng tâm như thế, lâu lần thành thói
quen, thậm chí trong giấc mộng cũng không quên, khi ngủ lúc thức đều như nhau,
công phu sẽ miên mật thành phiến, được xem là đắc lực.
Từ nay đem hết cái tâm vọng tưởng, truy cầu
phan duyên lúc bình sanh, tóm thâu toàn bộ lại để buông xả, tập trung hợp nhất
với câu A Di Đà Phật, hầu trở về với tự tánh Di Đà của mình. Niệm niệm không
thay đổi, tâm tâm không dứt đoạn, xưa kia vọng tưởng, tạo thành nhân ô nhiễm
luân hồi, niệm Phật một câu chính là tịnh nhân ra khỏi sanh tử, nếu có thể đem
tịnh niệm này xông đi những nhân tố ô nhiễm khổ đau biến thành nhân tố chân
chính của Tịnh Độ, thì lập tức khiến những nhân quả khổ đau từ vô lượng kiếp đến
nay trở thành nhân quả an lạc của Tịnh Độ. (Trích từ tập “Sanh tử tâm thiết” của Pháp sư Tự Liễu-
Cư sĩ Diệu Hà dịch – in năm 2017- tại
nhà xuất bản Hồng Đức)
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét