ĐẠO GIẢI THOÁT
Lê
khắc Thanh Hoài.
Đạo Phật thường được xem là đạo giải
thoát. Chính Đức Phật Thích Ca đã từng tuyên bố
: “ Ví như này các Tỳ kheo, biển
lớn chỉ có một vị là vị mặn. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, Pháp này cũng chỉ có
một vị là vị giải thoát”.
Hãy tìm hiểu vị giải thoát này mang ý
nghĩa như thế nào? Giải thoát cái gì ,
điều gì ? Như thế nào, làm thế nào thì
được gọi là giải thoát? Có giải thoát tất nhiên là có cái gì ràng buộc ? Có cái
gì ràng buộc tức là không có tự do ?
Câu trả lời thật không gì rõ ràng hơn qua
bốn câu thị kệ sau đây :
Đến đích không ưu phiền
Giải thoát ngoài tất cả
Trừ diệt mọi buộc ràng
Không còn lửa tham ái.
Vậy chúng ta sẽ dựa trên bốn câu thị kệ trên
để cùng hiểu rõ nghĩa giải thoát và đồng thời, hiểu được những gì là ràng buộc.
Trên
bước đường tu, theo kinh điển Nguyên thủy, mà bốn câu thi kệ trên được trích
dẫn, đến đích là đã đạt được Thánh quả A la Hán. Không còn chút phiền não.
Thoát luân hồi sanh tử. Đoạn tận gốc của tham ái, chặt đứt mọi sợi dây ràng
buộc với thế gian đầy đau khổ. Nhập vào cõi Niết bàn tịch tịnh.
Theo tư tưởng Đại thừa hay Phật giáo Phát
triển thì đích đến là thành Phật, đạt quả vị Phật, cũng có thể dừng lại nơi quả
vị Bồ tát, không thành Phật vì phát đại nguyện trở lại thế gian để cứu độ chúng
sanh. Cho dù là quả vị nào thì Phật, Bồ tát hay A la hán các Ngài đều thực sự
dứt trừ mọi phiền não, đoạn tận gốc của tham ái, không còn bị ràng buộc bất cứ
điều gì, hoàn toàn tự tại, hoàn toàn vô ngại. Các Ngài đã đạt được cái gọi là
tự do tuyệt đối. Muốn đạt được cái tự do tuyệt đối này, các Ngài đã phải dày
công khổ luyện, tu tập để giải thoát khỏi những sợi dây trói buộc mình phải
trôi lăn trong luân hồi sanh tử, những sợi dây siết vào cổ của một tên nô lệ
phải phục tùng chủ nhân mà không ai khác hơn là chính cái xác thân của mình,
cùng với cái tâm thức của mình, với những khát khao thụ hưởng hầu như chẳng bao
giờ thỏa mãn, hầu như bất tận.
Do
có những ràng buộc thì mới có chuyện giải thoát tức là vượt ra ngoài những ràng
buộc đó. Những sợi dây chỉ là những biểu tượng của sự trói, buộc,cột, thắt,
kết, xiềng, xích. Những sợi dây ở đây hoàn toàn vô hình thì sự trói buộc cũng
thế, không hề thấy ai trói ai, ai buộc ai, nhưng lại là những thứ trói buộc vô
cùng chặt chẽ .
Trước khi bàn đến sự giải thoát, hãy nói đến
các mối dây ràng buộc vô hình này.
Sắc,
cây, gai trói buộc
Người
trí xem chưa chắc.
Tham
châu báu vợ con
Trói
buộc mới thật bền
Cái
sợi dây trói buộc chân tay hay thân thể con người làm từ vật liệu là sắt, là
cây, là dây gai, dây leo hay bất cứ loại gì cũng có thể bị hủy hoại, hư hao,
bào mòn, tan rã với thời gian, do thiên nhiên hay vì lý do nào khác, được chặt,
được cắt, được ném đi, vứt bỏ, và như thế là con người hết bị gò bó, hết bị
trói buộc, được tự do, thong dong, giải thoát.
Sự
trói buộc này do vậy mà không thể xem là chắc chắn. Ngược lại, có sự trói buộc mà chẳng từ một
sợi dây nào, sự trói buộc vô hình. Tay chân, thân xác chẳng bị cột, bị trói vậy
mà con người không thể thong dong được, không thể tự do, không thể thoải mái,
dường như lúc nào cũng cảm thấy lòng mình vướng víu, bận bịu, lo nghĩ, lo âu,
băn khoăn, trăn trở, mất ăn, mất ngủ ! Đó là do cái tâm thức đã bị trói buộc
bởi cái lòng tham thụ hưởng vật chất, của cải, tài sản, cũng như khao khát được
thành công, được mãn nguyện, có danh vọng, có tiếng tăm, có uy quyền, có chức
vị, cũng như cái khao khát được thương, được yêu nên luôn hy vọng, ngong ngóng,
đợi chờ, ra công, ra sức, phải mưu cầu, mưu đồ, tìm tòi, tích lũy, gom góp, gìn
giữ, tính toán, sắp đặt, lo toan, lên kế hoạch, dự định, dự án … như thế là
phải buộc cái thân phải chạy đông chạy tây, đôn đáo ngược xuôi, tất ba tất bật,
bôn ba xứ người, chịu cực chịu khổ , chịu tai chịu nạn, thậm chí tổn hại đến
mạng sống.
Cho
dù không nói đến lòng tham chất ngất, vọng ngưỡng đến những gì to tát, cao
siêu, vĩ đại mà chỉ là những nhu cầu bình thường mà ai cũng cần, ai cũng đòi
hỏi, vậy mà cũng chẳng dễ gì thoải mái. Tâm thức lúc nào cũng như bận rộn ngày
đêm, đôi khi dẫn đến cả sự quẫn trí !
Làm
người thì ai cũng cần sự ăn, sự mặc, sự ở và thuốc men để trị bệnh, săn sóc cái
thân, nhưng con người không dừng lại ở mức độ
biết đủ, tri túc, mà để cho những sợi dây vô hình của cái lòng ham muốn
vừa đủ này trở thành túi tham không đáy chi phối và làm chủ, kéo mình đi khắp
nơi khắp chốn và từ đó có thể tạo ra vô số tội nghiệp.
Từ
tham mà có thể không từ chối những phương tiện bất chính, thủ đoạn, mưu mô, vô
đạo đức, vô luân lý, vô lương tâm, vô liêm sỉ. Cũng có thể đưa đến những hành
động ác như giết người, hại người đủ cách, đủ kiểu, để đoạt của, đoạt chức vị hay cũng có thể là
đoạt… người tình, người yêu. Lòng tham và ái dục đẩy con người vào tù tội, địa
ngục, chịu quả báo nặng nề.
Xin nhắc lại, gọi là tham khi lòng muốn
vượt lên nhu cầu cần thiết. Các giác quan đem lại khoái lạc nhưng không đuổi
theo, nuôi dưỡng, làm tăng trưởng nỗi khát khao thụ hưởng khoái lạc đó thì
không có tham. Khi khởi lên sự đeo đuổi lúc đó mới có tham. Thí dụ, ăn uống thì
cần hợp vệ sinh và bổ dưỡng để nuôi thân, không cần phải cầu kỳ nem công chả
phụng, khi bắt đầu thích ăn thật ngon, từ chối những gì không hợp khẩu vị, tìm
kiếm món lạ, món hiếm, thượng hạng, hảo hạng mới chịu thì lúc đó có tham và bị
khoái lạc của lưỡi, của vị, của cái ăn ràng buộc. Cũng từ nơi miệng mà có những
lời nói, và khi lời nói không còn là
phương tiện để diễn đạt ý tưởng, để hỗ trợ cho cái thấy, cái nghe, cái biết mà
thích thú trong lời nói chỉ trích, phê
bình, soi mói, đâm thọc, nói để lừa dối, chia rẽ, gây oán thù, không còn là lời
nói hòa ái, ái ngữ, thì lúc đó đã có sự ràng buộc nơi của miệng, nơi lời nói.
Khi không còn xem áo quần chỉ để che thân, mà muốn mặc thật đẹp, hàng thật tốt,
hàng thượng hạng, hàng hiệu đắt tiền, là lúc đó có tham và có sự ràng buộc đến
từ nơi thân, liên quan đến sự mặc. Cũng
thế, khi không còn thấy nhà cửa, chỗ ở chỉ là một phương tiện để che nắng trú
mưa, mà chỉ mơ tưởng nhà lầu sang trọng, tiện nghi phức tạp, tối tân thì lúc đó
có tham và có sự ràng buộc đến từ nơi thân, liên quan đến sự ở. Khi tai không
còn là phương tiện để nghe, để hiiểu, hỗ trợ cho cái thấy, cái biết mà chỉ muốn
nghe những âm thanh thật hay, êm ái diệu vợi như lời ca tiếng nhạc, lãng phí
thời giờ quý báu để tìm tòi, chế tạo các nhạc cụ, khí cụ hay máy móc phát ra
những âm thanh kích thích và đem khoái lạc cho nhĩ căn thì lúc đó có tham và có
sự ràng buộc đến từ âm thanh. Khi mắt không còn chỉ là một giác quan giúp cho
nhận ra mọi sự, mọi việc, thấy được không gian và vị trí của mình, của chung
quanh mà chạy theo những hình ảnh tuyệt đẹp, tướng mạo xinh xắn, oai nghi hay
tư thái lịch lãm, cho dù là giai nhân, mỹ nữ, mỹ nam, hay chỉ là đồ vật, động
vật, thiên nhiên, hoa đồng cỏ nội, núi rừng hùng vĩ, con mắt luôn thích thú
được ngắm, được nhìn, được thấy chỉ vì có khoái lạc trong cái nhìn, cái thấy
thì lúc đó có tham và có sự ràng buộc đến từ sắc tướng, hình tướng. Lúc mũi
không chỉ cần thiết để thở và duy trì sự sống mà đắm vào khoái lạc từ các mùi
hương, tìm cách chế biến, sáng tạo đủ loại hương thơm để che giấu cái mùi hôi
thúi, sinh “ ghiền” và mê mẩn với hương thơm, có thể nhịn ăn, tiết kiệm để mua
sắm nước hoa, dầu thơm đắt tiền, phải có nó để xức lên mình mẩy mới bằng lòng
thì lúc đó có tham và có sự ràng buộc đến từ mùi hương. Khi khoái lạc của dục tình làm đắm đuối, phải thỏa mãn cho
được bằng mọi cách, mọi phương tiện, có thể là bất chính, tà dâm, cưỡng bách,
hãm hiếp hoặc thèm muốn chồng, vợ của người thì lúc đó có tham và có ràng buộc
đến từ nơi da thịt, thân xác và sự xúc
chạm.
Đó
là nói sự ràng buộc đến từ năm giác quan, sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nếu chịu
khó quan sát thật kỹ, chúng ta sẽ thấy năm giác quan này liên hệ thật chặt chẽ
với nhau. Chỉ cần một giác quan được khoái lạc thì tất cả các giác quan khác
cũng khoái lạc theo. Khá vi tế, khó nhận ra nhưng cũng có thể nhận ra được. Khi
tai quá say mê thưởng thức một bản nhạc hay, tình tứ, diệu vợi hoặc mắt chiêm
ngưỡng một bức tranh đẹp, có hình ảnh quyến rũ hay đọc một đoạn văn tả cảnh hấp
dẫn cũng khơi dậy lòng khao khát tình dục nơi thân. Khi ăn một món ngon, chúng
ta muốn món ăn đó phải được trình bày đẹp mắt, hấp dẫn và tỏa mùi hương nồng
nàn, thơm tho nếu không thì món ăn đó không thể hoàn toàn ngon được.
Con
người còn ham hưởng thụ khoái lạc nơi tinh thần, nơi trí óc, sự suy nghĩ, tư
duy, sự học hỏi, trau dồi kiến thức, sự
hiểu biết, kéo theo sự thích thú được ca tụng, khen ngợi, tâng bốc, chạm đến
danh dự, danh tiếng, sự nhận ra giá trị của mình và sự chấp nhận của người khác.
Đây cũng là những sợi dây vô hình trói buộc con người vào những gì gọi là pháp,
đối tượng của giác quan thứ sáu là thức.
Khoái lạc nơi tinh thần còn là niềm vui sướng, hạnh phúc vì được yêu,
được thương, được kính, được nể, được che chở, được bảo vệ, được chăm sóc, được
lo lắng, được quan tâm, được phục vụ,
được thăm hỏi, được an ủi, được nhắc nhở, không bị bỏ quên, không bị lờ
đi, không bị dìm đi…
Lại
cũng là những sợi dây vô hình ràng buộc con người vì khi thiếu những điều đó,
không được thương, không được kính, không
được nể…. thì con người rất đau khổ và bi quan, chán đời. Sự ràng buộc này được
xem là thuộc loại tình cảm, thuộc về ái.
Tất
cả những mối dây ràng buộc nơi thân hay nơi tâm đều có thể gây sân hận, phẫn
nộ, oán thù, trách móc một khi không thỏa mãn được lòng khao khát, như mong
muốn, như kỳ vọng, như đợi chờ. Đó chính là tham đã kéo theo sân và si.
Khoái
lạc nơi tinh thần không phải là sự giải trí làm cho đầu óc thỏai mái, thư giãn,
hết căng thẳng mà là sự tự mãn, hài lòng với chính mình do đã nỗ lực, đã cố
gắng, đã ra sức, đã thành công, đã hoàn tất nhiệm vụ, phận sự hay trách nhiệm.
Sự tự mãn này, kẻ làm ác, hay người hướng thượng, hướng thiện, cả hai đều có
thể đạt được như nhau. Nếu không có sự hài lòng, tự mãn đó thì kẻ làm ác chẳng
bao giờ làm. Phải có cái gì thú vị nơi việc làm ác mới thúc đẩy làm ác, cho dù
là sai trái. Hành hạ kẻ khác, tra tấn, làm
cho kẻ khác đau đớn thân xác hay tinh thần, cũng đem lại “ khoái lạc” cho kẻ ra
tay. Cũng vậy, có kẻ tự hành hạ thân xác mình hay trầm mình trong khổ đau.
Cảm
giác, cảm xúc hay cảm thọ chính là những sợi dây vô hình trói buộc con người
vậy.
Chúng
ta đã nhận ra sợi dây ràng buộc do mang cái thân hữu sanh hữu tử này. Cái thân
cấu tạo từ ngũ uẩn hay ngũ ấm, năm thứ ngăn che, làm chướng ngại mà con người
lại không nhận thấy, chỉ thấy phần khoái lạc do nó đem lại. Năm thứ cấu tạo
thành con người ( sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cũng như sáu trần, đối tượng của
các giác quan ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Đức Phật thấy chúng là khổ,
là ách, là nạn nhưng phàm phu chúng ta thì thấy ngược lại, cho là sướng, là
vui, là đẹp, là hay, là thú vị, thích thú nuôi dưỡng, nuông chiều chúng. Con
người như một con thú bị mắc bẫy đó thôi !.
Cái
thân ngũ uẩn này bị ràng buộc bởi những nhu cầu vật chất cần được thỏa mãn.
Chắc chắn là có những nhu cầu thiết yếu để duy trì mạng sống nhưng vì con người
đã vượt giới hạn của sự cần và đủ, từ đó nẩy sinh vô lượng phiền toái, phiền
não và tội nghiệp.
Nhưng
nếu chúng ta “ ngược đãi” cái thân xác, không chăm sóc đúng mức, hoặc ép mình,
khổ hạnh thì cũng không đúng. Đức Phật
dạy dó là con đường cực đoan, nên tránh. Chính Đức Phật, sau sáu năm khổ hạnh,
đã thọ nhận bát sữa của nàng Sujata để thân thể khỏe mạnh trở lại, nhờ đó tiếp
tập tu tập mới có kết quả, đưa đến giác ngộ.
Vì cái thân có hai phần, vừa vật chất vừa
tâm lý nên sự ràng buộc đều có từ hai phía.
Những
ràng buộc vừa vật chất vừa tinh thần thì quả là khó gỡ. Vì căn bản đã có sự ngộ
nhận nơi việc mưu cầu hạnh phúc, con người nghĩ rằng tiền của, tài sản, tiện
nghi vật chất hay danh vọng, thành công ở đời đem lại hạnh phúc nên dốc hết tâm
tư vào chuyện mưu sinh, tìm kiếm, đeo đuổi theo để cung phụng tối đa cho đời
sống của chính mình, của vợ con, chồng con, hay quyến thuộc, gần, xa… nhưng rốt
cuộc không thể có hạnh phúc trọn vẹn, chỉ là một thứ hạnh phúc nhất thời, tạm
bợ, mong manh, dễ mất, dễ vỡ, dễ tuột ra khỏi tầm tay. Vì sao ? Vì hạnh phúc
thật sự phải từ bên trong, nơi tâm, nơi phần tinh thần mới thật là bền lâu và
chân thật.
Con người tự ràng buộc mình với những gì đến
từ bên ngoài, bên ngoài bao gồm của cải vật chất, và tinh thần như sự nghiệp,
tiếng tăm, kể cả những người chung quanh, quyến thuộc xa gần, kể cả bạn bè,
thân, không thân, kể cả những người mình ghét, mình thù ! Không có sợi dây nào
trói mình, mà chính mình tự trói mình vào những liên hệ phức tạp, luôn nẩy sinh
vấn đề, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn. Gia đình có thể trở thành một nhà tù giam
hãm mình trong đó với trách nhiệm, với bổn phận, với muôn vàn lý do, có thể do
mình tự tạo cũng như do hoàn cảnh, tình thể đưa đẩy, để mình chìm nghỉm trong
đó với lo âu, phiền toái mà đôi khi chỉ chấm dứt khi cái xác thân rã rời bịnh
hoạn và nằm xuống cùng tro bụi.
Tâm
còn bị đắm say
Con
cái và súc vật
Bị
tử thần bắt đi
Như
nước trôi làng ngủ.
Câu thị kệ trên đây cho thấy không những
con người ràng buộc mình nơi gia đình, con cái mà nơi cả súc vật ! Điều này không
hề sai cho đến cả thời hiện đại của chúng ta. Con người càng ngày càng khắng
khít, gần gũi, thương yêu súc vật, đó là nói đến những con vật có thể chung
sống, làm bạn với người, không nói đến các súc vật mà con người đã “ lợi dụng,
lạm dụng” ỷ vào sức mạnh, giết sinh mạng chúng, lấy thịt cung cấp, làm thức ăn
nuôi dưỡng sinh mạng mình.
Cho
dù quyến luyến người hay súc vật, chung quy rồi cũng đi đến sự chia lìa. Và
thực tế lắm khi phũ phàng:
Một
khi tử thần đến
Không
có con che chở
Không
cha, không bà con
Không
thân thích che chở.
Đạo
Phật thường bị phê bình là bi quan, yếm thế. Song đúng hơn, nên nghĩ rằng đạo
Phật vô cùng thực tế ! Phàm phu chúng ta
phải đủ can đảm để nhìn nhận sự thật của thân phận con người, của trần gian này
là khổ nhưng không quên bên cạnh đó có con đường diệt khổ mà Đức Phật đã chỉ
ra, đó là niềm lạc quan vô cùng lớn lao, không thể xem thường hay quên lãng và
không nhắc tới. Và đây chính là mục đích của đạo Phật :
Giác
khổ, diệt trừ khổ
Bỏ
gánh nặng, giải thoát
Phần
trên chúng ta đã nói đến sự ràng buộc, những sợi dây vô hình trói chặt con
người trong đời sống, vật chất có, tinh thần có. Tất cả đều được tóm lại trong một chữ Khổ. Là
chân lý thứ nhất mà Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy sau khi giác ngộ.
Giác
khổ, tức là đã thấy, đã nhận ra, đã biết thế nào là khổ. Chính cái thân ngũ uẩn
với những ràng buộc chung quanh nó gây khổ. Và con đường diệt khổ đích thực là
trút bỏ mọi gánh nặng của sự ràng buộc đó, không phải là tự tử, giết đi, vứt bỏ
cái thân này mà cởi trói để được thong dong tự tại nơi tâm, chính là giải
thoát. Điểm này cần chú ý, giải thoát
không chỉ là cắt dứt các mối duyên nợ, duyên tình gây khổ não mà chính
cái tâm phải đạt được sự tự tại, thanh thản, an lạc. Người xuất gia là người
hướng đến con đường giải thoát đó, khởi đầu bằng sự thoát ly ra khỏi những ràng
buộc của ái tình, của người thân. “ Đoạn ái, từ thân” là cần thiết nhưng chính
yếu là sự thoát ly nơi tâm, không còn tham đắm, nhiễm trước hay chấp trước mới
thực sự đạt giải thoát.
Con người cứ ngỡ rằng mình có tự do. Thật ra
con người không hề có tự do nên phải luôn tranh đấu để đạt tự do. Tự do ngôn
luận, tự do nhân quyền, tự do tín ngưỡng… Bất cứ ở đâu, con người đều bị ràng
buộc bởi các luật lệ, thể chế của nơi mình ở, nơi mình đi, nơi mình đến. Không
hề thực sự có tự do với môi trường chung quanh, con người càng lại không có tự
do nơi chính tự thân mình. Những đòi hỏi của thân và tâm luôn bức bách để buộc
cái thân và tâm hành động để đạt đến sự thỏa mãn, hài lòng.
Ràng buộc là đây.
Không tự do là đây.
Bị
trói buộc nhân gian
Khỏi
trói buộc thiên giới
Giải
thoát mọi buộc ràng.
Sự giải thoát không chỉ nơi cái thân
người ở cõi trần gian này mà còn là sự giải thoát luôn cả thiên giới, vì theo
Đức Phật dạy dù có được phước đức để lên cõi Trời, vẫn còn nằm trong vòng luân
hồi, chưa thực sự giải thoát. Phàm phu chúng ta không chứng được lậu tận trí
nên không thể biết gì ngoài đời sống trên quả đất nầy, nhưng Đức Phật đã giác
ngộ và đạt được cái thấy biết vượt ngoài thế gian, phàm trần, nên chỉ dạy cho
chúng ta biết có 3 cõi , Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, và con người trôi
lăn trong luân hồi, chịu sinh tử, tử sinh liên tục, liên miên từ đời này sang
đời khác. Họ loanh quanh trong ba cõi, sáu loài, không thể nào chấm dứt. Nên
không thể nhận ra thực chất của cuộc sống mình đang sống, tìm về nguyên nhân
phát sinh cuộc sống đó để dứt khoát tìm đến con đường giải thoát thì con người
mãi mãi trầm luân, không có chỗ dừng, chỗ tận.
Tu
tập các thiện pháp để được sinh lên cõi trời, sung sướng hơn cõi người nơi trần
thế hay tu tập các pháp thiền định thâm sâu để sinh vào cõi Sắc hay Vô sắc cũng chưa được gọi là giải
thoát.
Giải
thoát thực sự phải có trí tuệ, là sự nhận biết, thấy biết chân chính, tức là có
chính kiến về khổ, về vô ngã, về vô thường, về tánh không của vạn vật, vạn pháp
mà không còn khởi chấp trước nơi danh và sắc, không còn chấp trước vào các pháp,
không còn chấp trước vào ngã, vào cái tôi thường hằng, bất biến, độc lập mà
chung quy cũng từ cái tôi này, phát khởi ái dục, tham dục và gây vô số tội
nghiệp. Không vướng vào một chữ chấp nào cả thì mới thực sự giải thoát. Đó gọi
là trí Bát nhã.
Không
bờ này bờ kia
Cả
hai bờ không có
Lìa
khổ, không trói buộc.
Nói
bờ này bờ kia là có sự phân biệt, đối đãi, là có chấp trước, còn bị trói buộc,
chưa giải thoát.
Ở
Tâm Kinh Bát nhã, chúng ta được đọc đoạn
sau đây : “ Chư Phật ba đời nương trí tuệ Bát nhã Ba la mật đa đắc A nậu đa la
tam miệu tam bồ đề” . Có nghĩa là chư Phật các Ngài nương nhờ vào cái trí không
chấp trước, không dính mắc vào một phạm trù,
khái nệm, lối suy tư nhị nguyên nào nữa cả mà đạt được tánh giác chân
thật, thanh tịnh của Niết bàn và của chư Phật. Đây mới chính là giải thoát rốt
ráo.
Và
trong kinh Kim cang chúng ta lại đọc thấy lời dạy : “ Ưng vô sở trụ, Nhi sanh
kỳ tâm “ ( không khởi vọng tâm trụ chấp
một nơi nào cả ).
Khi
không còn có dính mắc vào cái tâm chấp trước thì mọi ràng buộc tự nó tháo gỡ.
Để
kết luận về bài viết về sự ràng buộc và giải thoát con người, cùng xin đọc bài
kệ :
Các
lậu hoặc chưa dứt sạch
Ăn
uống không tham lam
Tự
tại trong cảnh giới
Không,
vô tướng, giải thoát
Như
chim bay hư không
Dấu
chân thật khó tìm
Có lẽ
chuyện ăn uống được bàn ở đây là bốn thứ thức ăn nuôi dưỡng thân và tâm con
người mà Đức Phật đã dạy nơi bài kinh “ Bốn loại thức ăn” chứ không hạn hẹp nơi
sự ăn uống thô thiển của đoàn thực.
Giải
thoát chính là tự do tuyệt đối, sự tự do nầy đạt được nơi tâm, từ tâm, do tâm.
Cho dù tâm vẫn còn nương nhờ cái thân xác vật chất làm phương tiện để từ đó
tiến đến giải thoát nhưng tâm không có giới hạn, bao la như hư không và có khả
năng tuyệt vời, không thể nào nghĩ bàn, không thể nào diễn đạt bằng lời lẽ,
ngôn từ, cũng chẳng thể nào thấy bằng mắt hay nghe bằng tai. Cũng chẳng thể
dùng tay mà chỉ, trỏ thẳng vào tâm, vào chân tâm, không phải vọng tâm, cái tâm
phân biệt, bỉ thử, gây phiền não và tham sân si, mà là “ Bản lai diện mục”, như
dấu chân chim bay trong hư không thật khó tìm, không thấy gì nhưng không phải
không có gì. Giải thoát là vỗ cánh bay như chim vào hư không. Không mà có. Có
mà không. Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc là vậy.
Nhận ra tánh không của vạn pháp nhưng không chấp đoạn diệt. Thấy các sắc
tướng, hình tướng đều do duyên sinh, có đó diệt đó nên không vọng chấp, giữ
được tâm ý thanh tịnh chính là giải thoát.
Con người muốn giải thoát thì phải mượn cái
thân xác này nên phải trân quý nó nhưng cần phải tu luyện cả thân cả tâm để
được nhẹ nhàng, cởi bỏ mọi buộc ràng mới có thể như chim tung cánh lên bầu trời
bao la của pháp giới được./.
( Trích từ
NSGN số 234- tháng 9-2015- Đạo
giải thoát : Lê Khắc Thanh Hoài )
0 nhận xét:
Đăng nhận xét