THĂM
BỆNH
Phật
dạy có 8 phước điền, đi thăm bệnh là một trong 8 thứ phước, nên hành giả tu tập
cần phải thực tập đi thăm bệnh. Thăm bệnh là một pháp tu, vì thế trong Tỳ Ni Nhật
Dụng có bài Khán bệnh, tức thăm bệnh,
hay chăm sóc người bệnh như sau:
Kiến
tật bệnh nhơn - Đương nguyện chúng sanh
Tri thân không tịch - Ly quai tránh
pháp
Án, thất rị đa, thất rị đa, quân tra rị,
sa bà ha.
Dịch
nghĩa: Khi thấy người tật bệnh – thương tưởng đến chúng sanh - Tự biết thân vốn không –
Nên tránh xa tranh cãi.
Tật
bệnh là trạng thái bất an của thân thể, khiếm khuyết hay đau đớn trên thân thể,
là một trong bốn tướng, sanh, già, bệnh, chết. Không ai tránh khỏi bốn quy luật này.
Chúng
sanh: Còn gọi là chúng hữu tình, là loài hữu tình có tình thức, có sự sống chết,
ham sống sợ chết. Là loài hữu tình sống trong ba cõi, còn bị sanh tử luân hồi
trong lục đạo.
Không tịch: Là vắng lặng tâm không dấy
động, trạng thái tịch tĩnh, như nước bình lặng không có gợn sóng.
Khi
thấy người tật bệnh (Kiến tật bệnh nhơn)
Nhìn
thấy người tật bệnh
Khi
thấy người tật bệnh, chúng ta liên tưởng đến bốn thứ khổ của chúng sanh, không một
ai có thể ngoại lệ. Phàm có thân tất nhiên phải có bệnh, không luận già, trẻ,
nghèo giàu, sang hèn, đều không thoát khỏi. Một khi bệnh đến thì nỗi đau lại
hành hạ khổ sở, bệnh nặng thì đau nhiều, bệnh nhẹ đau ít hơn.
“Già trẻ sang hèn giống nhau,
Đến khi lâm bệnh khổ đau tột cùng,
Thân tâm đau thấu muôn trùng,
Nghiệp mình tự chịu trách cùng hởi ai”
Thích
Liễu Nguyên
Bệnh
tật là một cái khổ trong 4 cái khổ lớn nhất mà đức Phật đã thuyết bài pháp đầu
tiên, là Tứ diệu đế. Do vậy, đức Phật khẳng định rằng thế giới này là thế giới
khổ đau. Bởi chúng sanh hữu tình sống trong cảnh giới này từ nơi 4 tướng: Sanh,
lão, bệnh, tử mà có, còn chúng vô tình là những thứ vật chất cũng do 4 tướng: Thành, trụ, hoại, không mà
sanh. Chính vì vậy, hữu tình và vô tình chẳng có cái gì thực hữu nên gọi là khổ,
vô thường, vô ngã của tam pháp ấn.
Như
vậy, hiện tại chúng ta đang sống với 4 tướng ấy, và nó đang tìm tàng ở trong
ta. Nó có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và cho ta một nỗi khổ kinh hoàng. Thế nhưng
chúng ta vẫn dửng dưng không hay không biết. Từ điểm này đức Phật dạy bảo hàng
đệ tử, khi không có bệnh mà nhìn thấy người khác bệnh thì hãy truy niệm về mình
với nỗi thống khổ ấy để làm bài pháp tu tập và quán niệm.
Khi mình bị bệnh thống khổ thì mình không
có đủ trí lực để quán niệm tu tập. Ta nên tu tập và quán chiếu khi còn đủ sức
khỏe và minh mẫn, nhìn xác chết của người mà nghĩ đến mình lúc nào đó cũng sẽ
chết, nhìn thấy người bệnh tật mà quán chiếu thân mình có lúc cũng bịnh tật. Ta
cần phải quán 4 tướng sanh, già, bệnh, chết đang ở trong ta, cho đến khi ta vỡ
lẽ Giác ngộ. Sự giác ngộ của Thái tử Tất đạt đa là bắt nguồn từ khi nhìn thấy 4 tướng khổ và hỏi người đánh ngựa, mới biết
mình và phụ vương cùng thân bằng quyến thuộc không ai thoát khỏi cảnh tượng ấy.
Chính từ cảm nhận ấy, Ngài mới đi tìm con đường xuất gia tu học để được ra khỏi
khổ đau của 4 tướng đang trói buộc. Vì vậy, khi thấy người bệnh là thấy cái bệnh
đang ở trong ta và quán chiếu sự khổ đau trổi dậy với ta và người thân. Đây là năng
lực chính giúp cho Thái tử quyết tâm đi tìm con đường giải thoát khổ đau. Biết
bệnh phải chữa hết bệnh, chứ không mãi mê với giọt mật của cuộc đời, thì không
giải quyết được vấn đề gì. Khổ vẫn hoàn khổ với những người nhìn thấy người
khác bệnh khổ mà chẳng quan tâm, hay khi mình bị bệnh khổ thì rên xiết, hết bịnh
lại vui chơi bình thường, giống như đứa bé thật đáng thương, lẩn quẩn trong khổ
mà không hay biết. Quả thật, sống trong sanh tử mà chẳng biết sợ sanh tử là gì,
nhưng khi đối đầu lại khóc lóc bi thương.
Khi
nhìn thấy người khác bệnh khổ, Ngài đã tự tìm ra đáp số làm gì và phải như thế
nào, cuối cùng đã giải thoát mọi khổ đau trong đời. Ngài đem đáp số ấy trình
bày trong bài pháp đầu tiên. Nhờ đó, 5 anh em Kiều Trần Như cũng được chứng đắc
tại vườn Lộc Uyển và làm đệ tử của Ngài. Và đến khi thuyết kinh Hoa Nghiêm,
Ngài nhắc lại bệnh khổ khi nhìn thấy qua thi kệ “khán bệnh” mà khuyên chúng đệ
tử cần phải hành trì và tu tập.
Thương
tưởng đến chúng sanh (Đương nguyện chúng sanh)
- Đối tượng tu tập.
Khi
ta an vui mạnh khỏe mà thấy người bệnh hay chúng sanh đang bị bệnh tật rên xiết
khổ đau. Lúc đó ta cần mở lòng thương đến giúp được gì trong khả năng để họ bớt
đau khổ thì nên làm ngay. Thứ nữa là quán chiếu cái khổ của bệnh tật sẽ đến bất
cứ ai, sang hèn, giàu nghèo cũng không ai tránh được, có thân phải có bệnh là
quy luật tự nhiên. Nay chúng ta là con người mỗi khi có bệnh, có thuốc, có bác
sĩ, thời bệnh sẽ chữa hết, còn những con vật sống chung với con người thì được
chủ chạy chữa. Nhưng loài thú hoang dã, mỗi khi bị bệnh thì phải chịu đau đớn
hành hạ cho đến chết mới chấm dứt. Hoặc bị bệnh hơi yếu sức, bị cả đàn bỏ rơi lại,
tạo cơ hội cho loài thú khác đến cướp đi sanh mạng, hãy tự biết rằng, ngày hôm
nay ta đang khỏe mạnh, ngày mai sẽ sanh ra bệnh tật, cả quyến thuộc vợ con hay
những người và vật mà mình thương yêu cũng vậy. Khi ta cảm nhận được như thế,
nó sẽ trở thành năng lực mạnh mẽ bên trong giúp cho ta tiến tu giải thoát. Tóm
lại, tật bệnh của chúng sanh là hiện tướng cho ta được nhìn thấy và cảm nhận thế
giới vô thường và khổ đau. Khi ta nhìn thấy chúng sanh hay người khác đau bệnh,
thì ta phải biết cảm ơn họ, vì họ đã cho ta thấy cái biết mà tự cảnh tỉnh, cho
ta thấy được, cái thân của ta giả tạm, quyến thuộc mỏng manh, thế giới vô thường,
khổ, cho ta thấy được mọi thứ giai nhân mỹ nữ chỉ là phù du đau khổ, mà không bị
trói buộc đam mê hay sa đọa, cho ta một chút ánh sáng trong đêm tối, hé lộ cho
ta một con đường tìm về giải thoát ra khỏi khổ đau.
Tự
biết thân vốn không (Tri thân không tịch).
Đứng trên thân mà nói thì có rất nhiều
thứ bệnh tật, những thứ bệnh do tứ đại bất hòa gây ra thì lẽ dĩ nhiên rồi, còn
những thứ bệnh do từ không tri thân này vốn không tịch nên sanh ra bệnh cố chấp,
rồi dẫn đến ái chấp nặng về nó, thành thử đưa đến trọng bệnh cho đời này và dẫn
đến nhiều đời sau nữa, làm chướng ngại cho
tiến trình tu tập hiện tại (giác ngộ) và siêu thoát cho mai sau (vãng
sanh Tịnh độ). Không biết thân như huyễn
nên sanh bệnh chấp thường, không biết thân như mộng nên sanh ra bệnh chấp thật,
không biết thân vốn là vô thường mà sanh ra bệnh chấp thường, không biết thân
như bóng nước mà sanh ra bệnh chấp đẹp, không biết thân là ảo giác mà sanh ra bệnh
chấp hữu, không biết thân giả hợp vốn không mà sanh ra bệnh chấp có. Trong kinh
Pháp Hoa ví thân này hay cõi tam giới như ngôi nhà lửa đang cháy mà không hay
không biết, cứ mãi vui đùa tranh đua nhảy
nhót, đến khi khổ xuống mới than ôi khóc lóc là chuyện đã muộn màng. Vì thế,
nghiệp từ đây sanh, khổ đau hay luân hồi sanh tử cũng do đây mà có. Vậy thì
thân này hay cuộc sống này có gì vui, có gi thắng thua, phải lẽ. Chỉ vì không
biết tri thân mà thôi, nên tịch tĩnh không sanh, giác ngộ không thành, giải
thoát không đến. Chỉ đến toàn những thứ vớ vẫn lung tung đầy khổ đau.
Nên
tránh xa tranh cãi (Ly quai tránh pháp)
Tranh
cãi là những thứ vớ vẫn lung tung. Tranh cãi chính là nguyên nhân sanh ra nghiệp
đau khổ, sân hận và luân hồi. Kinh Tạp A
Hàm ghi “Nên biết Tỳ kheo này ngang ngạnh lâu dài, tranh cãi, kiện tụng càng
tăng, chống đối nhau, nuôi hận càng ngày càng sâu”. Và Kinh Tăng Nhất A Hàm, phẩm
Ngũ Giới nói rằng: “Này các Tỳ kheo, nếu có người nào nói dối, nói thêu dệt,
gây tranh cãi phải quấy, thì liền bị đọa vào Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh”. Hay
nói chính xác hơn là nên cẩn thận và phải biết kiểm soát miệng lưỡi của mình, lại
càng nên xa lánh vũ khi miệng lưỡi. Cần phải biết, nói năng như Chánh pháp hay
im lặng như Chánh pháp, mới tốt hơn. Ít nói chừng nào thì nội lực càng tăng chừng
ấy.
Sự thật, người bệnh nặng, họ không còn
đủ sức để nghĩ về việc phải trái hơn thua và họ cũng không muốn phân tranh với
ai. Bởi sự đau đớn của bệnh hành họ quá đủ mệt rồi, còn đâu mà nghĩ đến chuyện
phân tranh nhân ngã. Đây là bản năng “buông xả” của người bệnh, để có cơ hội
sinh tồn và phục hồi sức khỏe. Người bệnh không muốn tranh chấp với ai, điều
duy nhất họ mong cầu sớm hết bệnh. Người sắp chết càng thấy trống rỗng hơn, vì
biết rằng sẽ không còn gì sau khi chết. Người bệnh không bao giờ tranh cãi với
ai, càng không muốn tranh cãi với nhau lúc này. Họ chỉ muốn nghe những lời từ
ái, vì lời từ ái giúp họ vượt qua cơn bệnh khổ đau này. Chính vì vậy, mới biết rằng
Việc tranh cãi sẽ làm tổn hao năng lượng sức khỏe rất nhiều, người đang
khỏe mạnh tranh cãi một lúc sẽ sanh mệt mỏi yếu đi. Cho nên, người thăm bệnh bất
kỳ trường hợp nào cũng không được phân tranh, cãi lại hay chối bỏ với người
đang bệnh dù là có ý tốt. Chỉ biết lắng nghe, là đã giúp đỡ họ cải thiện bệnh tật
rồi, còn làm hay không làm theo là chuyện của người thăm bệnh cần phải suy xét.
Chúng ta thăm bệnh cũng không nên đem chuyện tranh cãi bên ngoài nói cho người
bệnh nghe, hay từ thái độ hay cử chỉ nào bất đồng của chúng ta và bên ngoài lề
xã hội cũng không được biểu lộ cho người bệnh biết. Người bệnh, mạng sống của họ
tợ như sợi dây chỉ, chỉ cần một cú sốc hay một chấn động mạnh họ sẽ bị đứt
ngay, chẳng khác gì ta đã vô tình giết chết họ. Chính vì vậy, có nhiều chính trị
thủ đoạn, muốn giết người bệnh để bịt khẩu hay mưu sự chuyện khác nên dùng cách
là tạo ra biến cố lớn gây sốc người bệnh đưa đến tử vong hay bại liệt. Trong
kinh có câu “Phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung, sở dĩ trãm thân, do kỳ ác
ngôn”, nghĩa là: Xét người ở đời, búa để trong miệng, sở dĩ giết người, do lời
nói ác. Mới biết lời nói tựa như thuốc độc, là vũ khí giết người mà không bị kết
tội.
Tất cả những hạng người tranh cãi đều là
những người mù, vì mù, nên họ không thấy rõ được đâu là đúng với sai, kẻ nói A
người nói B chẳng biết đâu là đúng và sai. Đức Phật kể câu chuyện người mù rờ
voi, mỗi người mù sờ mỗi chỗ và nói theo sự hiểu biết của mình về con voi,
không ai giống ai nên sanh ra tranh cãi lẫn nhau. Tuy nhiên, mỗi người đều nói
đúng nhưng chỉ đúng một phần con voi, không đúng hoàn toàn. Đức Phật là bậc chứng
đắc Phật nhãn nên thấy biết rõ ràng, Ngài nói ra những điều mà người thường
không thể thấy biết được, nhằm mục đích để dạy cho hàng đệ tử tu học. Như bài kệ
uống nước, Ngài nói trong một bát nước có 84.000 vi trùng… người ngoại đạo cho
là hoang đường nên nói ra những lời chê bai mỉa mai…Đức Phật không tranh biện
cãi chánh vì biết rằng họ giống như những người mù, nói cũng vô ích. Mãi đến gần
2000 năm sau nhà khoa học làm ra kính hiển vi đầu tiên, mới biết lời nói của Phật
là chính xác có rất nhiều vi trùng trong một ly nước không thể đếm được. Vậy mới
biết tranh cãi là những hạng người nông cạn, là hạng người mù. Chính từ câu
chuyện của đức Phật, nên người nghiên cứu có ra những cuộc tranh luận không phải
vì hơn thua mà chỉ nhằm tìm ra vấn đề lớn bên trong ẩn số từ cuộc tranh cãi,
tranh luận thôi, góp nhiều cái đúng nhỏ thành cái hoàn hảo lớn. Đây là mặt tốt
của cuộc tranh cãi được gọi là tranh luận làm sáng tỏ vấn đề, còn ngược lại thì
gọi là tranh cãi đốt cháy rụi vấn đề.
Tóm
lại, với người xuất gia nên cần tránh xa việc tranh cãi không những gây ra bất
hòa mà còn tổn hại đến Tăng đoàn, việc tu chứng và dẫn đến bất lợi cho kiếp mai
sau. Trong kinh Nikaya, phẩm mắng nhiếc: “Này các Tỳ kheo, là người gây ra cãi
cọ, là người gây ra đấu tranh, là người gây ra các cuộc đấu khẩu, là người gây
ra kiện tụng trong Tăng chúng. Vị ấy chờ đợi năm sự nguy hại. Thế nào là
năm? Không chứng điều chưa chứng được,
thối thất điều đã chứng được, tiếng ác đồn khắp, khi mạng chung, tâm bị mê loạn, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục…” Cho nên cần phải
tránh xa tranh cãi càng nhiều càng tốt cho dù bất cứ trường hợp nào, nhất là việc
đi thăm bệnh.
Kinh
Pháp cú 15
“Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh, giữ ốm đau,
Giữa những người bệnh hoạn
Ta sống, không ốm đau”.
(Trích: Tỳ Ni giảng giải (sống một ngày trọn
vẹn) Thích Phước Mỹ)
—]–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét