DUY TÂM TỊNH ĐỘ LÀ KIẾN TÁNH
Từ
xưa đến nay, đa số người tu về pháp môn Tịnh Độ đều có chí nguyện cầu vãng sanh
Tây phương. Chỉ có một tối thiểu Duy Tâm Tịnh Độ mà thôi, đó là các nhà thâm
sâu về Phật Học. Tại sao Duy Tâm Tịnh Độ không được phổ thông ? Bởi lẽ rất dễ hiểu là Duy Tâm Tịnh Độ đồng
nghĩa với Minh Tâm Kiến Tánh, mà nói cho đủ là
“ Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”. Trong kinh Duy Ma Cật có một câu tuy
vắn tắt, nhưng đã nói lên rõ ràng cái lý nghĩa Duy Tâm Tịnh Độ là “ Tùy kỳ tâm
tịnh tức Phật độ tịnh” nghĩa là “ Tùy theo cái tâm của mình thanh tịnh thì đó
chính là cõi Tịnh Độ của Phật vậy”.
Duy
Tâm Tịnh Độ ý nghĩa sâu xa lắm, khó mà nói cho cùng tận được, vì vậy ở đây xin
giải thích theo nghĩa thông thường cho dễ hiểu :
-
Duy là chỉ có.- Tâm là lòng . – Tịnh là sạch. – Độ là quốc độ.
Nghĩa
là: Cõi quốc độ trong sạch, tức là cái lòng của mình thanh tịnh chớ không phải ở
ngoài.
Nói
một cách khác là : Tây Phương Tịnh Độ là cái lòng trong sạch của mình, muôn sự
vật đều do Tâm sanh ra, ngoài tâm không có sự vật. Muốn học Phật phải học Tâm.
Muốn tu phật phải tu Tâm. Muốn thành Phật phải thành Tâm. Hễ Tâm thành thì Đạo
thành.
Kinh
Hoa Nghiêm nói :
Nhược nhơn dục
liễu tri
Tam thế nhứt
thiết Phật
Ứng quán Pháp
giới tánh,
Nhứt thiết duy tâm tạo.
Nghĩa là : người nào muốn
biết tất cả Phật trong ba đời, phải quán sát các Tánh của các pháp, thì biết rằng
cả thảy đều do Tâm tạo ra.
Lý
nghĩa Duy Tâm của Phật học, chẳng phải cái nghĩa nông cạn như Duy Tâm Luận của các phái Triết Học hay Thần Học.
Theo Phật học, nếu lấy cái Tổng Tướng Y báo Chánh báo của mười cõi ( sáu Phàm bốn
Thánh ) mà nói, thì đó là Duy Tâm tạo. Trái lại, phân biệt ra các Pháp thì gọi
là “ Vạn Pháp Duy Thức” hay “ Duy Thức biến”.
Tâm
với Thức khác nhau thế nào ?
-
Điều đó không có gì khó hiểu, phần nhiều kinh Phật cho Thức là Vọng, đó là nói
về chỗ sai biệt của Tâm Tướng, của hiện tượng… Trái lại, nếu theo Chơn Lý viên
dung bình đẳng thì kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói rằng : “ Cái Tánh của Thức tức
Tánh Biết của Bản Minh, cái Tánh Bản Giác Diệu Minh ấy, thực ra là cái Thức chớ
không chi lạ, nhưng nó theo nghiệp duyên phát khởi cùng khắp pháp giới mà vẫn
Như Như bình đẳng, không có Năng Sở. Các Thức ấy theo duyên mà phát khởi, nên gọi
là Diệu, bình đẳng cùng khắp, nên gọi là Như. Thế thì các Tánh của Thức đại, thật
ra chỉ là Tánh của Diệu Chơn Như của Như Lai Tạng vậy.
Xem
thế đủ biết rằng : Nói Duy Tâm hay Duy Thức là tùy trường hợp phân biệt các
pháp lý, còn nói về Như Lai Tạng thì không có gì sai biệt.
Khoa
học nói “ Vật sanh Tâm” đồng nghĩa với Phật Học nói “Pháp sanh Tâm”. Nhưng
nghĩa lý của chữ Pháp rộng hơn chữ Vật nhiều, bởi vì nó trùm cả vũ trụ vạn hữu,
trùm cả hư không thế giới, gọi là Pháp.
Nói
Vật hay Pháp sanh Tâm cũng chưa đúng. Bởi vì mới thấy cái ngọn chứ chưa thấy
cái gốc. Như thế thì khoa học chưa thấy được nguồn gốc sanh ra tinh thần và vật
chất.
Phải
biết rằng : Khoa học và Phật học nói Pháp sanh Tâm là nói cái Tâm Tướng chớ chẳng
phải nói cái Tâm Thể, tức là chưa nói tới nguồn gốc sanh ra vũ trụ vạn hữu, nói
tắt là tất cả tinh thần hay vật chất cũng đều do cái Tâm Thể sinh ra mới thành
nghĩa Duy Tâm. Mà Tâm Thể là cái Tâm Chơn Như, là Bản thể của vũ trụ vạn hữu vậy.
Khoa
học thì nhận thấy có Vật sanh Tâm bèn cho rằng : Tinh thần là con đẻ của Vật chất.
Sự nhận định này, cũng như Phật học nói:
Bóng duyên của ngoại cảnh lục trần sanh ra Tâm, đó là Tâm thức, vì ý thức duyên theo sáu Trần mà sanh ra phân
biệt hiểu biết, rồi sanh ra tình cảm, tình thương, yêu, ghét, buồn, giận…
Theo
Phật học thì tinh thần và vật chất là cái hiện tượng của Bản Thể ( Tâm Chơn Như
). Nhưng cái hiện tượng ấy ( Tâm và Vật ) là Tâm Tướng, do cái nguồn gốc của nó
là Tâm Thể sanh ra. Đó mới là đúng nghĩa của Duy Tâm. Dẫu cho thập phương hằng
sa thế giới, dẫu cho Tây Phương Cực Lạc cũng không ngoài cái Tâm Thể Chơn Như ấy.
Chúng
ta nên biết thêm rằng: Cõi Tây Phương
cũng là một cái Dụng Tướng của Tâm Bồ Đề chứ không có gì lạ. Mà Dụng Tướng Bồ Đề
thì tràn đầy khắp vũ trụ, làm ra Căn Thân thế giới, làm ra chúng sanh, làm ra
tinh tú, địa cầu…Hiểu rõ như vậy mới rốt ráo hai chữ Duy Tâm, mới có thể chứng
được Duy Tâm Tịnh Độ.
Kinh
Thủ Lăng Nghiêm có nói : Hư không sanh
trong Chơn Giác như chút mây ở giữa trời. Phải biết rằng : Hư không hàm chứa vô
lượng vô biên thế giới, hư không lớn đến nổi không có ngằn mé, thế mà so sánh với
Chơn Giác ( Chơn Tâm Diệu Giác ) cũng như một cụm mây nhỏ ở bầu trời, thật là
không có lời lẽ nào nghĩ bàn cho được.
Nói
tóm lại, Tịnh Độ Duy Tâm là Chơn Tâm của
chúng sanh chứ không có gì lạ. Vì lẽ ấy, chứng được Duy Tâm Tịnh Độ là chứng được
Chơn Tâm, chứng được Chơn Tâm là chứng được Niết Bàn. Thế là Niết Bàn đồng
nghĩa với Duy Tâm Tịnh Độ.
Niệm
Phật Tam Muội là Kiến Tánh :
Pháp
niệm Phật rộng lớn, bao trùm tất cả giáo lý, tất cả phương tiện, các hạnh nguyện
Bồ tát. Người tu Tịnh Độ nên biết trong lòng có hai thứ niệm : Một là niệm Phật,
hai là niệm chúng sanh.
Thế
nào là niệm Phật ?
Là
tưởng nhớ đến Phật, cho đến tưởng nhớ đến các Pháp thanh tịnh, các Pháp trí tuệ,
các pháp giải thoát, các pháp giác ngộ… cũng gọi là niệm Phật nữa… Tại sao vậy
? Bởi vì Phật là sáng suốt, là thanh tịnh, là giải thoát, là giác ngộ- Thế nên
biết rằng : Tưởng niệm các Pháp ấy cũng gọi là niệm Phật.
Thế
nào là Niệm Chúng sanh ?
Là
tưởng đến các pháp tham, sân, si, Tà kiến, Ngã chấp. Kiêu mạn, Chấp thường, Chấp
đoạn, Thương ghét, vui buồn… là niệm chúng sanh. Nếu hàng ngày luôn niệm Phật
thì các chúng sanh trong lòng mình hấp thọ sự niệm tưởng ấy bèn được siêu độ lấy
mình, hoặc dùng Tánh Phật độ Tánh chúng sanh. Niệm Phật được như vậy gọi là
Minh Tâm Kiến Tánh.
Thế
nào là niệm Phật Tam Muội ?
Tam
muội nguyên là tiếng Phạn, người Tàu dịch là Chánh Định, Chánh Trí, Chánh Thọ.
Người niệm Phật được nhất tâm thì tự nhiên an trụ vào Chánh Định, các Căn đều
thanh tịnh. Cái Chánh Định này tự nhiên phát sanh, cũng như nước hết đục trở
nên trong, chẳng phải bắt ép, chẳng phải gắng gượng, chẳng phải mong cầu. Do
cái năng lực Chánh Định ấy lại nảy sanh ra Chánh Trí và Chánh Thọ, gọi là niệm
Phật Tam Muội.
Thế
nào là Chánh Định ?
Người
niệm Phật lâu ngày, Tâm Tánh thanh tịnh, đối với các pháp không còn trụ chấp
phan duyên nữa. Như thế, tuy không học Lý Trung Đạo mà thành Trung Đạo, nên biết
rằng nghĩa Chánh Định ở đây có phần siêu việt trên các pháp đối đãi ( bởi không
còn trụ hai bên biên kiến ) chớ chẳng phải ngồi lẳng lặng để cho vọng niệm
không sanh, tạp tưởng không khởi mà gọi là Chánh Định. Có nhiều người chỉ tịch
định trong lúc ngồi công phu quán tưởng, hoặc trong lúc ngồi Niệm Phật rồi cho
mình đã được Chánh Định. Cái đó là Tịnh Định trong nhứt thời, nếu hết ngồi công
phu là hết Định thì cái Định ấy đâu có công dụng trong chỗ nhựt dụng thường
hành? Định như vậy không khác nào như bột xà bông, nếu đem ra gió thì phải tan
rã còn dùng được việc gì ?
Chánh
Định lọc sạch Vô Minh, dầu gặp sóng gió thất tình lục dục cũng không lay động,
không còn nhiễm ô trần thế, tức là hoàn
toàn thanh tịnh vậy.
Thế
nào là Chánh Trí ?
Chánh
trí là cái tri kiến chơn chánh, cái Trí này là Tri Kiến Phật. Hễ có Chánh Trí rồi
thì không còn thấy có ta, có người, không còn thấy có nhơn, có pháp. Do chỗ
không chấp Ngã, chấp Nhơn, chấp Pháp ấy mà thành tựu cái Pháp “ Vô Sở Trụ”. Thành tựu pháp “ Vô Sở Trụ ” tức là thành tựu Trung Đạo Trí
vậy.
Chúng
ta nên biết rằng : Chánh Trí cũng có nghĩa là Trí Huệ Bát Nhã. Thế thì có Chánh
Định mới có Chánh Trí, tức là nhơn Định mà phát Huệ. Mà Trí Huệ là Giác, Giác
là Phật vậy. Hễ Trí Huệ nhỏ thì Pháp Thân nhỏ, còn Trí Huệ lớn thì Pháp Thân lớn.
Pháp Thân nhỏ thì chứng Hữu Dư Niết Bàn của hàng tiểu quả Thanh Văn còn sót lại
cái khổ quả biến dịch sanh tử. Còn Pháp Thân lớn thì chứng quả Vô Dư Niết Bàn
không còn khổ quả biến dịch sanh tử. Nếu Pháp Thân càng lớn hơn nữa thì chứng
được Vô Trụ Xứ Niết Bàn, là Niết Bàn của hàng Bồ Tát có lòng Đại Bi rộng lớn,
quyết độ mình độ người đồng trọn thành Phật đạo. Bực này ở đâu cũng là Niết
Bàn, không ưa cũng không chán chỗ nào nên gọi là Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Các hàng Bồ
Tát này tiến lên đi sâu vào Trung Đạo Diệu Trí, chứng được Chơn Như Tam Muội,
hoàn toàn Minh Tâm Kiến Tánh thành Phật, gọi là Tánh Minh Niết bàn hay Đại Bát
Niết Bàn.
Chánh
Thọ là thế nào ?
Tức
là Tâm chẳng tán loạn gọi là Chánh, dung nạp lấy một Pháp một Niệm mà thôi thì
gọi là Thọ. Người nhập pháp Chánh Thọ thì thân thể không lay động tâm trí cũng
yên tĩnh, các tư tưởng trong tâm đều dừng nghỉ, các sở duyên lo lắng thảy đều
quên, chỉ chăm chú vào một mục đích duy nhất mà thôi. Trên quán Hạnh, bước
phương tiện đầu tiên tác ý duyên cảnh gọi là Tư Duy. Khi pháp quán tưởng đã
thành, tâm được tự tại khế hợp với Chân Cảnh gọi là Chánh Thọ.
( Minh Chánh ) Trích Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền
0 nhận xét:
Đăng nhận xét