Thứ Ba, 19 tháng 12, 2023

CÁI GIẬN TRONG CHỐN THIỀN LÂM

 

CÁI GIẬN TRONG CHỐN THIỀN LÂM

        Trong tam độc tham, sân, si, thì nóng giận là một cảm xúc dễ bộc phát nhất, bởi thế khó kiềm chế nhất. Khi giận khó có ai có thể kiềm chế được bản thân. “ No mất ngon, giận mất khôn” là thế. Nhan Hồi một cao đệ yểu mệnh của Đức Khổng Tử, được hậu Nho ca ngợi, tôn xưng là Á thánh cũng nhờ vào ba chữ “ bất thiên nộ” có nghĩa là “không giận lây”, theo kiểu “ giận cá chém thớt”. Giận mà biết kiềm chế thì phải có công phu hàm dưỡng. Phật giáo dùng nhẫn nhục như là một pháp môn để đối trị sân, nhưng ngay cả đối với những bậc thượng trí, hoặc những người nghĩ rằng mình đã “ ngộ” thì cái sân đôi khi vẫn thường sinh khởi ở chỗ rất đổi vi tế.

        Thiền tông Nhật Bản còn lưu truyền một câu chuyện rất thú vị : Yamaoka-  Tesshu -Sơn Cương-Thiết-Chu (1836-1888) là một kiếm sĩ lỗi lạc của Nhật Bản, khi còn trẻ, ông đi tham bái hết vị thiền sư này đến thầy khác để học thiền. Và ông ta nghĩ rằng mình đã nắm được giáo nghĩa tinh yếu cả Phật pháp. Nên một ngày kia, ông đến tham bái với thiền sư Dokuon Địch Dã Lộc Uyên 1819-1895, là một thiền sư thuộc dòng Lâm Tế, ở Shukota. Muốn trình bày sở đắc của mình, Yamaoka nói : Tâm, Phật cùng các loài hữu tình rốt ráo đều không hiện hữu, chân tánh của mọi hiện tượng đều là không. Không ngộ, không mê, không thánh, không phàm, tam luân không tịch, không có người cho, không có người nhận, cũng chẳng có vật được cho.

        Dokuon ngồi lặng lẽ hút thuốc, và không nói gì, thình lình, vị thiền sư cầm ống điếu tre quất Yamaoka một phát, khiến anh chàng nổi xung lên. Dokuon liền hỏi : Nếu tất cả đều không hiện hữu, vậy cơn giận của anh từ đâu đến ?

      Giữa một tràng ba hoa thuyết thoại “ nhất thiết giai không” chỉ một cú quất của cái điếu tre, cũng đủ biến “không thành có”. Đó là một lối cảnh tỉnh kiểu Đức Sơn hay Lâm Tế mà ta thường thấy trong thiền đường. Những kẻ đọc kinh sách theo kiểu trích cú tầm chương trong thiên hạ hết đường thuyết thoại. Nhưng nếu câu nói đó khiến Yamaoka  hoát nhiên đại ngộ thì cái sân kia sẽ chuyển thành cái Hỷ.  Nhưng giai thoại kia vẫn chưa lý thú bằng giai thoại về Tô Đông Pha cũng lưu truyền trong thiền lâm  Trung Quốc, chuyện kể rằng : Có một lần Tô Đông Pha sáng tác được một bài thơ, xưng tán cảnh giới giải thoát của Đức Phật, ông thấy rất hài lòng nên sai thư đồng đem qua bên kia sống để tặng thiền sư Phật Ấn, lúc bấy giờ đang ở chùa Kim Sơn. Bài thơ như vầy :

        Khể thủ thiên trung thiên

        Hào quang chiếu đại thiên

        Bát phong xuy bất động

        Đoan tọa tử kim liên.

Nghĩa :

        Cúi đầu đảnh lễ Pháp vương

        Mười phương tỏa sáng hào quang

        Tám gió thổi, tâm không động

        Ngồi nghiêm trên đóa sen vàng.

     Thiên trung thiên là trời trong trời, dùng để chỉ Đức Phật. Trong kinh điển, thế gian có 8 thứ khiến tâm con người phải điên đảo, bất an, đó là bốn cặp đối nhau : Thịnh và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc. Hưng thịnh và suy vong, hủy báng và danh dự, xưng tụng và chê bai, khổ đau và phúc lạc. Tám thứ này, giống như tám ngọn gió thổi làm con người nghiêng ngả, nên được gọi là “ Bát phong”, chỉ những người có định lực và đạo hạnh cao mới có thể giữa tâm bất động trước bát phong, để có thể kiềm chế phơi phới ngọn đông phong.

       Ý định của Tô Đông Pha là muốn Phật Ấn xem bài thơ để ấn chứng công phu thiền định của nhà thơ thâm viễn đến đâu, không ngờ Phật Ấn xem qua liền phê vào hai chữ “ phóng thí” đánh rấm, bên cạnh bài thơ, rồi bảo thư đồng đem về trình cho Đông Pha . Đông Pha xem xong, đùng đùng nổi giận, lập tức qua sông, đến chùa Kim Sơn để gặp Phật Ấn hỏi cho ra lẽ. Đến nơi thấy cửa phòng Phật Ấn khép kín, bên ngoài có dán hai câu thơ :

        “Bát phong xuy bất động

        Nhất thí đã quá giang”

        Tám gió ào ào tâm chẳng động

        Một hơi đánh rấm đẩy qua sông.

 Đông Pha giật mình, chợt hiểu công phu hàm dưỡng của mình vẫn còn nông cạn lắm, cứ nghĩ mình, tâm đã tịch nhiên, bất động, tám ngọn gió kia có ào ào thổi thì tâm vẫn vững như bàn thạch, nhưng ngờ đâu chỉ một hơi đánh rấm cũng đủ sức đẩy mình, cả thân lẫn tâm văng tuốt qua bên kia sông. Khi hăm hở muốn mở một trận chất vấn ! Khi hai câu thơ của Phật Ấn, giống như một câu kệ khai ngộ cho Tô Đông Pha.

       Cả hai giai thoại trên cho ta thấy rằng giận là cảm xúc khó kiềm chế. Đó là dĩ nhiên không thể không có lúc nỗi giận, nhưng để giữ cho cơn giận không được vượt qua chữ lý thì đó phải là người có công phu hàm dưỡng lâu dài.

         Phật dạy dùng nhẫn nhục để đối trị sân, nhưng trong giới thiền lâm, vẫn có những vị thiền sư lấy sân làm công phu đạo hạnh, lấy sân để độ sân.

Chuyện kể rằng, có một anh học giả đến tìm một thiền sư để tham vấn về ý nghĩa “ địa ngục và thiên đường” trong kinh điển Phật giáo. Sau khi gặp thiền sư, học giả bằng thưa thiền sư, nhờ thiền sư giải thích ý nghĩa “ địa ngục và thiên đường” trong kinh điển là một danh từ khái niệm có thật hay không có thật ?

Vị thiền sư nhìn mặt, rồi hất tiếng thịnh nộ “ đồ ngu! Có vậy mà không biết lại hỏi ?”

Nghe xong câu trả lời không mấy chút êm tai, anh ta nổi giận lôi đình, đỏ mặt tía tai, vung tay múa chân định đấm vào mặt thiền sư.

Lúc này vị thiền sư ôn tồn dịu giọng, nói rằng đó là địa ngục đấy ! Anh ta nghe xong xuống giọng và xin lỗi, Thiền sư lại nói tiếp, đó là thiên đường đấy!

Cái sân của Tô Đông Pha và của Yamaoka lại giúp cho ta thấu ngộ được những điều mà lúc bình thường ta không hiểu nổi. Ngẫm ra, khi có đạo hạnh cao thâm, như vị thiền sư kia, thì cái sân cũng là Phật sự, đâu cần phải bỏ sân để giữ hỷ. Đâu cần phải đợi đến viên tịch mới hiểu được giá trị của Hỷ và Sân.

( Trích: từ NSGN số 266- 5/2018- tác giả Huỳnh Ngọc Chiến )

                                                       ]


  DANH NGÔN

 Trên đường ngựa đua, dừng lại một phút đã lùi sau mấy dặm.

- Người tu buông lung một sát na thì bao niệm ác dấy khởi câu thúc mình đến tận cảnh giới bất thiện.

- Chậm một bước chân, đường tới đạo quả còn xa

- Muốn tuệ giác rạng ngời thì phải tự tìm lửa pháp thắp lên ngọn đuốc trong tự tâm, ngồi mong quả vị cao xa, chi bằng tự thân tinh tấn đi về hướng ánh sáng giác ngộ.

        ]

 

Dối trời, dối Phật, dối người

Đố ai dối được lương tâm của mình

Trốn trời, trốn nợ, trốn tình

Đố ai trốn được nghiệp mình đã gieo.

 

 DẤU MỐC CHIẾN TRANH VN

 Hiệp định Genève ký ngày 20/7 1954.

 Sau chiến thắng trận Điện Biên phủ đánh quân Pháp ra khỏi VN là thời kỳ chiến tranh giành độc lập từ tay người Pháp. Đến trước 1960 trở lại sau là thời kỳ chiến đấu đánh quân Mỹ ra khỏi miền Nam.

Năm 1966 Mỹ đưa quân vào miền Nam VN 50 vạn quân, chư kể các đơn vị quân đồng minh khác như : Đại Hàn, Thái Lan, Australia, New Zealand. Để ủng hộ quân lực Việt Nam Cộng Hòa miền Nam. Với chủ ý của Mỹ không muốn cho phe Cộng Sản lấn chiếm miền Nam VN. Nhưng cuối cùng phải thất bại rút quân vào năm 1972.

 Trong chiến tranh có hai khối, khối tư bản và khối cộng sản. Khối Cộng Sản có Nga Sô và Trung Quốc ủng hộ khí tài đạn dược và con người chỉ huy cuộc chiến, bên khối Tư bản có Mỹ và các nước đồng minh hỗ trợ.   Hai cuộc chiến Pháp -Mỹ kéo dài 45 năm ( 1945-1975 ) mới kết thúc.

Trong hai cuộc chiến phát xuất từ lòng tham, sân của con người mà gây đau khổ và hận thù cho đến ngay nay cũng chưa nguôi. Trong kinh Phật nói, không có lửa nào mạnh bằng lửa sân, không có nước nào mạnh bằng nước ái dục. Chính ái dục và tham, sân đưa đẩy con người và nhân loại đứng trên bờ vực thẳm.

 ]

     Chánh niệm là gì ? Chánh niệm góp phần thắp sáng hiện hữu, giúp ta luôn tỉnh thức, chánh niệm cũng giúp con người nhận diện nỗi khổ đau.

]

CÁI GIẬN TRONG CHỐN THIỀN LÂM Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét