TÁN
THÁN PHẬT HAY KHEN NGỢI PHẬT
TÁN PHẬT TƯỚNG HẢO
ĐƯƠNG NGUYỆN CHÚNG SANH
THÀNH TỰU PHẬT THÂN
CHỨNG VÔ TƯỚNG PHÁP.
Khen ngợi Phật công đức vô lượng. Đã là
Phật mà cần phải khen ngợi nữa sao? Dĩ
nhiên Phật đã vượt ra ngoài sự khen chê, tốt xấu, nhưng chúng ta không làm sao
sống như Ngài được, nên còn vướng niệm tốt xấu, khen chê. Nhưng điều mà chúng
ta có thể làm là cố gắng tập cách sống buông bỏ niệm khen chê và niệm tốt xấu,
mà luôn sống với niệm khen, niệm tốt nhiều hơn, để chuyển hướng tâm về con đường
thiện, may ra chúng ta sớm được như Ngài. Dù khen Phật hay khen bất cứ ai là
người đáng khen cũng đều chuyển tâm của mình hướng về thiện quả, nhưng người
đáng khen nhất chính là đức Phật, thì thiện quả đến với ta cũng cao nhất. Đức
Phật là bậc Đạo sư của ta, là bậc tôn quý của ta, là bậc giới hạnh và trí tuệ vẹn
toàn, giúp cho chúng ta dễ sanh niệm khen hướng thiện nhiều hơn. Trong kinh
Pháp Hoa nói, nếu có người nào vào chùa chỉ một cái cúi đầu, một cái lễ lạy,
thì đời đời thế nào cũng sẽ thành Phật, hay câu “ư nhất niệm quy y năng diệt
tam kỳ nghiệp”, chỉ trong một niệm hướng về Đức Phật, cũng diệt được tội chướng
trong ba a tăng kỳ kiếp.
Nếu ai chưa làm được việc này, thì thử
hỏi trên đời này ta còn khen ngợi được ai? nếu ta chỉ biết sống trong niệm xấu,
rồi mãi phải trôi lăn vào trong đen tối của nẽo đời này sao! làm sao thoát kiếp
luân hồi sanh tử. Cho nên khen Phật là tự khen chính mình, để rồi tự đưa mình về
bến giác. Muốn về bến giác chúng ta hãy cân nhắc kỷ lưỡng trên vấn đề khen chê.
Nếu ta đem lời khen, khen những người làm điều xấu ác thì tai hại vô cùng, hay
ta dùng lời chê bai những người đáng khen cũng tai hại tương tự. Cả hai đều đưa
mình vào nẽo ác và đen tối. Vì thế, trong kinh nói:
Ai khen người đáng chê
Ai chê người đáng khen
Đều chất chứa bất hạnh
Do ta miệng tạo thành
Cho nên vấn đề khen chê chúng ta không
thể ngẫu hứng tùy tiện vui đùa mà phải cân nhắc kỷ càng. Khi khen người đáng
khen thì thiện quả của ta tăng trưởng. Nên Kinh Tăng Chi Bộ phẩm Tán thán có
câu “Có suy tư, có thẩm sát, không tán thán, người không xứng đáng được tán
thán. Có suy tư, có thẩm sát, tán thán người xứng đáng được tán thán. Như vậy
tương xứng được sanh lên cõi trời”. Lại kinh Tăng Nhất A Hàm phẩm Tàm quý có
câu “Có hai hạng người được phước vô lượng, thế nào là hai? Người khen ngợi điều
đáng khen ngợi, người không khen ngợi điều không đáng khen ngợi. Đó là hai hạng
người được phước vô lượng”.
Như
vậy, khen ngợi cũng là một pháp tu để tăng trưởng phước đức và thiện quả cho
mình, và định hướng cho mình một hướng đi cụ thể. Vì thế khen ngợi Phật, bởi vì
Ngài là bậc đã giải thoát sanh tử luân hồi, ta cũng muốn được như Ngài vậy.
Ngài là bậc Đại từ bi và trí tuệ đạt đến quả Niết bàn, ta cũng nguyện được như
vậy, cho nên ta luôn luôn tán thán Ngài, thì lời tán thán ấy giúp cho tâm ta chỉ
hướng về con đường mà ta khen ngợi bậc ngợi khen đã làm được và ta cũng sẽ
thành tựu về mai sau.
Nên khen Phật là để cho tâm ta được
dõng mãnh đi con đường mà Ngài đã đi. Khi ta tán thán Phật là trong lòng ta
hoan hỷ với Phật, vui mừng với Phật là ta đã hòa hợp vào ánh sáng trí tuệ của
Phật, nên ánh sáng tự tánh của ta cũng sẽ được hiển lộ. Tán thán Phật là một cử
chỉ thánh thiện nó được bắt nguồn từ hàng chư Thiên thường làm theo nghi lễ
cung kính tán thán, đảnh lễ và nhiễu Phật mỗi khi muốn thỉnh nguyện Phật. Cử chỉ
đẹp này của chư Thiên đối với đức Phật, được lưu truyền đến ngày nay. Vì thế mỗi
khóa tụng kinh nào cũng đều có phần tán thán và đảnh lễ Phật, sau mới tụng
kinh.
Trong hàng chúng sanh chỉ có con người
và chư Thiên mới có sự tư duy, suy nghĩ, tốt xấu, khen chê… Đây được gọi là phước
báu của Trời người. Thế nhưng, có nhiều người không biết tận dụng phước báu ấy
để tăng thêm phước cao hơn. Như chư Thiên tuy xa cõi người, nhưng họ biết tận dụng
đúng lúc Phật còn tại thế thường xuyên đến tán thán, đảnh lễ, vấn an và tham hỏi.
Chư Thiên đã có phước còn tạo thêm phước, thật là khôn ngoan hiểu biết. Còn ngược
lại rất nhiều người có phước báu mà không biết tạo thêm phước, để rồi hết phước
rơi vào đường khổ, chuốc lấy khổ đau cho hiện tại và mai sau, đánh mất phước báu
mà hàng trời người đang có. Chúng ta đang được làm thân người là đã có phước,
đã có phước muốn có phước cao hơn nhiều hơn, thì sống theo hạnh khiêm cung cầu
tiến và chơn thật. Có như thế, có phước lại sanh thêm phước cao hơn và có cơ
may sẽ sớm được giải thoát về cõi an lạc. Nhờ công đức tán thán Phật, vô hình
trung chúng ta sẽ không tạo tội nghiệp, không khởi vọng tưởng, vọng tưởng sẽ giảm
đi một phần thì ánh sáng trí tuệ đã hiển lộ nhiều thêm một phần. Còn các loài
chúng sanh dưới con người thì không có phước báu này, nếu có chăng rất ít, chỉ
thể hiện trên cử chỉ động tác. Những chúng sanh ở cảnh giới nầy càng thấp, lại
càng không có và sống trong sự đen tối, chỉ ngoại trừ loài chúng sanh thấp kém
lại có duyên với Phật và biết quy y Tam bảo.
Như vậy, mong sao cho tất cả chúng sanh, hãy
luôn sống trong niệm tán thán đức Phật, hay cho nhau để có cơ may sanh niệm
hoan hỷ và phước đức, tạo nhiều phước báu, mà sớm giải thoát thế giới khổ đau.
Mong được thành Phật.
Mong được thành Phật là điều mong muốn
tối hậu cho tất cả người con Phật. Tất cả các pháp tu Phật dạy đều quy tụ về điểm
ấy. Như trăm sông chảy về biển, vậy thân Phật là gì ? Là thân đã cởi trói mọi
ràng buộc trong cuộc đời, là thân buông bỏ tất cả gánh nặng của thế gian, là đạt
được đỉnh cao nhất quả giải thoát giác ngộ. Thân ấy được gọi là Phật, gọi tắt
là thân Phật. Đức Phật có ba thân :
1/ Ứng thân, hay còn gọi là Hóa
thân, là thân tùy vào cảnh giới nào mà ứng hay hóa hiện thân vào cảnh giới ấy,
đồng giống với thân của những chúng sanh cảnh giới ấy để thể hiện cuộc độ sanh
(Ứng thân có hai phần: 1/ Nhục thân, thân do cha mẹ sinh ra, bằng xương bằng thịt,
2/ Tượng Ứng thân: Là thân do điêu khắc tạo nên, vẽ thành hình tượng.
2/ Báo thân: Là thân có đầy đủ
phước báo của chư Phât. Gồm 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp về tướng, còn về thể có đủ
tam minh, tứ trí, ngũ nhãn, lục thông. Báo thân cũng chia làm hai Phần: 1/ Ứng báo thân: Là trên Ứng thân có hiện đủ 32 tướng tốt và
80 vẻ đẹp, là phước báo của Ứng thân. 2/
Pháp báo thân: Là Pháp thân có đầy đủ phước báo là tự tánh nhiệm mầu cùng khắp
tất cả trong không gian và thời gian, và giáo pháp Pháp thân cũng có phước báo
hiệu năng giúp cho hành giả giải thoát mọi khổ đau và sanh tử luân hồi.
3/Pháp thân: Là thân vô tướng, là chủng
tử Phật tánh bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Pháp
thân chia làm hai phần. 1/ Tự tánh pháp
thân: Là bản thể thanh tịnh nhiệm mầu, 2/ Giáp pháp Pháp thân: Là lời Phật dạy
trong ba tạng giáo điển. Giáo pháp Pháp thân chia làm hai: A/ Hữu tự giáo pháp,
in viết thành kinh sách, B/ Vô tự giáo pháp là pháp không dùng lời nói, văn tự,
là pháp truyền tâm ấn, tâm truyền tâm, trí đức và giới hạnh.
Mỗi khi ta tán thán Phật là bắt nguồn từ chỗ
nhìn thấy tướng hảo của tượng Phật mà ta khởi tâm cung kính và miệng nói lời
khen ngợi. Như vậy nhân nơi tướng hảo tượng Phật mà tâm sanh cung kính, nhân
tâm sanh mà miệng nói ra lời khen ngợi và thân đảnh lễ Phật. Vậy là khi ấy, đồng
lúc ba nghiệp được thanh tịnh, đây chính là nguyên nhân dẫn đến thành tựu Phật
thân. Hay nói cách khác, khi tam nghiệp thanh tịnh thì Phật thân trong ta tự hiển
lộ, như bầu trời trong suốt thời mặt trăng cũng tự hiển hiện. Cho nên, mới biết
khen ngợi đức Phật là cách tự vén màng vô minh đen tối thì tâm ta nhận được những
đặc tính thù thắng của tam thân Phật.
Mong ước chính là sự hoài bảo để cho ta
có điểm hướng đến và trưởng dưỡng trong tâm dần dần sanh khởi điều mong ước ấy.
Tán Phật không chưa đủ mà cần phải mong ước được thành Phật, mới là điểm cần
thiết. Sự khởi đầu của mong ước là mong hành tựu được 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp,
tức là mong thành báo thân Phật. Hay nói ngược lại, từ bao thân Phật chúng ta
cái nhìn thấy vẻ đẹp về tướng mà tâm sanh ra mong ước, dẫn đến tánh sớm trở về
bản nguyên, tức là thành tựu Phật báo thân, chứng ngộ pháp vô tướng (chứng vô
tướng pháp).
Sở chứng của Bồ tát
Khi thành tựu Phật thân, cũng có nghĩa
là chứng được ngã không của hàng Thanh văn, trong kinh Pháp Hoa gọi là Hóa
thành. Ở đây, lại nhắc nhỡ ta nên chứng thêm bậc nữa là pháp không của quả vị Bồ
tát. Quả vị này mới có thể nhìn thấu được vạn pháp là vô tướng, chân không. Đến
đây, mới gọi à chứng rốt ráo về pháp thân Phật.
Từ chỗ hữu tướng cho ta nhìn thấy có 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp mà sanh lòng tán thán và mong ước. Khi thành tựu được Phật
thân rồi, ta có cái nhìn chứng đắc và nhìn trở lại 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp ấy
thì thấy nó thực là vô tướng, không còn có cái để mong ước nữa. Như vậy hữu tướng
hay vô tướng là do cái nhìn của người chứng hay không chứng mà thôi. Ngay trong
hiện tại, người chứng ngộ vẫn nhìn thấy pháp vô tướng của vật đang hiện hữu trước
mắt, chứ không cần phải đợi quán chiếu. Nên trong Kinh Kim Cang có câu “Vì sao?
Như Lai nói thân tướng đó, tức chẳng phải thân tướng. Phật bảo Tu Bồ đề Phàm những
gì có hình tướng, đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng, thì thấy
Như Lai”. HT Tuyên Hóa giải thích “Nếu như có thể thấy được mọi tướng là không
có, ở ngay tướng mà lìa tướng, nghĩa là ngay tại tướng liền biết rõ nó chỉ là
không, thì đó là thấy được pháp thân của Như Lai. Pháp thân của Như Lai là vô
hình vô tướng”.
Chứng ngộ pháp vô tướng có nghĩa là chứng
ngộ chân không. Chân không ở đây, không phải trống không đối với có mà là không
ở giữa cái có và cái không. Như vậy chứng vô tướng cũng có nghĩa là chứng lý
trung đạo. Thái tử Tất Đạt Đa nhờ tìm ra
lý trung đạo mà chứng quả Vô thượng Bồ đề. Kinh Chuyển Pháp Luân (HT Minh Châu
dịch): “Này các Tỳ kheo, có hai điều thái quá, người xuất gia không nên theo,
Thế nào là hai? Một là mê đắm dục lạc, hạ liệt, phàm phu, không xứng thánh hạnh,
không thiệt lợi đạo. Hai là tu khổ hạnh, khổ đau, không xứng thánh hạnh, không
thiệt lợi đạo. Này các Tỳ kheo, chính nhờ từ bỏ hai điều thái quá này, Như Lai
Giác ngộ trung đạo, con đường đem đến pháp nhãn, trí tuệ đưa lại an tịnh, thượng
trí, chứng Niết bàn. Như vậy, lý trung đạo là lý ly khai tướng đối đãi của thế
gian. Hay nói cụ thể là sống trong đời mà không nhiễm đời “Cư trần bất nhiễm trần”.
Đây được gọi là lối sống trung đạo hay là vô tướng. Sống vô tướng là sống không
bị vướng bởi tướng không và tướng có của đời. Vô tướng không có nghĩa là chạy
trốn mà là đối diện với không và hữu. Nhờ bùn và nước nên củ sen mới nở hoa.
Như vậy muốn chứng pháp vô tướng thì phải ngay trong đời này, gần hơn nữa là
ngày trong đương niệm và đang đối diện với đời mà hoa vô tướng tung nở thì ngay
tức khắc liền thành tựu quả Chánh giác, hay thoát nhiên đại ngộ.
(Trích Tỳ Ni giảng giải (sống một ngày trọn vẹn)
Thích Phước Mỹ).
—]–
Khi
chứng thánh quả rồi có 5 loại nhãn: Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn,
nhất thiết Phật nhãn. Gọi
là Vô ngại nhãn, 5 loại mắt không bị ngăn ngại.
1/
Thiên nhãn: Thấy rõ xa gần, lớn nhỏ, ngày đêm, hay vật ngăn cách không bị trở
ngại.
2/
Tuệ nhãn: Thấy rõ các tướng hư giả vốn không là vô tướng, không bị ngăn ngại.
3/
Pháp nhãn: Thấy rõ các pháp môn ở thế gian và xuất thế gian không bị ngăn ngại.
4/
Phật nhãn: Sáng suốt thấu hết tất cả thời gian và không gian đều không bị ngăn
ngại.
5/
Nhất thiết Phật nhãn: Con mắt thấy tất cả đức Phật trong quá khứ, hiện tại vị
lai ở các cõi và kể cả Phật tánh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét