THẦY HIỆN TRONG TỨ
CHÚNG
Kính bạch Thầy, hôm nay ngày 20
tháng 7 năm Quý Mão tức ngày 4 tháng 9 năm 2023, là ngày húy kỵ thường niên
tưởng niệm về Thầy, sau khi sự viên tịch của Hòa thượng Thích Thiện Tường nhân
tuần thứ 21, huynh đệ tổ chức cuộc họp suy cử trưởng môn phong chùa Hòa An, thế
sư huynh Thiện Tường, suy cử Hòa thượng Thích Thiện Thành làm trưởng môn phong,
và huynh đệ đã từ lâu mỗi người muốn nói lên tiếng lòng của mình về vị ân sư
khả kính, cùng nhau soạn tập kỷ yếu viết về hành trạng của Thầy. Vì thế, con
mạo muội có đôi dòng tưởng niệm về Thầy, mong Thầy chứng giám.
Thầy
sinh ngày 21 tháng 01 năm 1920 ( Kỷ
Mùi), nếu còn trụ thế, nay Thầy cùng vào hàng thượng thọ Bách tuế dư
niên (105 tuổi), nhưng thuận thế vô thường theo quy luật sanh, lão, bệnh, tử,
sanh trụ dị diệt, Thầy đã quãy gánh về Tây. Trụ thế 70 năm, 30 hạ lạp.
Ngày
nầy, trong niềm hân hoan hỷ lạc của toàn thể huynh đệ và đạo hữu Phật tử, thành
kính đảnh lễ dâng lên tất dạ chí thành tưởng niệm húy kỵ lần thứ 33, bậc thầy
tôn quý của tất cả chúng con. Ba mươi
năm hành đạo, bảy mươi năm một cuộc đời người, sự có mặt của Thầy trên cuộc đời
người, chỉ như một khoảnh khắc của một tuổi thọ vô lượng không cùng năm tháng.
Thế nhưng, với ngần ấy thời gian ở cõi tạm, cũng đủ để lưu lại trên trang sử
Phật giáo Tam Kỳ-Quảng Nam, một nét son đáng trân quý, thực hiện trọn vẹn một
sứ giả Như Lai truyền đăng tục diệm, của một hành giả tu tập tự độ, độ tha đánh
thức giấc ngủ phù sinh, khai mở mắt tuệ cho tứ chúng đồng tu, đem lại ánh sáng
đạo cho đời.
Ba
mươi năm hạ lạp, làm bậc thạch trụ tùng lâm, cho Tăng già vững mạnh, Thầy là
hiện thân của sự tiếp nối mạch nguồn Tổ tông, khiến cho mạch nguồn đạo pháp
tuôn chảy mãi không ngừng, là bậc Thầy mô phạm cho Tăng Ni tứ chúng theo về,
siêng năng tu học, khi Thầy còn trụ thế cũng như vắng bóng về sau.
Thầy
xuất thế tại miền quê thôn Trà Tây nay là thôn Phú Quý xã Tam Mỹ, huyện Núi
Thành, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình thuần tín Tam Bảo, gồm 6 anh chị em,
một gái năm trai, Thầy là con út trong gia đình. Ngày Thầy xuất thế rời ngôi
nhà nhỏ bé nơi vùng quê lúc 30 tuổi, cũng là ngày Thầy mở ra cho đời mình một
dòng chảy mới, một lối đi mới, mang tính lịch sử ảnh hưởng đến cả dòng chảy của
Phật giáo Quảng Nam. Thật là một đại sự nhân duyên, túc duyên sâu dày đối với
Phật pháp. Từ thuở ấy trong độ tuổi thanh xuân, là tuổi vàng của đời người,
Thầy đã giã từ cuộc sống bình yên hạnh phúc của thế tục. Giong thuyền đại
nguyện, chân đạp đất, đầu đội trời, không xe không cộ, đi bộ từ thôn Trà Tây ra
đến Tam Kỳ, rồi lên Tiên Phước tìm thầy học đạo. Ngài bén duyên Phật pháp lúc
16 tuổi (1936) theo ngài Thích Như Đào,
tọa chủ chùa Tế Nam huyện Tiên Phước. Nhưng chùa quê vỏn vẹn hằng ngày chỉ tụng
kinh niệm Phật, Thầy cảm thấy chưa thỏa mãn chí nguyện xuất trần, Thầy bèn xin
Thượng tọa Như Đào ra Đà Nẵng chùa Phổ Đà, xin xuất gia tu học với Hòa thượng Thích
Tôn Thắng, và được Hòa thượng Thích Tôn Thắng tiếp độ xuất gia, từ đó Thầy có
pháp danh là Tâm Niệm (1950).Với tâm nguyện tu học chuyên cần tinh tấn, Hòa
thượng bổn sư cho Thầy đi tham học khắp nơi và cho thọ Sa di giới , tiếp
đến năm sau thọ Tỳ kheo giới có pháp tự
là Từ Ý hiệu Chơn Thiện. Thầy nỗ lực không ngừng trên hành trình tu tập và
phụng sự đạo pháp, đem trái tim bi mẫn vì ích đạo lợi đời. Vâng theo sự chỉ
giáo của Ân sư, Thầy bắt đầu thời kỳ thừa hành Phật sự. Năm 1954 rời Đà Nẵng,
Thầy về Tam Kỳ tu học tại chùa Tịnh độ. Năm 1956 Thầy thành lập cơ sở chi hội
Phật học Tam Kỳ, tức Hội Quán Phật học Tam Kỳ, nay là chùa Hòa an. Năm 1959
thầy được bổn sư cho thọ Sa di giới, năm 1960 tiếp tục thọ Tỳ Kheo giới tại
giới đàn chùa Ấn Quang Sài Gòn. Sau khi thọ giới Thầy về Tam Kỳ phụng hành Phật
sự, tu bổ và phát triển chùa Hòa An thành cơ sở của Tỉnh hội Phật giáo Quảng
Tín, và được Viện hóa đạo bổ nhiệm làm trụ trì. Từ đây Thầy khởi đầu cho sự
nghiệp hoằng pháp rộng lớn cho các huyện
sau này. Có lẽ Thầy là người đầu tiên được Viện hóa đạo bổ nhiệm trụ trì ở Tam
Kỳ.
Trong cương vị trụ trì và Hội trưởng Hội
Phật học, được giáo hội giao phó, Thầy đã đem hết tâm lực trí lực phục vụ giáo
hội, đã tạo tiền đề phát triển lớn mạnh cho Phật giáo Tam Kỳ và các huyện lân
cận như : Tiên Phước, Núi Thành, Thăng Bình, Hiệp Đức v.v… Với cương vị Hội
tưởng Hội Phật học Tam Kỳ là nơi điều hành để phát triển các chùa khác trên các
huyện lân cận, từ đó các chùa được thành lập, dưới sự hướng dẫn của Thầy, nhờ vì
thế mà các nơi từ thôn, xã xa xôi, nơi nơi đều có chùa để cho mọi người dân
biết tu biết học Phật pháp.
Với
vị thế chùa Hòa An chật hẹp chưa tương xứng với một cơ sở Tỉnh hội, Thầy thương
thuyết với chính quyền, xin cấp đất thành lập xây dựng tỉnh Hội Phật giáo Quảng
Tín vào năm 1963, trên 10 ngàn mét vuông, tại thôn Mỹ Thạch xã Kỳ Hương, nay là
phường Tân Thạnh, Thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Lễ khởi công xây dựng ngày
17/11-1963, có Hòa thượng Thích Đôn Hậu chứng minh lễ đặt đá. Mới đầu có tên
gọi là chùa Tỉnh hội Phật giáo Quảng Tín, sau đổi thành chùa Đạo Nguyện, xây
dựng đến 1965 mới hoàn thành.
Ngày
1/11/1963 chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đỗ, năm 1964 Giáo Hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất ra đời, Viện hóa đạo suy cử Hòa thượng Thích Thiện Duyên làm
Chánh Đại diện ( nay gọi BST) tỉnh Hội Quảng Tín, Thầy mới thôi chức Hội trưởng
Hội Phật học từ đó. Thầy thể hiện trọn
vẹn bước chân hoằng pháp, bước chân Thầy đến đâu thì nơi đó sẽ có người xin quy
y, ăn chay niệm Phật, có người phát tâm hiến cúng đất xây dựng thành lập chùa.
Nhờ thế tinh thần học phật ngày càng khởi sắc, ngọn đèn chánh pháp được thắp lên
tận đến những miền xa xôi hẻo lánh, như Hiệp Đức, Trà My, Tiên Phước cho đến những
vùng quê ven biển, quanh năm chỉ biết sóng và gió của những người dân một nắng
hai sương.
Thầy trở thành bậc Thầy mẫu mực của Tăng Ni từ
những ngày ấy, thổi vào một luồng sinh khí về tinh thần tu học, vừa nghiêm
trang đạo vị, nhìn Thầy thì thấy đạo, từ đó hình ảnh của Thầy đi vào lòng
người, có đạo hay không có đạo. Vì muốn
xiễn dương Đạo pháp một ngày càng sâu rộng hơn, nên Thầy liên tiếp khai sơn,
trùng tu xây dựng nhiều cơ sở tu học, nhằm có chỗ cho Tăng ni tu tập và tín đồ
quy ngưỡng. Sự nghiệp “ tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức” và chí nguyện độ
sanh là điểm son sáng nhất trong suốt cuộc đời hành đạo của Thầy.
Thầy
phát xuất từ người nông dân chân chất, thật thà, không bằng, không cấp, không
học vị, nhưng phương pháp tiếp người độ chúng thông qua phong thái và oai nghi
của Thầy. Với cái nhìn triều mến ban phát lòng từ, với giọng nói nhẹ nhàng trầm
ấm, Thầy đã khuyến hóa không thể tính hết số người quy y theo cửa Phật, Thầy đã
độ cho trên 130 vị xuất gia cả Tăng lẫn Ni.
Với số lượng Tăng Thầy phân làm ba. Lớp đầu Thầy cho pháp Tự là THIỆN,
như Thiện Huệ, Thiện Tường, Thiện Thành,
Thiện Đạt v.v trên 30 vị. Lớp kế tiếp Thầy cho pháp Tự là PHƯỚC như Phước Minh,
Phước Chấn, Phước Châu, Phước Thọ v.v
trên 20 vị, lớp thứ ba Thầy cho pháp Tự
là THANH như Thanh Thuận, Thanh Luận, Thanh Quang v.v.. trên 20 vị.
Thầy
nhận thâu đệ tử xuất gia khởi đầu từ năm 1962 đến năm 1990, trải qua 28 năm mà
đã có trên 130 vị . Nay trải qua 61 năm ( 1962- 2023), một số thầy viên tịch,
số thầy hoàn tục. Hiện nay còn khoản 50 vị Tăng, 30 vị Ni ( hoàn tục 43, viên
tịch khoản 25 vị ). Khai sơn tạo tự trên 15 ngôi chùa. Ngoài ra còn một số vị
huynh đệ từ ngày Thầy vắng bóng không cùng huynh đệ thăm viếng trao đổi nên số
lượng xuất gia Thầy đã độ còn nhiều hơn chưa thống kê được.
Với khoản thời gian 30 năm hành đạo, Thầy đã độ chúng xây chùa trong hai
giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Năm 1960 đến 1975 là giai đoạn hai miền
Nam Bắc chiến tranh tàn khốc, sau 1975 đến 1990 là giai đoạn thời bao cấp, kẻ ở
người đi, kinh tế khó khăn. Người thành thị bị đẩy đưa về vùng kinh tế mới, nhà
cửa, tài sản nhà nước tịch thu, ra đi đến vùng hoang vu cỏ dại, cây cối um tùm
để khai hoang vỡ hóa để mà sống. Người thôn quê giao ruộng, giao vườn, giao
trâu giao bò, vào Hợp tác xã, làm công lại cho HTX một ngày 2 lạng lúa. Chùa chiền tăng chúng hoàn tục hết, đạo hữu
không dám ăn chay đi chùa, sợ kiểm điểm phê bình. Cách đối xử của các cán bộ không mấy nhã nhẹn
với người dân miền Nam. Giữa áp lực kinh tế và tinh thần như vậy, số người vượt
biên, bỏ nước ra đi nước ngoài rất đông ( 1975- 1990), kẻ bị hải tặc hảm hiếp, cướp bóc, sát hại, kẻ
bị chìm tàu bởi sóng to gió lớn, hết nhiên liệu, hết lương thực, nước uống, lên
đênh trên biển khơi cả tháng mà chưa thấy đất liền; kẻ bị vào tù v.v..những nổi đau thương không
kể sao cho hết. Số người không còn đất sống như vậy không còn tâm trạng nghị
lực nào dám nghỉ đến chữ “ TU”. Trong
hai giai đoạn kinh tế, chính trị như thế các chùa vắng như chùa Bà Đanh. Trong
hai giai đoạn như thế mà Thầy vẫn điềm nhiên hướng dẫn tứ chúng tu học, vẫn tế
độ được số người xuất gia trên 100 người, thì tâm lực nguyện lực của Thầy không
thể nghĩ lường được.
Thế gian có câu nói về ơn cha nghĩa mẹ rằng :
“ Biển
rộng mênh mông không đong đầy tình mẹ;
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha”.
Nước biển và mây trời đem ví công ơn của cha
và mẹ nhưng chưa đủ để đem sánh với ơn Thầy ban cho Huệ mạng, nên có câu :
” Ơn
giáo dưỡng một đời nên huệ mạng;
Nghĩa
ân sư muôn kiếp khó đáp đền “
Dưới sự gia trì của Tam Bảo, ơn đức của Thầy, Tăng Ni đạo hữu chúng con
nương tựa ân đức của Thầy mà sống vui sống khỏe để làm Phật sự. Những đệ tử
Tăng Ni được thầy tế độ, nay ai ai cũng có chùa to Phật lớn, đệ tử đông đầy, có
những vị làm trưởng BTS phó BTS các tỉnh thành v.v.. gánh vác công việc giáo
hội. Là đệ tử của Thầy, chúng con ý thức không bỏ quên hạnh nguyện của Thầy,
suốt đời vì xiển dương đạo pháp, lấy hạnh nguyện độ sanh làm niềm vui trong
cuộc sống đạo. Đây chính là phương thức duy nhất để thể hiện tấm lòng biết ơn
và đền ơn trong muôn một của hàng đệ tử
môn phong chùa Hòa An.
Dẫu
Thầy đã đi về cõi vô tung bất diệt, nhưng dung nghi và hạnh nguyện của Thầy,
vẫn luôn hiện diện trong mỗi người đệ tử chúng con. Thầy có mặt trong mỗi chúng
con, trong từng hơi thở, trong từng Phật sự mà chúng con đang thừa hành, gánh
vác trách nhiệm tiền đồ Phật pháp. Mỗi người đệ tử của Thầy là một sự tiếp nối
kế thừa sự nghiệp của Thầy. Mỗi ý nghĩ, mỗi lời nói của chúng con Thầy đều
chứng giám; mỗi một Phật sự chúng con làm đều có Thầy hộ trì; mỗi bước chân
trên lộ trình tâm linh, nhiều chông gai thử thách, chúng con đều có cảm giác
luôn có Thầy động viên và khích lệ. Chúng con nguyện sẽ tự đứng lên bằng đôi
chân của mình thắp sáng ngọn đèn trí tuệ vô sư, luôn noi gương Thầy một đời
sống trọn đời cống hiến cho Đạo pháp và quần sanh không mệt mõi.
Dù
có ca ngợi Thầy bằng muôn vàn lời hoa mỹ, cũng không thể diễn bày hết ân đức
của Thầy đã dành cho chúng con, cho Phật pháp, cho nhân sinh. Chúng con nguyện
đời đời kết duyên gặp lại ân sư trên An dưỡng quốc Tây Phương Cực lạc của Hội
Di Đà, cùng tu cùng học cho đến ngày viên thành đạo quả.
Hôm
nay nhân ngày húy kỵ tưởng niệm thứ 33,
toàn thể để tử chúng con xin dâng lên tấm lòng cảm bội thâm ân của ân sư, bậc
Thầy khả kính, suốt đời tận tụy hy sinh
vì tác thành đạo nghiệp cho Tăng Ni tứ chúng. Môn đệ chúng con nguyện hết lòng
noi theo hạnh nguyện của Thầy cho đến ngày thành tựu viên mãn mới thôi. Dù Thầy
còn trụ thế hay không, Thầy là con thuyền thanh lương, đưa chúng con đến bến bờ
bình yên. Chúng con nguyện nối đèn tiếp lửa thắp sáng ngọn tâm đăng Phật tổ,
gìn giữ đạo mạch được lâu dài. Nguyện cho Phật giáo Việt Nam cửu trụ đời đời,
ánh sáng Phật pháp sáng tỏa nơi nơi, xua tan bóng tối vô minh, đem nguồn an vui
hạnh phúc đến cho dân tộc đất nước Việt
Nam thạnh trị muôn đời.
( hồi niệm
24/9 Quý Mão- 11/2023) chùa Tam Bảo T/p Tam Kỳ- QN.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét