CÕI ĐẠO PHƯƠNG ĐÔNG TRƯỚC TINH THÂN DUY LÝ PHƯƠNG TÂY
Huỳnh
Ngọc Chiến
Đất
nước Trung Quốc với nền văn hóa vĩ đại tồn tại liên tục mấy ngàn năm, vẫn luôn
là một trong những cái nôi minh triết của nhân loại, dù trên thế giới hiện nay,
hai chữ Trung Quốc thường bị đồng hóa với những hình ảnh không được mấy tốt đẹp,
như tham vọng trong chính trị, lừa đảo trong sản xuất, dối trá trong kinh
doanh, dung tục trong ứng xử. Những điển
tích thơ mộng trong thi ca, triết học ngày xưa như Lý Trích Tiên ôm trăng chết
theo dòng nước. Bá Nha đập đàn bên mộ Chung Tử Kỳ v.v... chỉ còn là hình ảnh nhạt
phai của một thời vang bóng.
Thời
Tiên Tần là giai đoạn cực thịnh của triết học Trung Quốc với cuộc đại biến động
đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Cục diện “Bách gia tranh minh” thời bấy
giờ đã mở ra những chân trời tư tưởng vô cùng phong phú và đa dạng, không chỉ
cho lịch sử triết học Trung Quốc về sau, mà còn cho cả nền triết học nhân loại.
Nếu triết gia Mỹ Alfred North Whitehead đánh giá truyền thống triết học châu Âu
chỉ là “ Một loạt các chú thích cho triết học Plato
”. thì ta cũng có thể nói triết học Trung Quốc sau thời Tiên Tần là “ một loạt chú thích”cho kho tàng tư tưởng
vô cùng phong phú được khai nguồn từ
Xuân Thu- Chiến Quốc……
Tiêu
đề bài này nói đến : cõi đạo phương Đông trước tinh thần duy lý phương Tây. Chúng
ta thử nhìn từ góc độ của những người sống trong truyền thống triết học phương
Đông.
Bộ
triết học sử này ra đời vào giai đoạn phương Đông phải đối mặt với sự tàn phá
khốc liệt của những thế lực quân sự phương Tây trong công cuộc thực dân bành
trướng, trong thời gian kéo dài hàng thế kỷ. Theo bàn chân của những đoàn quân
viễn chinh xâm lược, nền văn hóa phương Tây lan dần đến phương Đông , hình
thành nên sự giao thoa văn hóa vĩ đại có thể nói là vô tiền truyệt hậu trong lịch
sử tư tưởng nhân loại. Cuộc giao thoa này mang ý nghĩa khác hẳn cuộc giao thoa
giữa hai nền văn hóa Ấn - Trung, khi Phật giáo từ Ấn Độ được truyền vào Trung
Thổ. Vì cuộc giao thoa Ấn –Trung đó đã giúp Trung Quốc khai mở thêm những phần ẩn
tàng trong cõi tư tưởng ban sơ để làm nảy sinh nào là Hoa Nghiêm tông, Thiền tông v.v.. nào là tinh thần đạo học của
Tống Nho, với những nhà tư tưởng lớn trùng điệp này sinh như Trí Khải, Cát Tạng,
Chu Đôn Di, Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh..v.v…Cuộc giao thoa đó giống như cuộc
hội ngộ giữa Nguyễn Du với Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm tài nhân, để Tố Như
có cơ duyên phát tiết anh hoa mà tựu thành tuyệt tác truyện Kiều.
Còn
cuộc giao thoa văn hóa giữa phương Đông với phương Tây từ khoảng đầu thế kỷ thứ
19 lại hoàn toàn khác hẳn. Toàn thể cõi đạo vô ngôn phương Đông- ở đây tôi muốn
nhấn mạnh đến nền văn hóa Trung Quốc, vốn luôn Lãng đãng cùng “ cánh bướm Trang
Châu” với những phương trời tư tưởng “ huyền chi hựu huyền” “ sắc tức thị
không, không tức thị sắc” tựa hồ đã chịu một cơn chấn động dị thường, khi đối mặt
trước cung điện duy lý đồ sộ của phương Tây với những hệ thống khái niệm cực kỳ
phong phú. Sự ưu việt không thể chối cãi của nền khoa học kỹ nghệ Âu Châu trên phạm vi toàn cầu
đã tạo ra một thông lộ thênh thang để cho cơn hồng thủy tư tưởng phương Tây
tràn vào và nhấn chìm hầu như toàn bộ não trạng của chúng ta vào đại dương duy
lý. Các bậc thức giả phương Đông dường
như thấy choáng ngợp khi dối mặt với những hệ thống tư tưởng mới mẻ đó, nên họ
lúng túng trong quá trình tiếp cận, xem chúng như là cái gì quá ưu việt, tân kỳ.
Đặc
trưng văn hóa Trung Quốc là nó có sức đồng hóa rất mạnh. Bất kỳ dân tộc ngoại
lai nào dùng vũ lực xâm lược Trung Nguyên, không chóng thì chầy đều bị nền văn
hóa phong kiến đó đồng hóa. Những vó ngựa của đoàn quân thiện chiến của Mông Cổ
đã từng giẫm nát cả một phần bản đồ thế giới để kiến tạo nên một đế quốc mênh
mông, nhưng sau khi chinh phục Trung Quốc để lập ra triều Nguyên thì những vó
ngựa sắt kiêu hãnh đó dễ dàng bị khuất phục bởi những ngọn bút lông mềm mại, để
cả một đế chế hùng cường với những thảo nguyên bát ngát nhanh chóng tan biên trong nghiên mực của nền văn minh
Hoa Hạ. Mấy trăm năm sau, khi người Mãn chiếm xong Trung Quốc để lập nên đế chế
Đại Thanh thì cũng bị đồng hóa dần với nền văn hóa bản địa để cho ra đời bộ
bách khoa khổng lồ trong lịch sử phong kiến Trung Quốc là Tứ Khố Toàn Thư dưới
đời Càn Long, với hơn 800 triệu chữ. Sức thâu hóa mãnh liệt đó giống như “ Hấp
tinh đại pháp” của Nhâm Ngã Hành, luôn có khả năng hấp thu nội lực của kẻ địch
để biến thành nội lực của bản thân mình. Nhưng khi đối đầu với tinh thần duy lý
của phương Tây thì nền văn hóa Trung Quốc gần như tan hoang tinh thể, nó không
những mất đi khả năng đồng hóa vốn có, mà bản thân bị tê liệt và biến tướng “ Hấp
tinh đại pháp ” tựa hồ như trúng phải “ Hàn băng chân khí” cực kỳ bá đạo của Tả
Lãnh Thiền !
Người
ta nôn nóng muốn phá hủy hết những giá trị cũ để mở rộng cửa và mở rộng lòng
đón nhận những làn gió phương Tây thổi đến như một làn sinh khí mới, nhằm mong
muốn vươn lên tầm cao của thời đại từ phương Đông già cỗi ! Những giá trị cũ bị phá bỏ không thương tiếc. Vì vạn thế sư biểu
Khổng Tử bị hạ bệ, Nho giáo bị lên án như một vật chướng ngại, ngăn cản con đường
tiến hóa của lịch sử. Những hệ thống tư tưởng sáng sủa của phương Tây với những
khái niệm rõ ràng, minh bạch hấp dẫn những não trạng phương Đông vốn chỉ quen với
lối suy diễn ỡm ờ “vô khả, vô bất khả”, “ngã thuyết…. tức phi…. Thị danh…” Ngay các bậc thiên tài thượng trí như Đại
sư Vivekananda mà ban đầu còn choáng ngợp
trước phương Tây, huống gì người khác. Chỉ sau khi qua Âu Mỹ diễn thuyết một thời
gian, ông mới quay về Ấn Độ, kêu gọi người dân quay về lại với truyền thống tâm
linh dân tộc.
Trong
khi hầu hết các thức giả phương Đông đều quay lưng với những giá trị phương
Đông để vội vã suy tôn những hệ tư tưởng phương Tây thì chính một triết gia lỗi
lạc phương Tây là Heidegger lại chỉ ra hiểm họa của “ Hàng băng chân khí” đó.
Ta thử đọc một đoạn thức giả Nhật Bản với triết gia Heidegger về ảnh hưởng của
văn hóa phương Tây.
Người Nhật :
Người ta đã thấy sự thống trị không thể phủ nhận của lý trí Âu châu các
ông được khẳng định qua sự thành công của tính duy lý, mà sự tiến bộ kỷ thuật
đang phơi bày ra trước mắt từng phút, từng giờ.
Heiddegger : Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức
người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất
đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn. Dường như tiến trình đó
khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.
Tôi muốn dùng lời đối thoại này làm điểm quy
chiếu nhỏ khi đọc cuốn sách này, để cùng bạn đọc có dịp suy ngẫm xem về “ tiến
trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận
cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu trong lĩnh vực tư tưởng, mà Trung
Quốc chính là nơi chúng ta có thể cảm nhận rõ nhất, khi nó là quốc gia đầu tiên
của châu Á biến thành vùng đất cho sự hoàn tất của tư tưởng phương Tây.
Được
du nhập vào từ phương Tây, hết triết thuyết này đến triết thuyết nọ thay nhau
chế ngự cõi tư tưởng phương Đông. Rồi đến lượt phép biện chứng đăng quang như một
đỉnh cao trong triết học. Nó mê hoặc giới trí thức ở thời kỳ đầu thế kỷ 20, được
xem như là câu thần chú “ Vừng ơi, mở cửa ra” để giải quyết mọi bế tắc trong
triết học, và mở ra những chân trời bao la cho tư tưởng. Nhưng thực tế lịch sử
chứng minh rốt cuộc phép biện chứng, dù duy tâm hay duy vật , cũng chỉ là một hệ
thống phương Tây khác. Chúng hoàn toàn không thể giải quyết rốt ráo những vấn đề
của tư tưởng và xã hội. Trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, không
bao giờ có một hệ thống triết học nào phát sinh từ lý tính mà có thể mang giá
trị bền vững, dù nó được chống đỡ bất kỳ một thế lực nào. Bởi bản chất của lý
tính là mâu thuẫn và xung đột, nên cái trò triết học và sau phủ định triết học
trước vẫn mãi mãi diễn ra trong quá trình phát triển lịch sử đúng theo quy luật
“ Trường giang hậu lãng thôi tiền lãng”. Trên dòng sông luôn trôi chảy, con
sóng sau sẽ xô ngã con sóng trước. Điều đó hoàn toàn thuận với tự nhiên. Phép
biện chứng, dù là duy tâm hay duy vật, cũng chỉ là sản phẩm của ngôn ngữ và lý
trí, do nhân duyên hòa hợp mà thành, nên cũng như mọi loại triết học duy lý
khác, nó cũng chỉ là con sóng nối tiếp bao con sóng trên dòng sông lịch sử, dù
ta có cố công thổi phồng giá trị của nó bằng bao nhiêu ngôn từ đẹp đẽ. Nếu có hệ
thống triết học nào đó được loài người xem là chân lý thì hẳn đã không còn những
cuộc tranh luận về triết học kéo dài hơn mấy ngàn năm, và có lẽ kéo dài cho đến
ngày tận cùng của loài người.
Phùng
Hữu Lan cho rằng tác dụng của triết học có hai mặt :
Một
mặt thì rèn luyện và phát triển năng lực tư duy lý luận của con người, mặt khác
thì nâng cao và giúp cảnh giới tinh thần con người thêm phong phú.
Nhưng
tôi cho rằng một triết học là sản phẩm của lý trí thì dù sâu sắc hay có tính thuyết
phục đến đâu cũng khó lòng nâng cao được cảnh giới tinh thần, nghĩa là đem lại
cho con người một “ vùng đất an thân lập mệnh”, theo cách nói trong truyền thống
văn hóa Trung Quốc, để con người có thể sống an nhiên tự tại trong đó. Mà giúp
con người tìm ra một “ vùng đất an thân lập mệnh ” cũng có nghĩa là giúp con người có đủ tâm lực
để bình yên đối mặt với cái chết, như một con người bình thường với thân phận
sinh tử phù du theo nghĩa “ Eetre-
pour-la mort “ của Heiddgger, chứ không cần phải là một anh hùng hy sinh cho lý
tưởng cao siêu. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi ta có cơ duyên vượt qua
được lý tính để vươn lên cảnh giới tâm linh. Đó là bước đầu để ta đi vào cõi đạo
phương Đông. Chỉ khi nào tiếp xúc được với mạch nguồn tâm linh đó thì tâm thức
ta mới được mở khai, cảnh giới tinh thần ta mới thực sự được nâng cao để ta
nhìn nhận ra những giá trị chân chính của cuộc sống, và của cả cái chết. Ngay cả
những kẻ thời trai trẻ xông xáo trong đấu trường của lý trí, chỉ tin duy nhất
vào khoa học, hăm hở dùng lý trí để xoay chuyển càn khôn, đem lý luận để vạch
nên lịch sử thì cũng khó lòng thoát được cảm thức hoang mang khi đối với những
vấn đề phi lý trong cuộc sống, mà ta không sao lý giải nổi, hoặc đến lúc cuối đời
khi đối mặt với hư vô.
Nhà
nghiên cứu T.V Murti liễu tri được sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu
đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy, nên đã theo chân Đại
luận sư Nagarjuna dùng Thiên kiếm Prajnaparamita và Tuyệt đao Sunyata để luận phá mọi hệ thống lý luận phương
Tây, rồi khẳng định :
Đặc
điểm của các hệ thống triết học phương Tây là mang tính tư biện, với rất ít ngoại
lệ. Là một món đồ chơi thuần túy của trí tưởng tượng, chúng không dẫn đến sự tu
tập tâm linh, và cũng không thể song hành với bất kỳ một phương thức sống nào.
( T.V Murti, Tánh Không: Cốt tủy triết học Phật giáo, trang 57, Huỳnh Ngọc Chiến
dịch, Nxb, Hồng Đức, 213 ).
Biện
chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị
về phương diện tâm linh ( như trên, tr 399 ).
Những
thứ “ chủ nghĩa ” , những thứ “ ism” trong hệ thống khái niệm của phương Tây,
những phép biện chứng, hiện tượng luận, thông diễn học, hậu hiện đại, v.v… vẫn
có những giá trị riêng của nó đối với não trạng phương Tây. Nhưng dùng chúng
làm hệ quy chiếu để nhìn vào cổ lục phương Đông thì ta khó lòng lắng nghe ra được
“huyền ngoại chi âm”, hay tư tưởng “ đắc ngư vong thuyên” để cảm nhận vô ngôn
trong ngôn ngữ.
Điều nghịch lý là trong khi ở phương Tây, nhiều
triết gia đã quay về phương Đông để tìm cầu chân lý giữa sự bế tắc của tư tưởng,
thì ở phương Đông kịch lịch nảy sinh ra các loại triết gia nỗ lực tôn vinh những
giá trị phương Tây- những giá trị mà chính các bậc thức giả phương Tây cũng
nghi ngờ. Một người Đức- bạn của triết gia người Mỹ là William Barrett- kể lại
rằng một hôm ông đến thăm Heidegger và thấy triết gia này đang đọc tác phẩm của
Suzuki, ông ta hỏi thì Heidegger trả lời :
Nếu
tôi hiểu đúng được tác giả này thì đó là những gì tôi đang cố gắng trình bày
trong tất cả tác phẩm của mình từ trước đến giờ.
Thiệt
là “ Tạo vật hà như đồng tử hý” Thơ của Tô Đông Pha : Cuộc đời sao mà giống như trò đùa của trẻ con
! … (bỏ một đoạn )
Trên
thực tiễn, lịch sử tư tưởng nhân loại đã minh chứng cho chúng ta thấy trong triết
học không hề có một hệ tư tưởng nào mang giá trị vĩnh cữu, trong cõi tư tưởng
không thể có duy nhất một con đường. Cho rằng chỉ có mình mới nắm được chân
lý, chỉ có tư tưởng của mình mới là duy
nhất đúng, đồng với ta thì cho là phải, nghịch với ta cho là trái, điều dó cũng
ấu trĩ như một đứa trẻ vốc một ngụm nước biển trong tay và bi bô đó là nước cả
đại dương. Nhiều con đường khác nhau vẫn dẫn về cùng một chốn duy nhất. Nếu tác
phẩm này của Phùng Hữu Lan bạn đọc mở thêm ra một con đường mới trong cõi tư tưởng
thì các bạn càng thể hội thêm lời của Đức Khổng Tử: “ Thiên hạ đồng quy nhi thù
đồ, nhất trí nhi bách lự”.
(
Bài này anh Huỳnh Ngọc Chiến , cảm nhận
khi đọc bộ Trung Quốc Triết học sử Tân biên của Phùng Hữu Lan ).
{]{
Phần
bình luận
:
Qua bài cảm nhận của anh Huỳnh Ngọc Chiến” Cõi
đạo phương Đông trước tinh thần duy lý phương Tây ” trên đây cho ta thấy rằng, Phật giáo Ấn Độ giao thoa với văn hóa Trung Quốc, đã không
xóa bỏ nền văn hóa Trung Quốc mà nó hòa nhập với văn hóa bản địa, đã làm giàu
thêm văn hóa Trung Quốc không những ngôn từ ( đã tạo thêm Trung Quốc trên 5000
từ mới ) mà còn phát huy ra rất nhiều nhân tài, hiền triết kiệt xuất nổi tiến
trong giới Phật giáo Trung Quốc . Như Thiền, tông, Tịnh độ tông, Duy thức tông
v.v cùng với nhiều đại sư danh tiếng như
Trí Khải, Huệ Viễn, Huyền Trang v.v... cũng như ở thế tục các danh Nho. Và cũng
nâng cao giá trị văn học của Nho gia càng thêm phong phú và thâm sâu hơn. Đã tạo
nên Trung Quốc một nét văn hóa đặc thù, có tính thuyết phục đối với các nền văn
hóa khác trên toàn thế giới. Có thể nói văn hóa Trung Quốc có một loại chữ viết
đặc thù có một không hai so với các loại chữ viết của các dân tộc khác. Loại chữ
viết này đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa các nước lân cận Trung Quốc , như Việt
Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ v.v..
( Đặc trưng văn hóa Trung Quốc là nó có sức đồng
hóa rất mạnh. Bất kỳ dân tộc ngoại lai nào dùng vũ lực xâm lược Trung Nguyên,
không chóng thì chầy đều bị nền văn hóa phong kiến đó đồng hóa. Những vó ngựa của
đoàn quân thiện chiến của Mông Cổ đã từng giẫm nát cả một phần bản đồ thế giới
để kiến tạo nên một đế quốc mênh mông, nhưng sau khi chinh phục Trung Quốc để lập
ra triều Nguyên thì những vó ngựa sắt kiêu hãnh đó dễ dàng bị khuất phục bởi những
ngọn bút lông mềm mại, để cả một đế chế hùng cường với những thảo nguyên bát
ngát nhanh chóng tan biến trong nghiên mực
của nền văn minh Hoa Hạ).
Với
bề rộng và bề sâu của nền văn hóa Trung Quốc như thế, nhưng phải đối mặt với nền
văn hóa phương Tây, để rồi biến thành văn hóa cổ xưa trở thành một văn hóa có
xác không hồn. Văn hóa phương Tây du nhập vào Trung Quốc xóa sạch những gì mọi
người dân Trung Quốc cho là thượng đẳng, cao quý, nay trở thành phế thãi. Như
tôn xưng Đức Khổng Tử là vạn thế sư biểu, với đạo đức luân lý làm người như là
Tam cương, ngũ thường, công dung ngôn hạnh. Nay người Trung quốc lại cho những
những điều lệ đạo đức ấy làm cản trở sự phát triển của xã hội hiện nay. Vì thế
họ ra sức phá bỏ tận gốc không thương tiếc.
Các
nhà học giả Trung Quốc quay lưng với nền văn hóa truyền thống của mình, và cực
lực xiển dương tôn sùng văn hóa phương Tây. Ngược lại các học giả phương Tây
chán ngán và bế tắc với tư tưởng truyền thống của họ. Họ lại quay lại tìm về tư
tưởng phương Đông để giải quyết những bế tắc trong nền tư tưởng của họ. Trong
đó có nền văn hóa Phật giáo đã đáp ứng nhu cầu và đem lại sự bình yên hạnh phúc
cho tâm hồn họ.
Đúng
như lời phát biểu của nhà Bác học Vật Lý Albert Einsten (1879-1955 ) giải Nobel
1921. Ông nói rằng : Tôn giáo tương lai
sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Tôn giáo
ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý
thức, đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thế gồm mọi phương diện trên, trong
cái nhất thể đầy ý nghĩa, Phật giáo sẽ đáp ứng đủ điều kiện đó.
Nếu
có một tôn giáo nào đương đầu với mọi nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là
Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại
những quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học.
Phật
giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật
giáo bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học.
Tôi
là một người không tôn giáo. Nhưng nếu có tôn giáo thì tôi phải là một Phật tử.
Vì những gì tôi hiểu biết bây giờ, thì mấy ngàn năm qua kinh Phật đã nói hết rồi.
Những
lời Phật dạy suốt trong 49 năm tại thế để lại cho nhân loại một nền văn hóa độc
nhất vô nhị sống mãi với thời gian không gian, trên mọi lãnh vực, khoa học,
chính trị, kinh tế, học thuật v.v.. Khoa học dù có phát triển đến đỉnh cao đến
đâu cũng không thể giải quyết được những khúc mắt nội tâm của con người . Không
thể giải quyết những thù hận, đau buồn trong tâm con người, mà chỉ làm tăng
thêm thì có chứ giảm đi thì không hề. Và đằng sau cửa tử bên kia thế giới tâm
linh của con người khoa học hoàn toàn bề tắc. Vậy nơi đây chúng ta thấy giá trị
của lời Phật dạy cao quý như thế nào.
Thay
lời kết
Đất
nước Trung quốc với nền văn hóa vĩ đại tồn tại liên tục mấy ngàn năm, vẫn luôn
là một trong những cái nôi minh triết của nhân loại, dù trên thế giới hiện nay,
hai chữ Trung Quốc thường bị đồng hóa với những hình ảnh không được mấy tốt đẹp,
như tham vọng trong chính trị, lừa đảo trong sản xuất, dối trá trong kinh
doanh, dung tục trong ứng xử. Những điển
tích thơ mộng trong thi ca, triết học ngày xưa như Lý Trích Tiên ôm trăng chết
theo dòng nước. Bá Nha đập đàn bên mộ Chung Tử Kỳ v.v... chỉ còn là hình ảnh nhạt
phai của một thời vang bóng.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét