HỌC PHẬT LÀ ĐỂ TRỞ THÀNH
NGƯỜI TỰ DO
Nhu cầu học Phật là để mong cầu trở thành người
có hạnh phúc. Muốn có hạnh phúc chúng ta thực hành bốn hạnh, gọi là Tứ vô lượng
tâm, là bốn loại tâm rộng lớn, đó là Từ, Bi, Hỷ và Xả.
Nếu thực hành được hạnh Từ,
ta sẽ vui và người khác cũng vui. Nếu thực hành được hạnh Bi, ta sẽ vui và người
khác cũng vui. Nếu thực hành được hạnh Hỷ, ta sẽ vui và người khác cũng vui. Nếu
thực hành được hạnh Xả, ta sẽ vui và người khác cũng vui.
Thực hành đầy đủ bốn hạnh Từ-Bi-Hỷ-Xả,
là ta đã có hạnh phúc và những người khác cũng có hạnh phúc. Hạnh phúc nầy gọi
là hạnh phúc nội tại, không bị ai lấy cắp được, tranh giành được, khác với hạnh
phúc bên ngoài, như của cải vật chất, tiền tài danh vọng…
Ngược lại ta sân, sẽ khiến
thân tâm ta nặng nề, nóng bức, khiến người khác lo sợ bất an. Ta không vui người
khác cũng không vui. Ta tham khiến khiến tâm ta rối loạn bất an, khiến người
khác cũng bất an lo sợ. Ta si khiến tâm ta mê mờ tán loạn, không an, không sáng
suốt, không minh mẫn, không làm cho ta và những người khác an lạc hạnh phúc.
Vậy chính tham, sân, si là
nguồn gốc đưa đến bất an và đau khổ cho ta và người khác, dẫn đến không an lạc
và hạnh phúc. Như vậy, học Phật là để thực
hành bốn hạnh Từ-Bi-Hỷ-Xả, ta mới có hạnh phúc an lạc, chứ không phải để lễ lạy,
cầu xin, tụng đọc mà có được.
Học Phật là mong được giải
thoát, học Phật là sự mong cầu giải phóng sự ràng buộc để trở thành người tự
do, không bị trói buộc. Vì thế trong kinh Phật dạy: Người hãy tự mình thắp đuốc
lên mà đi, đừng nương tựa người khác, tự thân ta là hồn đảo cho ta…Như vậy học
Phật không phải là một sự mê tín dị đoan, nghe đâu tin đó, mà phải có sự thẩm định.
Vì thế sự học phải qua sáu giai đoạn: 1/ Học để nhớ. 2/Học để hiểu, 3/ Học để ứng
dụng, 4/ Học để phân tích, chọn lựa, 5/ Học để đánh giá, để thẩm định, 6/ Học để
sáng tạo, để cải tiến, để thay đổi nhận thức, tư duy và hành vi của mình.
Học Phật là cầu mong giải
thoát, tức trở thành người tự do, Đức Phật là người tự do. Tự do ở đây khác với
tự do ở thế tục. Tự do không có nghĩa là muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ, muốn
chơi thì chơi. Mà là một sự tự do có nhận thức, có chánh niệm, tự do mà tự làm
chủ được thân và tâm của mình, chứ không phải tự do lệ thuộc vào ăn, uống, ngủ
nghỉ chơi bời. Mà sự tự do độc lập, không bị bản năng chi phối, tự do trong kỷ
luật, trong khuôn khổ.
Để có tự do phải có kỷ luật,
thích tự do mà không có kỷ luật, thì tự do đó không đưa đến hạnh phúc và an lạc,
cho tự thân và tha nhân. Vì thế tự do và kỷ luật theo Phật học gọi là “Bất nhị”,
tức là không Hai không khác. Khi đã có tự do nó được chuyển hoá từ kỷ luật. Như
vậy có kỷ luật thì có tự do, muốn có tự do phải tuân thủ kỷ luật. Có sự chuyển
hoá giữa Tự do và Kỷ luật là do quá trình luyện tập nó trở thành thói quen. Khi
đã trở thành thói quen chúng ta không cần phải gìn giữ kỷ luật nữa, lúc đó ta
trở thành người tự do. Ví dụ mới đầu ta chưa biết đị xe đạp nên phải tập, có
người giữ xe cho khỏi ngã ta mới đạp được. Khi ta tập quen rồi không cần người
giữ xe nữa, ta không còn lo sợ té ngã nữa. Kỷ luật cũng vậy, mới đầu ta thấy
khó, nhưng lần quen ta thấy dễ. Khi đến giai đoạn dễ ta thấy mình tự do và
thích thú khác với trạng thái ban đầu. Vì thế, các người mới vào đạo Phật lo sợ
ăn chay và giữ giới, nhưng hai thứ ăn chay và giữ giới không đáng lo ngại. Hai
thứ này tập quen rồi ta thấy không còn khó nữa.
Như vậy phải yêu quý kỷ luật
ta mới có tự do, tự do và kỷ luật tương tác với nhau không còn là hai nữa gọi
là Tương tức, tức không hai không một.
Muốn trở thành người tự do chúng ta phải yêu thích kỷ luật. Ba quy y và
năm giới cấm là không sát, không đạo, không dâm, không dối, và không say nghiện.
Chính 5 điều đưa con người đến tự do và hạnh phúc. Sở dĩ chúng ta thấy những
người trong tù, trong trại giam, là những người không được tự do và hạnh phúc,
là vì những người này không thực hành 5 điều hạnh phúc. Họ vi phạm các điều sát
sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, say sưa nghiện ngập và phải bị luật pháp thế
gian đưa vào tù, đã mất tự do hạnh phúc cũng không còn.
Vậy những ai muốn trở thành
người tự do và có hạnh phúc phải yếu thích kỷ luật. Kỷ luật ở thế gian giúp con
người hoàn thiện tư cách một con người. Còn luật Phật chế vượt trên kỷ luật thế
gian để trở thành người tự do không phải chỉ ở đời này mà còn nhiều kiếp đời
sau nữa. Không những hoàn thiện với tư cách một con người mà là nền móng để tiến
lên bậc hiền thánh và quả vị Phật trong tương lai.
Vì thế đến với đạo Phật có
hai giai đoạn, giai đoạn một là giai đoạn hướng thiện, tức hướng đến thực hiện
Tam quy và ngũ giới. Giai đoạn hai là hướng thượng, tức tiến lên làm thánh, làm
Phật, để ra khỏi sanh tử khổ đau. Đó là mục
đích của đạo Phật nhắm đến, muốn cho mọi người, mọi chúng sanh đều ra khỏi
khổ luân hồi. Trong kinh Pháp Hoa nói: Như Lai xuất hiện nơi đời duy chỉ có một
việc là Khai,Thị, Ngộ, Nhập, Phật tri kiến cho chúng sanh. Chúng sanh Ngộ, Nhập
được Tri kiến Phật rồi, tức là thể nhập được Tự tánh của mình, lúc đó đã trở
thành người tự do. Không còn bị mê hoặc bởi lục trần nữa, ra khỏi sông mê bể khổ,
trở thành người tự do thật sự.
Vì thế đến với đạo Phật
không phải để làm việc lành tránh điều dữ đơn giản như mọi người nghỉ tưởng, mà
là để trở thành người tự do, không bị sanh tử dẫn dắt đi trong sáu nẽo luân hồi
lục đạo nữa./.
{—]–{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét