PHONG
TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO ĐẦU THẾ KỶ 20
Bối
cảnh ra đời:
Chương trình chấn hưng Phật giáo có các
giai đoạn bắt đầu từ năm 1945 đến 1954 đến Từ 1954 đến 1960 và 1960 đến 1975 và
1975 đến 1990, 1990 đến 2023. Mỗi giai đoạn đều có những điểm quan trọng.
Phong
trào chấn hưng Phật giáo diễn ra khá sôi nỗi trên truyền thông báo chí. Các hội
Phật giáo lần lượt ra đời tại cả ba miền Bắc-Trung-Nam. Các Phật học đường được
thành lập với mục đích đào tạo những Tăng Ni tài đức cho Giáo hội.
Đến
năm 1945 những chuyển biến của xã hội đã ảnh hưởng đến Phật giáo một cách rõ rệt.
Tại miền Trung, do ảnh hưởng hoàn cảnh chính trị và xã hội, phong trào chấn
hưng Phật giáo có dấu hiệu chậm bước trước những dự kiến mà hội đã đề ra. Do đó
giáo dục Tăng Ni không đủ sức duy trì vì trở ngại kinh phí. Đến năm 1945 sau
ngày Nhật đảo chính Pháp, Phật học đường Kim Sơn ở Huế không duy trì được, nên
phần lớn giáo sư và học Tăng được đưa vào Nam. Năm 1954 bên cạnh thiếu kinh phí,
giới Tăng Ni và cư sĩ tại miền Trung lo thành lập một tổ chức Phật giáo cứu quốc,
nên vấn đề đào tạo Tăng Ni tạm dừng lại. Thay vào đó, các tờ báo làm cơ quan
ngôn luận phục vụ cho công cuộc kháng chiến cứu quốc được ra đời, như báo Giải
thoát, báo Giác ngộ, so với miền Trung, miền Nam có phần khả quan hơn trong hoạt
động giáo dục, khi các trường Phật học vẫn từng bước tiến triển.
Tại
miền Nam Phật học đường Phật Quang ở Trà Vinh thành lập năm 1945 do Thượng Tọa
Thích Thiện Hoa đứng ra kêu gọi nhằm duy trì hoạt động đào tạo Tăng tài. Năm
1946 Phật học đường Liên Hải ở Chợ Lớn, dưới sự chủ trì Hòa Thượng Thích Trí Tịnh
và Thiền sư Quảng Minh. Năm 1944 Phật học đường Mai Sơn thành lập bởi Thiền sư
Huyền Dung, năm 1947 Phật học đường Giác Nguyên thành lập bởi Hòa thượng Thích
Hành Trụ. Năm 1949 Phật học đường Ứng Quang thành lập bởi Hòa thượng Thích Trí
Hữu. Vào giai đoạn 1947- 1948 Tăng Ni trên toàn quốc tham gia vào công cuộc “chống
pháp cứu nước” nên Phật giáo giai đoạn này không có hoạt động gì nổi bật.
Tuy các Phật học đường được thành lập
nhưng quy mô rất nhỏ, cơ sở thô sơ, chương trình đơn giản với các môn học đơn
giản, chủ yếu kinh, luật, luận. Tăng Ni sinh theo học số lượng không nhiều.(từ
30 đến 50 vị). Nhìn lại, sau bối cảnh lịch sử năm 1945 bức tranh Phật giáo Việt
Nam từ những năm kế tiếp không có mốc son nào cho công cuộc chấn hưng. Đến năm
1950 tại miền Nam, đánh đấu sự tiếp nói dòng chảy của hoạt động đào tạo Tăng
tài trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam qua sự hợp nhất các Phật học
đường. Phật học đường Liên Hải, Mai Sơn, Ứng Quang, thành Phật học đường Nam Việt.
Xây
dựng cơ sở hạ tầng:
Năm
1950 chùa Ấn Quang được thành lập trên mãnh đất 500m2 gồm chánh điện, nhà thiền, nhà tổ, nhà bếp
.v.v. bằng các vật liệu thô sơ, vì thế nắng mưa không được an toàn, vật liệu
vách tầm vông và lá dừa nước, nên nắng thì chói vào mưa thì dột, không sót một
chỗ nào. Các cơ sở hạ tầng tại chùa Ấn Quang từ chánh điện đến giảng đường đều
xuống cấp, gây khó khăn cho tín đồ đến hành lễ. Phật học đường Nam Việt lúc đầu
rất khó khăn về vật chất, tuy nhiên về tinh thần thì đầy nhiệt huyết “nơi vách
phênh mái lá lại đông đảo sư tăng nhường nhau từng manh chiếu, vẫn thấy vui sướng
chung nhau ăn ở chia sớt những nỗi buồn lo vinh nhục”
Mặc
dù gặp khó khăn về cơ sở vật chất, nhưng tinh thần giáo dục của các vị lãnh đạo
tại Phật học đường không bao giờ thoái thất, chí cầu học của Tăng Ni vượt khỏi
sự trở ngại của hoàn cảnh và tạo nên một luồng sinh khí mới cho nền giáo dục Phật
giáo tại miền Nam, từ đó thu hút sự chú ý của tín đồ khắp miền Nam, nhờ đó những
hoạt động của Ban hộ trì tam bảo ngày càng phát triển hơn và góp phần kiến thiết
các cơ sở hạ tầng tại trường Phật học Ấn Quang.
Đến
năm 1954 sự tiến bộ của chùa Ấn Quang thấy rõ rệt từ vật chất đến tinh thần, nhờ
sự xúc tiến của Ban hộ trì Tam bảo như Bác sĩ
Lê Văn Cầm, ông Võ Đình Vân .v.v.. Phật học đường bắt đầu thay hình đổi
dạng bằng nhiều giai đoạn.
Năm 1951- 1952 Giảng đường, tăng xá từ mái
tranh vách đất được kiến thiết lại thành mái ngói nền đúc. Năm 1953 chánh điện
được xây cất với kiến trúc có tính cổ điển, đơn giản, trang nghiêm rộng rãi và
mát mẻ. Năm 1965 Tổ đường được xây dựng bằng những vật liệu đúc bằng bê tông,
xây tường, phòng ốc khang trang. Phật học đường Nam Việt dần dần thay đổi từ
hình thức đến nội dung. Về hình thức bước đầu thành lập với vách lá nền đất, về
sau xây dựng kiên cố với mái ngói tường xây nền đúc. Về nội dung ban đầu chương
trình bao gồm các môn nội điển, nhưng về sau có sự kết hợp ngoại điển nhằm đáp ứng
nhu cầu xã hội.
Chương trình đào tạo của Phật
học đường Nam Việt:
Tiếp nối chương trình nội điển đã được
giảng dạy ở Phật học đường Lưỡng Xuyên, Báo Quốc, Phật học đường Nam Việt đề ra
chương trình giáo trong 7 năm với nội dung tổng quát về kinh, luật, luận, các
môn học được giảng dạy các lớp Sơ đẳng, Cao đẳng, như Bát Đại Nhân giác, Di
giáo, Tứ thập nhị chương, Nhị khóa hiệp giải, Di Đà sớ sao, Tâm kinh, Kim cang
Bát nhã, Duy Ma Cật và nhiều phần kinh do Đại Sư Thái Hư giảng giải.
Về Luật, học bốn bộ luật Trường hàng, Tỳ
ni, Sa di, Oai nghi, Cảnh sách, Tứ phần luật sớ, Bồ tát Anh Lạc kinh.
Về luận, như Bách pháp Minh môn, Duy thức
dị giản, Đại thừa Khởi Tín, Đại thừa Chỉ
quán, Duy thức đích khoa học, Duy thức phương tiện đàm .v.v..
Chương
trình trên áp dụng cho các học Tăng Cao đẳng Đại học Phật giáo với thời gian
đào tạo 12 năm. Ngoài ra còn học các môn học phụ được dạy tại Phật học Việt Nam
năm 1951 như Hán văn, Việt văn, Pháp văn, Toán. Trong đó có các lớp Sơ đẳng 1
năm, trung cấp 3 năm.
Giáo thọ năm 1951-1953 gồm Hòa thượng Thiện
Hòa, Nhật Liên, Huyền Dung, Quảng Minh, Quảng Liên. 1954-1957, các vị giáo thọ như
HT Thiện Hòa, Thiện Hoa, Trí Hữu, Nhất Hạnh.
Chương trình đào tạo tại Phật học đường
Nam Việt trong giai đoạn trước 1954 là sự
kế thừa chương trình đào tạo của Phật học đường An Nam và Phật học đường Lưỡng
Xuyên. Tuy nhiên Phật học đường Nam Việt có những bước tiến mới khi chương
trình giáo dục được cải cách vào năm 1953, sau lễ khánh thành Phật học đường
Nam Việt 15/7/ 1953. Chương trình giáo dục được quy định thời gian đào tạo 10
năm gồm ba cấp- Tiểu học 4 năm, Trung học
3 năm, Đại học 3 năm. Trường thu nhận trên 50 Tăng sinh từ miền Trung miền Bắc
và các trường Phật học Giác Nguyên, Liên Hải, Mai Sơn tại miền Nam. Kiến thức
Phật học được xem là quan trọng, khi quy định đó là phần chính và bắt buộc cho
cả Tăng Ni sinh, các học Tăng học Ni muốn vào lớp tiểu học phải có ít nhất
trình độ cấp tiểu học quốc dân.
Thành
tựu của Phật học đường Nam Việt:
Hoạt động của Phật học đường Nam Việt dần
dần thu hút sự chú ý của giới trí thức 22 thời gian không bao lâu chùa Ấn Quang
được một số người trí thức mộ đạo thiết tha ủng hộ, và cảnh Ấn Quang ngày hôm
nay khác hản với cảnh xưa. Hàng trí thức bắt đầu lần lượt nhận thức được đường
lối cao cả của Phật học đường. Như vợ chồng bác sĩ Cầm, Nguyễn văn Thọ, Nguyễn
văn vỹ, Nguyễn văn Xây, Võ Đình Dần v.v.. từ đó Phật học đường Nam Việt đã được
sự ủng hộ của nhiều tín đồ tại miền Nam.
Các
vị lãnh đạo tại Phật học đường Nam Việt chủ trương “Đào tạo Tăng tài là một trong những mục đích
quan trọng nhất của Phật giáo hiện tại và tương lai”. Bao năm qua Phật học đường
Nam Việt luôn luôn theo đuổi mục đích ấy. Song hành việc đào tạo Tăng tài các
Hòa thượng ban lãnh đạo như Hòa thượng Thiện Hoa, Thiện Hòa tiến hành các hoạt
động kinh tế nhằm bảo đảm đời sống Tăng Ni đang theo học, như mở nhà in Sen
vàng, 4/1954 - Xưởng sản xuất nước tương Vị trai lá Bồ đề vào năm 1959- Lò
thiêu An Dưỡng địa – 1957.
Tiêu biểu nhất là Hòa thượng Thích
Thanh Từ, một học tăng tại Trường Phật học Nam Việt đã trở thành một trong những
vị giáo thọ tại Phật học đường Huệ Nghiêm (1966). Hòa thượng đã thổi một luồng
sinh khí vào Phật giáo Việt Nam về tư tưởng đào tạo Tăng tài in trên Đặc san
Hoa thiền năm 1966: “Qua những nhận xét trên cho chúng ta thấy vấn đề đào tạo
tăng tài là vấn đề nền tảng và then chốt. Chúng ta muốn kiến thiết chùa chiền,
muốn tổ chức sâu rộng, muốn làm những việc từ thiện, thì vấn đề đào tạo Tăng
tài phải là vấn đề tiên quyết. Nếu không có một số Tăng Ni có tài có đức đảm
nhiệm các việc trên, khác nào người xây lầu trên vũng bùn chỉ luống công vô
ích”.
Những
thành tựu mà Phật học đường Nam Việt đạt được đã đánh dấu sự nỗ lực của Tăng Ni
Phật giáo Việt Nam bấy giờ. Bên cạnh đó, bài học sâu sắc về con đường giáo dục
Tăng tài được các thế hệ Tăng sĩ tiếp nối trong dòng chảy lịch sử cho tời ngày
nay.
Kết luận: Chính vì thấy nguyên nhân Phật giáo suy vi từ
cuối thế kỷ 19, các vị lãnh đạo Phật giáo đã vượt mọi khó khăn để lập nên các
Phật học đường. Phật học đường Nam Việt ra đời trong bối cảnh đất nước có nhiều
biến động đã thể hiện quyết tâm xây dựng Phật giáo Việt Nam qua chủ trương giáo
dục. Những thành tựu của Phật học đường Nam Việt đã để lại những bài học quý
giá cho đường hướng giáo dục Phật giáo trong giai đoạn chuyển tiếp, Phật học đường
Nam Việt đã đánh dấu sự phát triển của nên giáo dục Tăng Ni tại miền Nam Việt
Nam. Hoạt động đào tạo Tăng tài của Phật giáo Việt Nam luôn được các vị Tăng và
cư sĩ chú trọng từ khi phong trào chấn hưng Phật giáo bắt đầu manh nha. Từ đó
cho thấy giáo dục Phật giáo là yếu tố then chốt trong việc phát triển Phật giáo.
(Trích NSGN số 326- 5/2023 - Phật Học đường Nam Việt và sự nghiệp đào tạo
Tăng tài tại miền Nam- TN Liên Thảo.)
Tiếp nối Phật học đường Nam Việt sau
năm 1964 chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đỗ, tại Sài Gòn thành lập Viện Đại Học Vạn
Hạnh là viện Đại học tư thục, do Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập
vào năm 1964, dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Viện Đại học Phật giáo này hoạt
động từ 1964 đến 1975 thì ngưng. Viện Đại Học Vạn Hạnh thành lập do Hòa thượng
Thích Minh Châu và Hòa thượng Thích Nhất Hạnh khởi xướng. Viện Đại Học Phật
giáo chọn tên thiền sư Vạn Hạnh là vị danh tăng thời Lý làm tên cho viện Phật học.
Viện Đại Học Vạn Hạnh là một viện Đại học Phật giáo đầu tiên thành lập với cơ sở
rộng lớn cùng Tăng Ni sinh và cư sĩ nam cư sĩ nữ cùng học tập,với số lượng
đông, gồm có 10 phân khoa. Giảng dạy gồm nội điển ngoại điển. Chính viện Đại học
này là sự tiếp nối của các Phật học đường Nam Việt và các học đường khác. Hoạt
động từ 1964 đến 1975 thì ngưng hoạt động vì chuyển sang một thể chế chính trị
khác là Chủ Nghĩa Xã Hội. Đến 1984 mới hoạt động lại đổi tên là Trường Cao cấp
Phật học Việt Nam, và trường chuyên giảng dạy Tăng Ni sinh chứ không có cư sĩ.
Trường
Cao cấp Phật học Việt Nam đến năm 1997 đổi tên là Học Viện Phật giáo Việt Nam tại
TP HCM là trường Đại học Phật giáo đầu tiên đào tạo Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ
Phật học cho Tăng Ni sinh, học viên và nghiên cứu sinh.
Giai
đoạn từ 1984- 1997 kế thừa Đại Học Vạn Hạnh (1964-1975) trường Đại học tổng hợp
đào tạo đa ngành khoa học và nhiều thành phần xã hội. Học viện Phật giáo Việt
Nam tại TP HCM khai sinh tên gọi là Trường cao cấp Phật học VN, đào tạo chuyên
ngành Phật học cho Tăng Ni sinh, tuyển 4 năm một lần. Từ năm 2005 tuyển sinh 2
năm một lần, đến năm 2017 tuyển sinh mỗi năm một lần.
Đến
năm 2016 mở thêm cơ sở 2 tại xã Lê Minh Xuân huyện Bình Chánh diện tích 23,8
héc ta, nội trú từ 750 đến 850 Tăng Ni sinh mỗi năm. Các hội trường, chánh điện
có sức chứa trên 3000 người.
Từ
ban đầu các Phật học đường thô sơ về vật chất cả con người, phát triển ngày càng
rộng lớn quy mô ngang tầm quốc tế. Ngày trước số trường Phật học đếm trên đầu
ngón tay cả cơ sở lẫn con người, ngày nay năm 2023 toàn quốc có 4 Đại Học Phật giáo, Hà Nội, Huế, TP HCM và Cần
Thơ, và 53 trường Trung cấp Phật học. Tăng Ni sinh tính trên 3000 trở lên. Với
xu thế của thời đại Phật giáo cũng phải phát huy theo đà xã hội mới đáp ứng nhu
cầu của thời đại.
Phật
giáo Việt Nam ngày nay phát triển toàn diện về cơ sở vật chất lẫn nhân sự, kể cả
giới xuất gia và tại gia. Không những phát triển cơ sở con người, mà kiến thức
Phật học và sự thực hành Phật pháp cả giới tu sĩ và tại gia được nâng lên đỉnh
cao nhất so với các giai đoạn lịch sử về trước.
Phật
giáo Việt Nam ngày nay kế thừa các truyền thống tu tập của thế hệ trước mà phát
huy càng ngày càng rộng trên mọi lãnh thổ đất nước không đâu là không có Phật
giáo, không biết Phật giáo, kẻ có đạo người không theo đạo cũng thừa hưởng được
lời Phật dạy để chuyển hóa khổ đau, sống cuộc đời an lạc.
—]–
0 nhận xét:
Đăng nhận xét