BÀI
KỆ HÀNH THIỀN
Thiền là Tỉnh thức - Thiền là thức tỉnh - Thiền là tỏ rõ
Thiền là soi sáng –Thiền là an nhiên - Thiền là điềm đạm- Thiền là bình tỉnh- Thiền là hòa hưởn - Thiền là nhẹ nhàng - Thiền là cẩn thận - Thiền là vén khéo - Thiền là sạch sẻ - Thiền là tế nhị - Thiền là
kỹ lưỡng - Thiền là không vọng tưởng -
Thiền là chẳng hôn trầm - Thiền là không rối loạn - Thiền là không chấp trước -
Thiền là chẳng lo âu - Thiền là không sợ
hãi - Thiền là không thủ xã- Thiền cả ngày đêm – Thiền không phân giờ- Thiền ở
sáu căn – Thiền ngay đôi mắt – Thiền chính lỗ tai – Thiền trong lỗ mũi - Thiền
nơi cửa miệng - Thiền tại ý căn - Thiền cả thân mình - Thiền lúc tụng kinh -
Thiền khi niệm Phật - Thiền tọa kiết già - Thiền khi đi đứng - Thiền lúc nằm ngồi
- Thiền giữa bữa ăn - Thiền khi tiếp chuyện
- Thiền nơi làm việc - Thiền
trong giấc ngủ - Thiền làm chủ được thân - Thiền làm chủ được tâm - Thiền làm
chủ ngoại cảnh - Thiền không chấp tà kiến -
Thiền không nhiễm sáu trần - Thiền không lầm nhân quả - Thiền thung dung
tự tại - Thiền giải thoát vô ngại.
Giải thích :
Thiền
là tỉnh thức
: Tự Tánh bổn lai vốn thanh tịnh, trong lặng, tròn sáng và thường chiếu, thì
người Hành Thiền đứng về mặt Tự Tánh để
Khởi Tu là luôn luôn hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề, lúc nào cũng tỉnh giác sáng
suốt không mê mờ, dù trong cảnh tịnh, cảnh động, cảnh vui, cảnh buồn… tâm mình
vẫn tỉnh tỉnh lặng lặng, không duyên theo cảnh là Thức, không nhiễm theo trần
là Tỉnh, luôn luôn làm chủ lấy mình trước. Mọi tình huống , không để cho Sắc trần
lôi cuốn hay Thinh trần lừa gạt. Như vậy gọi là Đốn ngộ Đốn tu, theo pháp Thiền
Tự Tánh. Đối với người Đốn ngộ một khi
nghe được sự khai thị của Minh sư hay bậc Thiện tri thức rồi, thì trực ngộ được
Bổn tâm, bao nhiêu Kiến Hoặc, Tư hoặc thành kiến, cố chấp chất chứa trong lòng
đều tiêu tan hết, bao nhiêu nghiệp chướng phiền não đều tan rã như sương tan,
mây tạnh, chỉ còn lại bầu trời xanh thẳm với mặt nhật sáng lòa, tức là màn Vô
Minh dẹp sạch thì còn lại Chơn Tâm thanh tịnh và Trí huệ sáng soi. Đó gọi là Đốn
tu.
-
Thiền là thức tỉnh : Chúng sanh sống
trong cõi đời bị Ngũ dục lạc và Ngũ cái che lấp Chơn Tánh nên mê man chìm đắm
trong sanh tử luân hồi, chẳng khác nào người ngủ mê nằm mơ trong cảnh chiêm bao
buồn vui lẫn lộn. Bây giờ, Hành Thiền Tự Tánh là để đánh thức mình tỉnh dậy đặng
sống với cái Tánh Giác Bồ Đề, không còn mê muội trong cảnh đại mộng của trần
lao sanh tử nữa và không còn mê man trong cảnh tiểu mộng của kẻ ham ngủ hôn trầm
nữa. Như vậy, Thiền là thức tỉnh, tức là người Hành Thiền Tự Tánh có tác dụng
đánh thức tỉnh hai hạng người Vô Minh bị mê lầm trong đại mộng và mê mờ trong
tiểu mộng.
Từ
câu này về sau thuộc về phần “ Đốn ngộ
Tiệm tu” hay gọi là “ Kiến Tánh
Khởi Tu ”.
-
Thiền là tỏ rõ : Người Hành Thiền Tự Tánh thì không còn mê mờ trong đại
mộng hay tiểu mộng, không còn hôn trầm trong vô ký, mà luôn sống với Chơn Như
Trí, Căn Bản Trí, liễu liễu thường tri,
đối với cảnh không mê tức là tỏ rõ, tỏ rõ với cái niệm hiện tiền chứ
không duyên theo tùy niệm phân biệt của Ý thức và suy niệm chấp ngã của Mạt Na
Thức .
-
Thiền là sáng soi : Huệ của Tự
Tánh hằng sáng soi. Khi cần chiếu soi vật gì hay vấn đề gì, thì Trí Huệ Bát Nhã chiếu kiến đến tột cùng
nguyên thủy, không có cái gì ngăn bít được. Người Hành Thiền Tự Tánh khi đã phá
được Ngã chấp và Pháp chấp rồi thì Chơn Như Trí hiện bày, Huệ của Tự Tánh hằng
sáng soi. Trí và Huệ này vốn sẵn có trong Tánh Giác, không phải nhờ học mà có
hay đợi tu mới đắc. Phàm phu, Thánh hiền, Tiên, Phật đều có đủ như nhau, không
thêm không bớt. Chỉ vì phàm phu ngu mê nên bị che lấp, còn Phật Thánh là giác
ngộ nên nó hiển bày tỏ rõ sáng soi.
-
Thiền là an nhiên : Tự Tánh sẵn
có Trí Huệ Bát Nhã, mà Tự Tánh cũng có sẵn “ Định Lực Tam Muội”. Định lực này
không nhờ tu mới có, không nhờ tập mới thành, mà cái Thể của Tự Tánh thì vốn lặng
yên, nó không lay động, mà trong Định có Huệ, trong Huệ có Định. Định Huệ đi
đôi với nhau ở trong Tự Tánh nên gọi là “ Định Huệ đẳng trì”. Người Hành Thiền
Tự Tánh thể nhập với Tánh Giác Bồ Đề thì lúc nào cũng an nhiên trong cảnh Định
bất cứ giờ phút nào, lúc thức cũng như lúc ngủ, không phân biệt thời khóa,
không xuất không nhập, nên gọi là Đại Định : Thân Tâm lúc nào cũng an tịnh điềm
nhiên.
-
Thiền là điềm đạm : Do có Định Lực
Tam Muội của Tự Tánh, lúc nào cũng an nhiên tịch tịnh, cho nên gương mặt của
người Hành Thiền Tự Tánh lúc nào cũng điềm đạm
tươi tỉnh, không cau có bực dọc hay cười cợt lã lơi.
-
Thiền là bình tỉnh : Do Tự Tánh có sẵn Định lực thâm sâu, nên người Hành
Thiền Tự Tánh một khi đã thể nhập được vào Tam Muội Chánh Định, thì nó phát ra
một sức Nhẫn lực rất vững mạnh. Chính nhờ sức Nhẫn lực này mà hành giả mới chịu
được những nghịch cảnh khó khăn bên ngoài, như bị người hủy nhục chê bai, hủy
báng, hành hạ, đánh đập đau nhức thân tâm, thế mà vẫn giữ được nét mặt bình
tĩnh an nhiên. Có Định lực mới có Nhẫn lực. Có Nhẫn lực mới có bình tĩnh. Có
bình tĩnh mới có đủ sáng suốt để ứng phó mọi nghịch cảnh bên ngoài và mọi phiền
não bên trong một cách khéo léo.
- Thiền là hòa hưởn : Đã có được Đức
Tánh bình tỉnh, thì phong độ lúc nào cũng hòa hưởn, không vội vã hấp tấp lăng
xăng, do đó mà lời nói từ tốn, cử chỉ hành động được chửng chạc nghiêm trang.
-
Thiền là nhẹ nhàng : Người Hành
Thiền Tự Tánh có được sự bình tỉnh, điềm đạm và hòa hưởn, thì bốn oai nghi đi,
đứng, nằm, ngồi đều được nhẹ nhàng thanh thoát. Tướng đi nghiêm chỉnh mà nhẹ
nhàng như lướt trên mặt đất. Khi đứng lên hay ngồi xuống cũng nhẹ nhàng không
khua động. Khi nằm cũng nhẹ nhàng không lăn trở, dậm đạp hay quay cuồng. Khi
làm việc cũng nhẹ nhàng không gây tiếng động.
-
Thiền là cẩn thận : Người Hành Thiền Tự Tánh lúc nào cũng nhớ câu : “ Chế Tâm nhứt xứ, vô sự bất biện” Nghĩa là :
Khi làm việc gì chú tâm vào việc đó, thì không một việc làm nào mà không thành
công. Do đó, có bình tỉnh, hòa hưởn và nhẹ nhàng thì tâm an trụ một chỗ, nên việc
làm được cẩn thận, không cẩu thả dối trá, không hư bể mất mát.
-Thiền
là vén léo : Có chú tâm chăm chỉ làm việc cẩn thận thì việc làm đó mới được
vén khéo, tinh xảo, đẹp đẽ. Cho nên, người Hành Thiền Tự Tánh một khi đã thể nhập
Tánh Giác Bồ Đề thì bất cứ việc làm nào, từ trong chùa ngoài ngỏ, hay trong xưởng
ngoài đồng… đều làm được vén khéo tốt đẹp.
-
Thiền là sạch sẽ : Tự Tánh vốn sẵn trong sạch. Người Hành Thiền trở về với
Tự Tánh thì thân tâm lúc nào giữ được sạch sẽ và những vật y báo chung quanh
cũng giữ sạch sẽ, cho đến các việc làm của mình bất cứ chỗ nào cũng thể hiện sự
vén khéo sạch sẽ tinh khiết.
-
Thiền là tế nhị : Tế nhị có nghĩa là nhỏ nhiệm, ý nhị, sâu sắc bên
trong. Người Hành Thiền Tự Tánh chẳng những Thiền trong bốn oai nghi, hành động
cử chỉ bên ngoài được nhẹ nhàng cẩn thận, vén khéo, mà còn phải Hành Thiền ngay
trong ý nhị, sâu sắc, để phá trừ những
vi tế Vô Minh Hoặc. Muốn đối xử khéo léo với mọi người thì cần phải hành Thiền
tế nhị, và muốn tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì cũng phải có tế nhị của
Thiền mới thành công. Muốn thành Phật tác Tổ cũng phải Hành Thiền tế nhị .
-
Thiền là kỹ lưỡng : Nhờ định lực của Tự Tánh mà có được Nhẫn lực rồi
phát huy ra điềm đạm, bình tĩnh, nhẹ nhàng, cẩn thận, vén khéo, và kỹ lưỡng.
Trong lúc hành sự thì phải nhẹ nhàng, cẩn thận để không sơ suất, hư bể, thất
thoát. Sau khi làm xong việc còn phải kỹ lưỡng xem xét, kiểm tra lại cho thật
chu đáo đặng sắp xếp cho có thứ tự ngăn nắp thì mới hoàn thành được công tác một
cách mỹ mãn.
-
Thiền không vọng tưởng : Trong lúc tu tập còn non yếu thì thường bị giặc
giác quán vọng tưởng nổi lên công phá làm tán loạn nội tâm. Cho nên, người Hành
Thiền Tự Tánh là phải hằng sống với Tánh
Giác, niệm niệm không xen hở thì vọng tưởng mới không xâm nhập được.
-
Thiền chẳng hôn trầm : Khi Tọa Thiền lâu ngày, thân an trụ bớt đau nhức,
tâm bớt tán loạn, thì lại gặp con ma hôn trầm nó làm mờ mịt tâm trí, mơ màng
như say ngủ hoặc gục tới gục lui không định tỉnh, không làm chủ được mình, đó
là vì Định nhiều mà Huệ ít nên dễ bị hôn trầm. Nếu hành đúng theo Thiền Tự Tánh
là lúc nào cũng phải tỉnh tỉnh mà lặng lặng bằng nhau, tức là Định Huệ đẳng trì,
hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề thì luôn luôn tỉnh thức, và thức tỉnh tỏ rõ sáng
soi thì mới làm chủ được thân tâm không bị hôn trầm.
-
Thiền không rối loạn : Người đời suốt cả ngày cứ lo tranh danh đoạt lợi
để cầu cho vinh thân phì da, hoặc có người vì nghèo nàn túng thiếu, lo buôn bán
tảo tần làm ăn vất vả để tạo sinh kế cho gia đình nên tâm hồn không bao giờ được
an định, hết lo việc này đến tính chuyện khác, nghĩ nhớ lung tung, hoặc vui hoặc
buồn, hoặc mừng hoặc giận, thương ghét…do đó mà tâm bị rối loạn như tơ vò.
Người
tu biết đó là phiền não khổ đau, là nhân quả sinh tử luân hồi, nên mới nương tựa
ba ngôi Tam Bảo đặng học hỏi pháp tu cho tâm hết rối loạn.
Người
Hành Thiền Tự Tánh đã biết rõ Tự Tánh vốn không lay động, không sinh diệt, thì
làm gì có rối loạn, nên quay về sống với Tự Tánh, tất nhiên tâm lúc nào cũng
bình tĩnh sáng suốt. Đây là sức Định của Tự Tánh dù cảnh rối mà tâm không rối.
Cho nên Lục Tổ nói :
Tâm
địa không rối là Tánh minh Định
Tâm
địa không si thì Tánh minh Huệ
Tâm
địa không quấy thì Tánh minh Giác
Thiền
không chấp trước
: Đức Phật Thích Ca khi mới thành đạo dưới
cội Bồ Đề, Ngài dùng Phật nhãn nhìn khắp tất cả chúng sanh đều có đủ Trí Huệ đức
tướng như Phật, nhưng chỉ vì chúng sanh bị vọng tưởng chấp trước che mờ Chơn
Tánh nên không chứng đắc Phật quả, vì vậy Đức Phật mới dùng các pháp môn phương
tiện để khai thị chúng sanh nhận ra được Phật Tánh của chính mình thì mới hết
chấp trước vọng tưởng. Người Hành Thiền Tự Tánh đã biết rõ Tự Tánh không một vật,
bổn lai thanh tịnh, mà chúng sanh chấp có chấp không chấp phải chấp quấy, chấp
nhơn ngã bỉ thử cao thấp, chấp pháp này hay pháp kia dở…nên mới sanh ra rầy rà
phiền não. Bây giờ hay biết các sự chấp trước là sai lầm, nên trở về sống với
Tánh Giác Bồ Đề là tâm rỗng rang thanh tịnh, không còn chấp trước vướng mắc gì
cả thì mới được thanh thoát.
Kinh Kim Cang, Phật dạy : “
Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là nói rõ về sự không chấp trước vào chỗ nào thì
đó mới thật là Chơn Tâm thanh tịnh.
Thiền
không sợ hãi
: Trong Kinh Bát Nhã có câu “ Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn” Nghĩa là : Chơn Tâm vốn thanh tịnh, không có quái ngại
việc gì. Do không quái ngại nên không sợ hãi. Vì không sợ hãi nên mới xa lìa được
những điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đến cõi Niết Bàn. Người Hành Thiền Tự Tánh
thì an trụ trong tánh thể yên lặng, không có cái gì khủng bố mà làm cho mình sợ
hãi được, vì đã quán chiếu thấy “ Ngũ uẩn
giai không” tức Ngã và Ngã sở đều không thật thì có chi đâu mà sợ hãi ?
Trong Kinh Tứ Thập Nhị
Chương có câu : Người ta tại ái dục sinh lo, tại lo sinh sợ. Nếu bỏ được ái dục
thì không còn lo sợ gì nữa.
Thiền
không thủ xả
: Tất cả sự vật trên thế gian này đều Duy Thức biến hiện, tùy duyên giả hợp,
người mê không rõ được Lý này nên chấp chặt bảo thủ lấy những gì mình ưa thích
và buông bỏ những gì mình không chê ghét, nhẫn đến chấp chặt những thành kiến của
mình và bác bỏ những ý kiến của người khác. Người Hành Thiền Tự Tánh là hằng sống
với Tánh Giác Bồ Đề, gặp việc gì cần làm lợi ích chúng sanh thì tùy duyên ứng dụng,
việc xong rồi thì thôi chứ không chấp thủ cũng không buông xuôi. Việc gì qua rồi
thì không tiếc nhớ. Việc gì chưa đến thì không mong cầu. Việc gì hiện tại thì
bình tĩnh sáng suốt mà giải quyết, chứ không thủ không xả chi hết.
-Thiền
cả ngày đêm: Người Hành Thiền Tự
Tánh thì tâm luôn hằng tỉnh hằng giác bất cứ giờ phút nào, ngày cũng như đêm,
khi thức cũng như khi ngủ, không lúc nào phóng tâm xen hở nên gọi là Chánh Định, Chánh Niệm, là Tam Muội là Tổng
Trì .
-
Thiền không phân giờ : Đối với các môn tu Thiền khác, thì mỗi ngày phải
phân thời khóa để dụng công tu tập. Thí dụ như phân ngày đêm làm bốn thời Tý Ngọ
Mẹo Dậu, hoặc trú dạ lục thời v.v... Tới giờ công phu thì nhập định, hết giờ
thì xả thiền, như vậy là có nhập có xả. Khi nhập thì tâm định, khi xả thì tâm vọng
trở lại. Trái lại, Hành Thiền Tự Tánh là Thiền sống động trong tất cả thời, Thiền
cả ngày đêm, nên không phân chia thời khắc. Bất cứ nơi nào, giờ nào, làm bất cứ
việc gì tâm cũng an trụ trong cảnh Tự Tánh Thanh Tịnh nên gọi là Đại Thiền Định.
-Thiền
ở sáu căn : Phương pháp tu Thiền Tự Tánh rất dễ mà cũng rất khó, vì nó
không gò bó trong thời khóa Tọa Thiền hay Tụng Kinh, mà nó hằng Thiền trong tất
cả thời, khi tiếp xúc cũng như lúc ngồi nằm, luôn luôn thể nhập với Tự Tánh Thanh
Tịnh, không động không nhiễm, không chấp không trước, chính đó là một việc rất
khó. Khi mới tu tập, cần phải biết chỗ mấu chót của nó nơi nào mà nắm đúng thì
mới có kết quả.
Chỗ
mấu chốt của nó là ở sáu căn. Sáu căn thanh tịnh thì phát ra hào quang sáng
chói diệu dụng khắp mười phương, lợi lạc chúng sanh trong Tam giới. Còn nếu sáu
Căn ô nhiễm thì phát ra hành động xấu ác tạo nghiệp suốt ngày, hại người tổn vật,
gieo họa muôn đời.
Nhưng tu sáu Căn đây không
phải là “ Bế Lục căn, ngăn Lục thức, dứt Lục trần của ngoại đạo, mà vẫn khai Lục
căn thông Lục thức, nhậm Lục trần. Không cần ngăn chận gì cả, mà chỉ một điều
duy nhất là phải làm chủ được Lục căn, chỉ huy được Lục thức, không chiều theo
sự xúi dục của nó, mà bắt nó phải tuân phục theo mệnh lệnh của mình ( là Tự Tánh Bát Nhã ).”
Như
vậy, sáu Căn vẫn tiếp xúc với sáu Trần, sáu Thức, vẫn phân biệt tốt xấu, hay dở,
đen đỏ, lạnh nóng, ngon dở, thơm hôi…nhưng vì mình làm chủ được nó ( sáu Thức )
nên không duyên theo nó để sanh tâm khen chê, ưa thích, thương ghét, đắm nhiễm…tức
là tuy có phân biệt mà bất tùy phân biệt. Do có phân biệt tỏ rõ mà không khởi vọng
chạy theo sự phân biệt để chấp trước đắm nhiễm khen chê, thương ghét, tức là ta
đã chuyển Thức thành Trí, chuyển Vọng thành Chơn. Ngoài sáu Thức mà chúng ta dễ
nhận thấy, còn có hai Thức nữa nằm tiềm tàng ẩn sau bên trong, đó là Mạt Na Thức
và A Lại Da Thức.
Trong tám Thức này, chỉ có
anh Ý thức là khôn ngoan lanh lợi hơn cả. Cũng như một bọn cướp có tám tên, chỉ
có một tên đầu đảng là hung dữ và mưu trí hơn hết. Bấy lâu nay mình bỏ quên ông
chủ của mình ( Tự Tánh ) để cho bọn cướp tám tên này tự do hoành hành, gây tạo
nên vô vàn tội lỗi mà mình không biết, lại còn hưởng ứng với nó nữa. Bây giờ giựt
mình thức tỉnh ( giác ngộ ) rồi, mới nhận ra được ông chủ thiệt ( Chơn Tâm ) và
cũng nhận rõ được mặt mày của bọn cướp rồi thì ta hãy nhắm ngay tên đầu đảng là
Ý thức mà quật hạ nó. Khi nó đã khuất phục mình rồi thì bảy tên kia cũng sẽ tự
động quy hàng luôn. Khi đã quật hạ nó quy hàng rồi thì khỏi phải tiêu diệt nó,
mà mình bắt nó phải cải tà quy chánh, cải ác hành thiện, chuyển Vọng thành
Chơn, chuyển Thức thành Trí, từ đó về sau nó không còn làm mười nghiệp ác nữa,
mà luôn luôn chịu dưới sự chỉ huy của Trí Huệ Bát Nhã, tùy theo sự diệu dụng của
Tự Tánh mà làm tất cả việc lành để lợi lạc chúng sanh.
Tuy đường lối lý thuyết thì
chỉ bày như vậy, nhưng khi hạ thủ công phu để thực hành thì lúc ban đầu phải dụng
công rất nhiều mới có thể nhiếp phục được Ý Thức vì nó lanh lợi vô cùng, nên
trong kinh Phật thường ví nó là Tâm Viên Ý Mã, nếu không biết chỗ nhược điểm của
nó nơi nào mà nắm cho trúng thì không thể nào bắt được nó cả. Vậy phải tìm hiểu
trong sáu căn chỗ nào Ý Thức phát động mạnh nhứt, mình xiết chặt ngay chỗ đó, tất
nhiên Ý Thức sẽ mất đi phần lớn tác dụng thì sức nó sẽ yếu đi, sau đó mình mới
bắt nó quy hàng được. Cũng như muốn bắt được tên cướp hung dữ thì mình phải khóa
hai tay và trói hai chân nó thì nó sẽ hết vùng vẫy nổi. Cũng như đốn cây, trước
phải chặt nhánh rồi sau mới đào gốc, chứ nếu để cành lá sum suê mà đào gốc
ngang thì nó sẽ ngã xuống đập sập nhà mình.
-
Thiền nơi đôi mắt : Trong sáu căn có hai chỗ linh hoạt nhất là cặp mắt
và hai lỗ tai. Con mắt có hai tác dụng; Một là thâu vào những hình ảnh cảnh vật
bên ngoài, hai là phát lộ ra những tình cảm vui buồn bên trong. Người ta thường
nói : “ Con mắt là cửa sổ của tâm hồn ”, bởi vì khi giận, buồn, vui, mừng, lo
âu, sợ hãi, thương ghét, gì cũng đều hiện
rõ trên ánh mắt, nếu người tinh ý và có kinh nghiệm nhìn qua là biết ngay, mà tất
cả những biểu hiện đó đều do ý thức và ý căn làm chủ động xuất phát.
Vậy khi ta trở về Tự Tánh
Thanh Tịnh để Hành Thiền thì phải chế phục Ý căn và điều chỉnh nhãn căn cho
thanh tịnh để nó trở thành Thiền nhãn, phải dụng công lâu ngày từ ba đến năm
năm mới thành công. Khi đã thành thục rồi thì khỏi cần dụng công nữa mà lúc nào
cặp mắt cũng vẫn điềm đạm, trang nghiêm, ngó ngay, nhìn thẳng, nhìn xuống soi
vào nội tâm chớ không liếc xéo, liếc xiên, không trợn mắt, cau mày, không chớp
mi nháy mắt… lúc nào cũng hé mở một phần ba, khi tiếp chuyện thì thỉnh thoảng mới
mở lớn ra nhìn vào người đối thoại để nghe cho rõ hoặc để giải đáp một điều gì
mà thôi, còn khi Tọa
Thiền
thì mí mắt mở lớn một phần tư và đứng tròng không nháy mắt thường. Đôi mắt có định
thần được là biểu tượng cho tâm định. Nếu tâm động thì mắt nháy, càng vọng động
nhiều thì mắt chớp nhiều hoặc liếc ngó lia lịa.
Lúc chưa biết tu thì mắt tiếp
xúc với sắc trần thường phân biệt đẹp xấu rồi khởi tâm ưa thích hay chán ghét.
Nay ta làm chủ được Ý thức rồi thì mắt vẫn nhìn ngó phân biệt tốt xấu mà không
cho khởi tâm ưa thích hay chán ghét. Trước
kia, hễ kiến nhãn là động tâm. Nay kiến nhãn mà tâm không động vì mình biết sắc
trần là giả, là huyễn, không phải thật, nên mình không duyên theo nó, cũng
không để cho Ý thức nó gạt mình nữa. Sắc
trần cố trêu ghẹo mà mình vẫn lạnh lùng dửng dưng. Khi tiếp xúc với người, với
vật, với cảnh, mình không khởi niệm thứ hai thì tâm không động.
Khi làm việc, khi đọc sách,
khi học hỏi, ăn uống …mình chăm chú nhìn xem cho tỏ rõ tận tường nhưng không khởi
niệm ưa ghét. Thấy biết một cách trực giác chớ không cần suy nghĩ tính toán. Nếu
mắt ngó mà tâm động thì hay khiến cho tay rờ mó cầm nắm. Hoặc khi cảnh sắc đã
qua rồi mà mắt vẫn ngó theo mãi, điều đó chứng tỏ mắt đã nhiễm sắc rồi.
-
Thiền chính lỗ tai : Hai lỗ tai là cơ quan thâu nhập âm thanh tiếng động
bên ngoài đưa vào cho Ý thức phân biệt, nhận xét tiếng hay dở, phải quấy, khen
chê, mắng nhiếc, cười khóc…
Lỗ tai có nhiều tác dụng mạnh
hơn đôi mắt, vì mắt cần có ánh sáng mới thấy được vật, không có gì ngăn che trước
mắt mới nhìn thấy được. Còn lỗ tai không cần
ánh sáng, tối hay sáng vẫn nghe rõ, dù cách màng cách vách, cũng vẫn
nghe được. Lỗ tai lại nhạy cảm hơn con mắt, trong Kinh Pháp Hoa, Phật có nói :
Con mắt có 800 công đức, còn lỗ tai có đến
1.200 công đức, nên biết sử dụng nó vào việc lành thì đem lại rất nhiều lợi ích
cho chúng sanh. Khi lỗ tai tiếp xúc với Thanh trần bên ngoài thì sanh ra Nhĩ thức
phân biệt, rồi phê phán hay dỡ, ưa ghét mà có nhiều phiền não, sân si..
Nếu mắt dễ động trước Sắc trần thì lỗ tai lại càng nhạy cảm hơn đối
với Thanh trần. Nếu đó là những tiếng du dương, thánh thót dịu ngọt, thiết tha,
thì nó làm cảm động tâm hồn người nghe phải mê mẫn say sưa. Hoặc những tiếng mỉa
mai cay đắng, khinh chê, nhục mạ, khiêu khích… có thể làm khích động người nghe
phải nổi giận, tức tối, hay buồn rầu lo âu. Một đứa bé mới 5, 7 tháng chưa biết
đi biết nói, thấy những hình ảnh màu sắc chưa nhận thức được rõ ràng nên nó
không tỏ vẻ ưa thích. Trái lại, khi nó
nghe tiếng đàn tiếng nhạc tấu lên du dương kích thích vào Nhĩ căn của nó khiến
tay chân nó cũng kích động theo điệu nhịp nhàng của tiếng nhạc.
Những thanh niên nam nữ thường
hay bị rung cảm bởi những lời ca tiếng nhạc mà sa ngã vào đường trụy lạc, hay dễ
bị lừa gạt bằng những lời đường mật nỉ non. Như vậy, nhĩ thức dễ bị Thinh trần
gạt gẫm cám dỗ hơn là Nhãn thức.
Trái lại, Nhĩ thức cũng mau
giác ngộ quay về đường lành hơn Nhãn thức nếu gặp được Minh sư hay thiện hữu
tri thức giảng dạy chỉ bảo cho những điều đạo đức thanh cao.
Một người trung niên hay
lão niên gần suốt một cuộc đời si mê lầm lạc, chạy theo danh lợi, tình, tiền,
nhưng khi nghe được bài kinh tiếng pháp cảnh tỉnh tâm hồn thì họ quay đầu hướng
thiện, thậm chí những người đau bịnh nằm liệt trên giường sắp sửa lâm chung mà
nếu nghe qua được lời kinh tiếng kệ, rồi hồi tâm niệm Phật sám hối thì cũng được
vãng sanh về cảnh giới an lành khỏi bị đọa
vào ba đường khổ.
Người mù mắt mà lỗ tai
thông, cho học kinh nghe pháp thì mau thuộc mau nhớ hơn người sáng mắt mà lỗ
tai điếc. Như vậy biết rằng lỗ tai linh mẫn hơn con mắt.
Khi xưa, Đức Quán Thế Âm Bồ
Tát cũng dùng pháp tu “ Nhĩ căn viên
thông , phản văn tự tánh” mà được mau thành Đạo quả. Cho nên chúng ta tu Thiền
Tự Tánh đây không phải là bịt con mắt, bịt lỗ tai không cho thấy nghe gì hết,
mà ngược lại, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, vẫn hiểu biết rõ ràng những hình sắc,
tiếng tăm, âm thanh… nhưng vì mình làm chủ được nó, mình điều khiển được nó,
không chạy theo phân biệt vọng tưởng ưa ghét, khen chê… mà hướng nó quay về Tự
Tánh thanh tịnh, trong lặng sáng suốt, rồi phát ra diệu dụng cho nó làm tất cả
việc lành lợi ích chúng sanh.
Trong kinh Lăng Nghiêm có
câu : “ Kiến sắc phi can sắc,Văn thinh bất thị thinh, Sắc, Thinh vô ngại xứ,
Thân đáo Pháp Vương Thành”.
Nghĩa
là : Mắt thấy sắc tướng mà tâm không
phan duyên, không can dự vào sắc tướng. Tai nghe âm thanh mà Tánh nghe biết rõ
âm thanh chẳng phải thật, tâm vẫn an nhiên
thanh tịnh, đối với âm thanh sắc tướng không chỗ ngăn ngại thì tự thân
đã đến được thành Pháp Vương ( Phật quả
).
Kinh Kim Cang có câu :
“ Nhược dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã ; Thị nhơn hành tà đạo, Bất năng kiến Như Lai ”.
Nghĩa là : Nếu người nào
dùng hình tướng mà muốn thấy được Ta, hoặc dùng âm thanh mà muốn thấy được Ta,
thì người ấy hành Đạo tà, chẳng thể thấy được Phật Pháp Thân.
Con mắt có thể nhắm hay mở,
có thể thu thập hình ảnh bên ngoài vào bên trong mà cũng có thể biểu lộ tình cảm
và cũng không đóng bít lỗ tai lại được, nên con mắt dễ chế ngự hơn lỗ tai. Vậy
muốn tu nơi lỗ tai tức là muốn điều khiển được lỗ tai phải dùng trí Bát Nhã bắt
nó phản văn tự tánh, là xoay tánh nghe trở lại tự tánh. Vì tánh nghe vốn sẵn
thanh tịnh mà chỉ vì phân biệt theo thinh trần nên mới sanh ra phiền não nên
vui buồn v.v…
Thiền
trong lỗ mũi
: Kế đến là tu Tỷ căn, lỗ mũi có hai tác dụng; Một là để thở, hai là
để ngửi. Khi thở vào đem thanh khí, dưỡng
khí vô buồng phổi đặng lọc sạch chất thán khí trong máu, đem dưỡng khí theo máu
đi nuôi cơ thể khắp châu thân. Khi thở ra thì tống xả những thán khí dơ xấu ra
ngoài, nhờ đó mà con người mới được sống còn, mạnh khỏe ít bịnh.
Còn
khi ăn uống hay thưởng thức món gì, lỗ mũi dùng khứu giác để ngửi mùi rồi phân
biệt qua ý thức xem món đó thuộc mùi gì, thơm hay hôi, nồng hay dịu v.v…Sau khi
phân biệt mùi gì rồi thì khởi tâm ưa thích hay ghét bỏ v.v.. Nếu món ăn có mùi
thơm ngon thì ý thức kích thích bao tử cồn cào đói bụng và cái miệng thì muốn
ăn, cái lưỡi thì muốn nếm, khi khởi ý thèm quá thì nước miếng chảy ta thúc giục
cái tay bốc ăn, cái chân bước tới chỗ có món ăn. Nếu món ăn có mùi hôi thúi,
tanh hắt vào lỗ mũi thì ý thức phân biệt không ưa, khiến tay bịt mũi, chân bước
xa, hoặc món gì quá hôi tanh, quá gớm ghê mà không tránh được thì nó cũng khiến
cho nôn ụa ra nước dãi, nước mật rất khó chịu.
Hành Thiền Tự Tánh muốn tu
tỷ căn này thì cũng bất tùy phân biệt theo mùi thơm hôi thì mới giữ tánh ngửi
được thanh tịnh.
Ví dụ mình đang làm việc gì
hay đang ngồi Thiền ở nhà trên mà có mùi chiên xào ở dưới nhà bếp bay lên xông
vào mũi, nếu mình khởi ý duyên theo mùi đó thì tâm ý liền nghĩ ngay đến món ăn
và khởi lên thèm ăn, tức mình đã động và nhiễm theo món ăn, tuy thân đang ngồi
Thiền mà tâm không còn định được nữa. Vì nó đã phóng ý xuống nhà bếp rồi. Vậy
luôn luôn phải tỉnh giác, phải làm chủ tâm thức, điều khiển ý căn không cho nó
duyên theo hương trần, vì hương trần chỉ là giả hợp, như huyễn không thật . Vì
tự tánh vốn không thơm thúi, nếu còn có thấy thơm thúi, ưa ghét thì đó là tâm
sanh diệt pháp sanh diệt, không phải tự tánh thanh tịnh.
Hành Thiền nơi tỷ căn là điều
khiển hơi thở cho nó được điều hòa, nhẹ nhàng , sâu và chậm. Hơi thở có điều
hòa thì thân mới an và tâm mới định. Nếu hơi thở không điều hòa theo kiểu
phong, khí, suyển thì thân sẽ nhúc nhích và tâm sẽ loạn động.
Người nào làm chủ được hơi
thở đến chỗ vi tế là có thể làm chủ được sự sống chết. Trong Kinh Tứ Thập Nhị
Chương, Phật có hỏi ba vị Tỳ kheo, mạng sống con người được bao lâu ? Vị thứ nhất đáp, mạng sống con người trong
vòng một ngày. Phật bảo Ông chưa hiểu đạo. Vị thứ hai nói: mạng sống con người
trong một bữa ăn. Phật cũng bảo Ông chưa hiểu đạo. Vị thứ ba đáp: Mạng sống con
người trong một hơi thở. Phật khen, ông hiểu đạo rồi đấy.
Thiền nơi của miệng : Kế đến tu cái miệng,
Khẩu nghiệp cũng mạnh lắm không phải vừa chi, bởi vì cái miệng dùng để ăn uống vật thực. Lại còn có cái lưỡi để nếm mùi vị
và nói năng bàn luận. Khi cặp mắt tiếp xúc với cảnh vật rồi, sanh ra ý thức
phân biệt là đẹp xấu, hay dỡ, ưa ghét v.v…thì nó khiến cho cái miệng phát ra lời
nói khen hay chê v.v..
Khi lỗ tai nghe lời nói, âm
thanh, tiếng tăm bên ngoài thì ý thức cũng phân biệt hay dở, phải quấy, ưa ghét
mà phát ra lời khen chê, phê phán v.v… Như vậy cái miệng là cơ quan phát ngôn
cho con mắt và lỗ tai để nói lên sự mừng giận, thương ghét, vui buồn. Nếu người
nào con mắt sáng, lỗ tai nghe rõ, mà cái miệng bị câm không nói được, thì người
đó sẽ sanh nóng giận, bực tức khó chịu lắm và thường phát lộ ra sự ưa ghét hay
giận tức của mình bằng hai tay và hai chân.
Cái
miệng là cửa khẩu đưa thức ăn vật uống vào bao tử, khi bụng đói thì nó bắt cái
miệng thèm ăn, khi ăn lại bị cái lưỡi phân biệt mùi vị chua ngọt, mặn lạt, đắng
cay mà sanh tâm ưa ghét. Nếu món ăn nào mà ý thức cho là ngon thì muốn ăn thật
nhiều cho thỏa mãn vị dục, nếu bị ai cản trở không cho ăn hay ăn ít thì sanh ra
giận dữ buồn phiền, nên người đời thường nói : “ Món ăn là món tồi tàn, mất ăn
một miếng lộn gan lên đầu ”. Đó là tham ăn, cố ăn. Trái lại món ăn nào ta không
ưa mà cứ dọn cho ta ăn hoài thì cũng sanh tâm ghét giận phiền não. Những người
có tật háo ăn hay gọi là xấu chứng đói thường hay giận dữ làm phiền khổ gia
đình vợ con.
Khi
mắt thấy món ăn ngon hay tai nghe nói món ngon thì ý thức khởi lên thèm ăn, khi
thèm quá thì nước miếng chảy ra để thúc giục mình đi tìm món ăn, nước đó gọi là
nước ái dục, nó nằm sẵn trong châu thân và thường chảy ra từ cửu khiếu tùy theo
chỗ nào khởi ra sự thèm khát.
Lại
có những người bụng không đói mà thường đói vì con mắt, hay đói vì lỗ tai, vì
khi thấy ai bán gì hay nghe ai rao bán món gì ngon thì cũng động tâm muốn ăn,
khiến cho mình phải ăn hàng, ăn vặt, ăn phi thời mãi. Hoặc đôi khi bị bụng đói,
hay mắt đói, chịu không nổi phải đi ăn vụng, ăn cắp.
Tất
cả những người trên đây đều không làm chủ được vọng tâm và không điều khiển được
khẩu nghiệp của mình nên mới có những hành động như vậy.
Trong
kinh có câu :
Món ăn ngon dở
có ra chi
Nuốt qua khỏi
cổ thành chi đó
Sao khỏi tỉnh
hồn nghĩ thử coi.
Trong
khi đau bịnh cần phải cử kiêng thế mà mình cứ ăn uống bừa bãi những món ăn độc
hại hoặc nghĩ lầm là ăn nhiều cho mau lại sức khiến cho bội thực khó tiêu, làm
cho bịnh nặng hơn, có khi bị chết vì trúng thực nữa. Hoặc có người làm biếng
ham ăn, mê ngủ, thì suốt đời chỉ làm con mọt của xã hội không lợi ích gì cả.
Đó
là nói cái xấu, cái tệ của miệng ham ăn.
Trong Kinh Di Giáo, Phật dạy
: “ Tỳ kheo, các ông phải coi ăn uống như là phục dược. Đối với thức ăn ngon ,
hay không ngon, đừng thích ăn nhiều hay ăn ít. Coi sự ăn uống cốt để sống, để
khỏi đói khát mà thôi, không được cần nhiều để làm tổn hại tâm thiện của mình
và của người ”.
Đến
phần cái lưỡi lại càng tai hại hơn nữa. Cái lưỡi có tác dụng nếm các thức ăn và
uống, để phân biệt ngon ngọt, béo bùi, mà nhiễm trước rồi sanh phiền não. Nó
còn công dụng khác nữa là để phát ra lời nói.
Con
mắt hay lỗ tai nghe thấy điều gì, mà phân biệt, hiểu biết thì tâm ý khiến cho
cái lưỡi phát động để nói lên cảm tưởng, ý thích của mình. Hoặc nói lời thương
yêu triều mến, khen ngợi dịu ngọt v. v…hoặc nói lời ganh ghét, chê bai, nhục mạ,
hoặc nói dối nói lác nói thêu dệt lừa gạt, nói đâm thọc, chửi mắng v.v..
Sách
Nho có câu : “ Nhất ngôn khả dĩ tán bang, nhứt ngôn khả dĩ hưng bang ”. Nghĩa
là : “ Một lời nói có thể làm tan gia bại sản, cũng một lời nói có thể làm nên
sự nghiệp, hưng thịnh nước nhà”.
Đạo Lão cũng có câu khuyên
người tu hành : “ Khẩu khai thần khí
tán, thiệt động thị phi sanh “. Mở miệng ra thì thần khí tan mất, còn lưỡi vọng
lên thì sự hơn thua phải quấy phát ra.
Trong kinh có câu : “ Phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung
Sở
dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn ”. Nghĩa là : Người ở đời xử thế , búa dao ở tại
trong miệng . Sở dĩ hại thân là do lời nói ác độc của mình.
Trong sáu căn của con người
thì cái miệng là nơi dễ sanh ra ác cảm nhứt, vì nó hay nói những lời thị phi tốt
xấu, khen chê v.v..cho nên Phật ví dụ như ngon dao bén, gây thù kết oán, giết hại
lẫn nhau cũng do lời nói bất thiện. Tục ngữ có câu :
Con ếch nó chết cũng vì cái
miệng. Con người mang họa cũng tại cái miệng. Trái lại, khi người đã giác ngộ
làm chủ được vọng tâm rồi thì cũng từ cái miệng ấy mà tạo ra muôn ngàn thiện
nghiệp. Như trong Kinh Pháp Hoa có câu :
Cái miệng đã thanh tịnh rồi
thì có 1.200 công đức. Dùng cái miệng ấy mà thuyết pháp. Giảng kinh, giáo hóa
chúng sanh, nghe được pháp lành cải tà quy chánh, tụng kinh, niệm phật, ăn
chay, nói lời chân thật, hòa nhã êm dịu, đạo đức, khiến cho người nghe sanh
lòng hoan hỷ, mát mẻ an vui. Nghe được câu kinh lời kệ mà độ người, độ vật,
phát tâm Bồ đề tu hành giải thoát đến quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác
thì công đức vô lượng vô biên.
Cổ đức có câu : “ Mặc, mặc,
mặc vô hạn thần tiên tùng thử đắc”
Tức
là nín lặng cả ba nghiệp, Thân, Khẩu, Ý thì bao nhiêu quả vị Thần Thánh, Tiên
Phật cũng đều từ đó mà thành tựu.
Người ngu si mê chấp theo
miếng ăn lời nói mà tranh đấu giành giựt, giết hại nhau không gớm tay, cũng như
hai con chó giành nhau cục xương mà phải cắn lộn đến đỗ máu què chân, khiến cho
người trí nhìn vào phải đau lòng thương xót, làm trò cười cho thiên hạ và để tiếng
nhơ cho hậu thế.
Muốn tu cho khẩu căn này được
thanh tịnh thì phải sắp xếp sự ăn uống có giờ khắc, không ăn phi thời, ăn hàng,
ăn vặt v.v... mà ăn theo tiêu chuẩn không quá hạn lượng dầu món ăn ngon hay dỡ
cũng vậy. Phải biết kiêng cử những món ăn độc hại không thích hợp với cơ thể
khi bịnh hoạn, ăn uống có tiết độ như vậy lâu ngày mới thắng được khẩu nghiệp
đòi hỏi.
Còn về lời ăn tiếng nói thì
phải tập nói ít lại, không nói nhiều, không nói dai, không nói to, tập nói lời
hòa nhã lễ độ, khiêm nhường, thành thật, đối với bất cứ người lớn hay trẻ nhỏ,
không nói lớn lời hỗn ẩu, không nói dối trá, dua nịnh, chê bai, mỉa mai, không
nói phi thời, phi pháp, phi lễ, mà chỉ nói đúng lúc, đúng nghĩa, đúng pháp, nói
vừa đủ nghe đủ hiểu, không nói quá lâu, quá nhiều làm chán người nghe.
Sách xưa có câu : “Bán cú
phi ngôn, Năng tổn bình sanh chi đức”. Nghĩa là : Nửa câu nói quấy có thể làm tổn
giảm công đức đời tu của mình”.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật
ân cần dặn dò : “ Tỳ kheo các ông, nếu cứ
hý luận hết thứ này đến thứ khác thì các ông sẽ bị tán loạn. Tuy là người xuất
gia mà không đắc đạo giải thoát được . Ấy thế cho nên các ông phải xa bỏ ngay
hý luận. Nếu các ông muốn chứng được cái vui tịch diệt Niết bàn, các ông cần giữ
tâm không hý luận thì sẽ được công đức cứu cánh đó.
Thiền
cả thân mình.
Thân đây gồm đầu, cổ, hai tay, hai chân và thân mình. Thân căn có tác dụng xúc
chạm, đi đứng, nằm ngồi, làm việc v.v.. Khi xúc chạm với sắc trần nhờ ý thức
phân biệt cảm giác sẽ biết được vật đó
trơn hay nhám, cứng hay mềm, tròn hay méo, lạnh hay nóng, đau ngứa v.v…rồi khởi
tâm thương ghét, thích hay chán, vui buồn v.v…
Hai
tay chuyển động làm tất cả sự việc từ lớn đến nhỏ, do sự chỉ huy của ý thức như
: Nhà cửa lâu đài, dinh thự cung điện, thành ấp, đường sá, cầu cống, xe cộ, phi
cơ, tàu thủy, dời non lấp biển….cũng đều do hai bàn tay và khối óc kiến tạo ra.
Trái lại, cũng hai bàn tay và khối óc, như khoét vách đào tường, trộm cắp, cướp
giựt, xung đột, chiến tranh, chế tạo vũ khí tối tân để giết người hàng loạt, hoặc
làm hạnh nhơ xấu như cờ bạc, hút xách, rượu chè, say sưa, dâm dật, tứ đổ tường
…
Tất
cả hành vi tạo tác của thân căn gây ra hoặc thô hoặc tế, mà phần chủ động là Ý
căn điều khiển. Hai chân cũng chịu sự điều khiển của Ý thức mà hoặc đi hoặc đứng,
hay nằm ngồi, chạy nhảy, tới lui…Như vậy, thân hình và tứ chi là công cụ, là
tay sai đắc lực của Ý thức.
Những
hành động thiện ác, tốt xấu, hay dở, nhẫn đến tạo thiên lập địa, dời non lấp biển
cũng đều do hai bàn tay con người làm ra, cho nên Bác Hồ có hai câu thơ :
Hai tay làm nên tất cả
Có
sức người thì sỏi đá cũng thành cơm.
Trong
kinh Di Giáo, Đức Phật có dặn các hàng đệ tử phải luôn luôn kiềm chế ngũ căn đừng
để cho nó phạm vào ngũ dục lạc. Ngũ dục
lạc là Tài , Sắc, Danh, Thực, Thùy. Nếu phóng túng ngũ căn thì không những chỉ
phạm vào ngũ dục mà thôi, mà còn phạm vào những sự ham muốn không bờ bến, cũng
như con ngựa dữ không có dây cương hãm thì nó sẽ lôi người xuống hầm hố. Bị hại
về giặc cướp thì chỉ khổ có một đời, bị hại về ngũ căn thì tai vạ đến nhiều đời.
Cái hại to như thế phải hết sức cẩn thận.
Chúng
ta hành Thiền Tự Tánh, muốn tu phần thân căn thì phải tập cho hai tay, hai chân
uyển chuyển dịu dàng, làm bất cứ việc gì cũng phải từ từ chậm rãi, nhẹ nhàng
không vội vàng, hấp tấp, vụt chạt, đặng kiềm chế thân căn.
Tập
tọa Thiền là một phương pháp chế phục thân căn rất hay. Hai chân ngồi tréo kiết
già tức là trói buộc cặp giò không cho chạy nhảy lung tung. Hai tay bắt ấn Tam
muội là cột trói lại không cho nó hành động sai trái mà tội nặng nhất là Sát, Đạo,
Dâm.
Cái
miệng ngậm lại, cuống lưỡi để cong lên ổ gà chặn đứng khẩu nghiệp, không cho vọng
ngôn ác ngữ.
Hai
mắt khép nhỏ lại một phần tư để soi vào nội tâm không nhìn ra ngoài.
Hai
lỗ tai nghe lại tự tánh thanh tịnh không cho hướng ra ngoại duyên theo thanh trần.
Ý
căn không cho khởi vọng nghĩ suy mà phải thể nhập với tánh giác Bồ đề bản lai
thanh tịnh.
Như
vậy, tọa Thiền chẳng những kiềm thúc thân căn mà thật ra nhiếp phục luôn cả ba
Nghiệp, sáu Căn.
Lúc
đầu chưa quen, trói buộc như vậy thì cơ thể sẽ phản ứng bằng cách khó chịu, mệt
mỏi, đau nhức, ngứa ngáy v.v...Nhưng ráng dụng công lâu ngày chầy tháng quen dần
sẽ cảm thấy yên ổn nhẹ nhàng, không còn loạn tưởng hay hôn trầm. Như vậy gọi là
Thiền Định, đến khi xả Thiền nhưng tâm vẫn an định với tự tánh. Tay chân đã
quen với sự kết ấn, kiết già, nên không quơ tay, đá chân như trước kia nữa. Miệng
đã ngậm quen với tự tánh nên không còn nói chuyện bông đùa hý luận. Mũi không để
ý đến mùi vị thơm ngon. Mắt không liếc nháy theo sắc tướng bên ngoài. Tai không
phan duyên theo thinh trần, tiếng động. Do đó, ngoài giờ hành Thiền kiết già
phu tọa, mình ra làm tất cả công việc như quét nhà, gánh nước, nấu cơm, chẻ củi,
giặc giũ, cuốc đất, trồng cây, buôn gánh, bán bưng, lao động sản xuất v.v… tất
cả tác động đều chú tâm vào đó nên việc làm được nhẹ nhàng, kỹ lưỡng, cẩn thận,
sạch sẽ, vén khéo, điều hòa, nhờ vậy mà việc làm đạt được kết quả tốt, năng suất
nhiều, phẩm chất cao, không hư không bể, không sơ suất, ít tổn hại, không hao
phí v.v...
Tuy nhiên, vì mới tu tập, đôi khi cũng quên mất
ông chủ của mình mà buông lung theo tập khí ( thói quen cũ ) nên phải dùng giới
luật làm hàng rào ngăn chận những hành động xấu ác. Phải hành lễ sám hối cho
thân nghiệp được nhẹ nhàng. Phải làm việc lao động cho ra mồ hôi đặng giải bớt
chất kích thích tố và độc tố trong người. Mỗi ngày chỉ độ một hoặc hai bữa cơm
mà thôi để cho cơ thể không tích trữ nhiều chất béo bổ làm nặng nề cơ thể, vì
trong máu dư nhiều chất mỡ, cholesterol dễ sanh ra nhiều bịnh khó chữa như tim,
mạch, tuần hoàn …
Đi,
đứng, nằm, ngồi, tiếp chuyện v.v…oai nghi đều tịch tịnh tranh nghiêm, điềm đạm,
tươi tỉnh khiến cho người khác trông thấy sanh lòng cảm mến kinh trọng, cho nên
trong kinh có câu:
Hữu
oai khả úy, hữu nghi khả kính.
-
Thiền tại ý căn : Trong sáu căn của
người thì Ý căn là quan trọng nhứt, vì nó có tác dụng bảo vệ thân căn và làm chủ
thân mạng của mình. Trong Duy Thức Học gọi nó là Mạt Na Thức tức là Ý thức chấp
ngã. Bản chất của nó là Ngã si, Ngã ái, Ngã mạn, Ngã kiến, cho nên nó luôn ích
kỷ, bỏn xẻn, cố chấp, tham lam. Vì ngã si nên tham lam. Vì ngã ái nên ích kỷ,
Vì ngã mạn nên cống cao, vì ngã kiến nên cố chấp.
Làm
bất cứ việc gì có tính cách phục vụ sung sướng cho ngã và ngã sở ( tức bản thân
mình và những người thân yêu của mình ), thì nó rất chịu và tán đồng thúc đẩy,
trái lại làm việc gì chỉ phục vụ cho người khác mà mình bất lợi hay thiệt thòi
thì nó cự tuyệt phản kháng. Vì thế nó thường chủ trương làm việc ác hơn là việc
thiện, dầu có làm việc thiện thì cũng phải có lợi cho mình nhiều thí nó mới chịu.
Từ
Ý căn phát ra Ý thức để phân biệt, hiểu
biết và phán đoán hay dở, tốt xấu khi năm căn tiếp xúc với năm trần, đồng thời
nó quyết định sự ưa thích, thương ghét v.v... rồi truyền lệnh chỉ huy cho năm
căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ) làm việc hoạt động theo ý kiến của nó.
Ý
căn này không có hình tướng, ẩn tàng bên trong nên gọi là Tâm, nhưng vì nó
duyên theo sáu Trần sanh ra sáu Thức để phân biệt chấp trước, nhận định sai lầm,
nên gọi là Tâm thức hay Tâm vọng. Trong Duy Thức gọi đó là Biến Kế Sở Chấp.
Trong Kinh Di Giáo Đức Phật dạy : “ Trong sáu Căn, Tâm ý là chủ, ấy thế nên các
ông phải khéo kiềm chế lấy Tâm thức, phải sợ Tâm Thức hơn sợ rắn độc, loài thú
dữ, như giặc oán thù, như sợ ngọn lửa to đang cháy mạnh…những tỷ dụ này cũng
chưa đủ tỏ hết sự tai hại của nó. Các ông phải kiềm chế gấp lấy Tâm ý, đừng để
nó phóng túng. Kiềm chế tâm vào một chỗ thì việc gì cũng hay tốt cả. Ấy thế Tỳ
kheo các ông phải cố tinh tấn để chiếc phục lấy tâm của các ông.
Người
Hành Thiền Tự Tánh biết rõ Ý thức là giả vọng chẳng những không nghe theo nó mà
còn phải dành lấy quyền làm chủ của mình đã lâu nay bị nó cướp đoạt chủ quyền.
Bắt mình làm nô lệ, sai sử mình phải trôi lăn nhiều kiếp trong ba cõi sáu đường.
Phải dùng trí tuệ Bát Nhã thấy rõ con người thật của mình là Tánh Giác Bồ Đề bổn
lai thanh tịnh, còn ý thức là hư vọng sanh diệt không có Tự thể. Biết rõ thấy
rõ như vậy rồi, mình liền đứng trên vị trí Tự Tánh mà quán chiếu thì sẽ thấy
bao nhiêu việc làm của ta từ trước đến nay đều là mê lầm vọng chấp, là tà kiến
đảo kiến không chơn thật. Bấy giờ mình nắm lại quyền làm chủ, hằng sống với
Tánh Giác, chiếc phục được Ý thức, đổi Mê ra Ngộ, chuyển Thức thành Trí, hướng
dẫn nó làm các việc lành lợi ích chúng sanh.
Như
vậy Tâm thức làm chủ động tất cả sáu Căn, tam nghiệp, tùy theo sự Mê hay ngộ mà
làm việc có thiện hay ác, nên trong Kinh
có câu nói về Ý thức là “ Công vi thủ, tội vi khôi ”. Nghĩa là : Khi mê tạo tội đứng đầu, mà lúc ngộ thì lập
công bậc nhất”.
Người
học Đạo cần phải nhận rõ Chơn Tâm và Vọng Tâm. Tánh Giác và Tâm Thức ra sao thì
mới không lạc vào Tà Kiến. Chơn Tâm vốn thanh tịnh, nhưng vì mê chấp mà trở
thành Vọng Tâm sanh diệt. Tánh Giác Bồ Đề hằng tỏ rõ, mà vì nhiễm trước trần
lao, bị vô minh che lấp, nên biến thành Tâm Thức phân biệt, chứ thật sự chỉ có
một tâm Chơn Như thanh tịnh mà thôi.
Trong
Kinh Pháp Bảo Đàn có câu kệ :
Bồ Đề là Tự
Tánh
Tâm động thành
vọng tưởng
Khi vọng khá
tịnh lặng
Tâm chánh
không ba chướng
Muốn
tu hành làm chủ được ý căn, ý thức, thì ta phải:
Học hỏi theo
bậc Thánh nhơn
Phải trừ Tâm
Vọng mới hườn bổn nguyên
Vọng Tâm là ý
tư riêng
Thất tình lục
dục một tên khác gì
Thường nên kiểm
soát hành vi
Khi ăn, lúc
nói, đứng, đi, ngồi, nằm
Đừng cho Vọng
ý phóng tâm
Phải nhờ Giới
Luật buộc cầm khát khao
Tuy không thấy
ý chỗ nào
Nhưng khi động
tác, ý xua ra ngoài
Nếu ai Thiền
Định hoài hoài
Ấy là ý đã bị
cai trị rồi.
Vì
vậy, Hành Thiền Tự Tánh là phải Thiền trong tất cả thời, hằng sống với Tánh
Giác, niệm niệm không hề xen hở thì mới chế phục được Ý căn làm chủ được Ý Thức,
điều khiển được ngũ căn bên ngoài, làm tất cả việc lành lợi ích chúng sanh,
không cho nó buông lung tung hoành, nghĩa là đã phá được Ngã chấp và Pháp chấp
mới thể nhập được với Tự Tánh thanh tịnh của mình.
Vì
sao ta phải Hành Thiền trong tất cả thời ?
Vì Ý thức nếu buông lỏng ra thì nó sẽ làm việc trong tất cả thời, thậm
chí trong giấc ngủ nó cũng làm việc theo cảnh chiêm bao. Việc làm của nó là vọng
tưởng điên đảo, mưu này kế nọ, buồn vui giận ghét theo thất tình lục dục, rồi tạo
nghiệp dẫy đầy để rồi phải chịu quả báo phiền não vô lượng vô biên. Nay ta đã
giác ngộ rồi, quay về sống với Tự Tánh thanh tịnh, niệm niệm không rời, thì Tâm
thức không còn chỗ hở để xen vào quấy nhiễu ta nữa. Như vậy gọi là Thiền tại Ý
Căn, nắm quyền làm chủ trong tất cả thời.
Trong
thân người gồm có sáu Căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý duyên theo sáu Trần
bên ngoài là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp sanh ra sáu Thức là Nhãn thức, Tỷ
thức, Thiệt thức, Thân thức, và Ý thức. Cộng chung là 18 giới. Do có 18 giới
này mà tạo ra sơn hà đại địa, cây cỏ núi sông, người vật, chúng sanh …
Chúng
ta Hành Thiền Tự Tánh là phải nhận thức cho ra Chơn Tâm Thường Trụ của mình là
Bản Thể bất sanh bất diệt, là ông chủ thường hằng thật sự của mình. Còn những
pháp bên ngoài đều là Duy Tâm Sở Hiện, Duy Thức Sở Biến, do Y tha khởi rồi mê lầm
Biến Kế Sở Chấp đó thôi.
Chúng
ta phải dụng trí tuệ Bát Nhã quán chiếu nguyên thể của các pháp. Các pháp trên
thế gian là do Thức biến hiện, mà sáu Thức sở dĩ có là do sáu Căn tiếp xúc với
sáu Trần mà phát sanh ra. Quán xét sáu Căn và sáu Trần đều do Ngũ uẩn duyên hợp
mà thành, đến khi duyên tan cũng trả về Bản Thể Chơn Không, chứ nó không có Tự
Tánh riêng. Mà cái gì cũng do duyên hợp kết thành thì nó giả huyễn vô thường,
biết nó là giả huyễn vô thường thì mình không mê chấp bám víu vào nó làm chi ?
Biết buông xả cái giả để trở về với cái chơn thật của mình là biết Hành Thiền Tự Tánh vậy.
-
Thiền lúc tụng kinh : Lâu nay, phần
đông những người tu Thiền không chịu tụng kinh mà có khi còn bài bác người khác
tụng Kinh là Sự tướng, thấp, dở… Thật ra Kinh điển đâu có lỗi gì mà chê bai ?
Kinh là miệng của Phật, còn Thiền là Tâm của Phật. Nhờ kim khẩu của Phật nói ra
giáo pháp mà chúng sanh mới biết được Giáo pháp để tu hành. Nếu không có Kinh
điển thì người đời lấy đâu y cứ mà tu ? Tụng Kinh giả minh Phật chi lý. Nhờ có
đọc tụng Kinh điển mới hiểu rõ Chơn lý. Đức Phật thường thí dụ : Kinh như ngón
tay chỉ mặt trăng, còn mặt trăng thì tượng trưng cho Chơn lý. Nếu bỏ ngón tay
thì không thấy được mặt trăng, hoặc chấp nhìn vào ngón tay thì cũng không thấy
được mặt trăng.
Khi
tụng Kinh cần phải tìm hiểu ý nghĩa, chứ đừng tụng suông, chỉ được phước chứ
không được tuệ.
Người
Hành Thiền Tự Tánh mà tụng Kinh, có nhiều tác dụng tự lợi lợi tha, tự giác giác
tha của Đại thừa Bồ Tát. Khi ngồi tụng Kinh, chúng ta cũng tọa Kiết già, thân
thể ngay thẳng trang nghiêm, mắt tai miệng nhiếp vào một chỗ, tâm trụ vào câu
Kinh để rà lại sự tu của mình có hợp với lời Phật dạy hay không, và để tìm
nghĩa lý sáng tỏ hơn những chỗ mình chưa hiểu, đó là tự lợi tự giác, còn miệng
mình đọc tụng lớn lên là để cho mọi người ngồi chung quanh cùng nghe cùng hiểu
lời Phật dạy, chẳng những người sống được nghe, mà chí đến những kẻ vô hình như
các vong linh quá cố, quỷ thần, chư thiên, a tu la, dược xoa… cũng đều được
nghe mà phát tâm tu hành, đó là lợi tha giác tha. Một việc làm mà được lợi ích
hai bên như vậy không đáng quý sao ?
Trong lúc đứng hay ngồi tụng kinh, thân nghiệp
và khẩu nghiệp được thanh tịnh, tức là Giới. Ý nghiệp không phóng tâm vọng tưởng,
tức là Định. Nhờ lời Kinh câu Kệ mà Trí được sáng tỏ, thì đó là Huệ. Giới, Định
Huệ đầy đủ thì đó là Hành Thiền rất miên mật rồi, còn đi kiếm Thiền ở đâu nữa ?
Tuy nhiên, hành giả phải biết tùy theo sức khỏe và tuổi tác mà tụng kinh: Từ tuổi
bé cho đến 30 thì tụng lớn cho nở phổi. Từ 30 đến 60 thì tụng vừa nghe để dưỡng
hơi. Từ 60 trở lên thì nên tụng thầm để tích hơi. Khi tụng Kinh miệng đọc mà
tai phải nghe cho rõ và trí phải hiểu nghĩa cho rõ thì mới đúng pháp Hành Thiền
khi tụng kinh.
Thiền
khi niệm Phật
: Trong Ngũ Đình Tâm Quán, Đức Phật dạy pháp môn niệm Phật để đình chỉ vọng tâm
loạn tưởng. Khi loạn tưởng hết rồi thì Niệm Phật cũng không dùng. Đó là phương
pháp lấy vọng để trừ vọng. Khi Tâm đã yên lặng rồi thì khỏi Niệm Phật nữa. Cũng
như lấy gai lễ gai, khi cái gai bị đạp dính trong chân đã lấy được gai ra rồi
thì cái gai dùng để lễ cũng bó luôn.
Người
Hành Thiền Tự Tánh mà Niệm Phật là để xoay cái Tâm chúng sanh quay về Tâm Phật.
Phật là giác ngộ, là sáng suốt. Khi ta tu, niệm một câu Phật hiệu là tăng thêm một câu niệm giác ngộ trong
lòng, là bước thêm một bước tiến gần đến cảnh giới Phật. Đến khi viên mãn giác
ngộ, tức là thể nhập được vào Tự Tánh thanh tịnh, vào Pháp Thân Phật.
Niệm
Phật là Niệm Tâm, Niệm Giác, Niệm Thanh Tịnh, Niệm Phật mà đúng pháp thì thân
tâm được an vui, thanh thoát, không còn phiền não khổ đau, vì đã sống được với
Tánh Giác Bồ Đề bổn lai thanh tịnh của mình rồi. Miệng niệm Phật là nhắc mình
phải thường nhớ chớ quên ông Phật thật
trong Tâm mình.
-Thiền
tọa kiết già : Nói đến tu Thiền là phải biết ngồi Kiết già. Vì đó là cách
ngồi vững chắc nhất mà Đức Phật Thích Ca đã áp dụng, còn gọi là ngồi kiểu hoa
sen. Hiện nay các người tu ngoại đạo hay các nhà tập dưỡng sinh trên thế giới
cũng đều công nhận và áp dụng cách ngồi Kiết già này. Hai chân ngồi tréo Kiết
già, thân ngồi mới được vững vàng, không nghiêng không lệch ngồi lâu mới được,
có khi ngồi suốt buổi suốt ngày hay nhiều ngày không bị cấn tê.
Mới
tập ngồi Kiết già thì hơi khó vì đau nhức tê mỏi, nhưng ráng tập đều đều mỗi
ngày, trong vòng một năm thì sẽ hết đau nhức mà lại cảm thấy dễ chịu hơn ngồi
bán già, vì hai chân tréo đều nhau, máu huyết và thần kinh lưu thông điều hòa.
Còn ngồi bán già thì chân này gát nằm trên chân kia, nên chân bị chặn ngồi lâu
bị tê mỏi nhiều hơn và không vững, dễ tuột ra khi mỏi tê. Ngồi Kiết già chẳng
những được ngay ngắn vững vàng, mà còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe. Nó
làm giản tất cả các khớp xương, chống sự xơ cứng, đóng vôi, mọc nhánh, xơ
hóa…như khớp đốt xương sống, đốt xương chậu, khớp xương đùi, khớp đầu gối và khớp
chân.
Người Hành Thiền Tự Tánh nên
tập ngồi Kiết già mới hợp pháp tu, trừ trường hợp người mập mà lùn, người bị tật
chân, hoặc người nữ khi bất tịnh, thì ngồi bán già ngắn giờ hơn.
Tọa
Thiền Kiết già phải trải qua ba giai đoạn điều hòa sau đây: Điều thân, điều tức,
điều tâm.
Điều
thân : Là ngồi ngay thẳng đoan nghiêm, không cong, không vẹo, không
nghiêng, không ngửa, không khum, không ngước, không thụng. Nếu ngồi lưng cong,
lâu sẽ thành bịnh lưng gù, đau khớp xương sống, ngồi vẹo sẽ bị tức lói hông; ngồi
nghiêng sẽ bị xệ một bên vai hay nhức mỏi; ngồi ngửa ểnh ra sau sẽ bị tức ngực,
ngồi khum dễ bị hôn trầm ngủ gục, ngồi ngước sẽ bị nhức đầu chóng mặt, ngồi thụng
sẽ bị nghẹt hơi trong dạ dày khó tiêu hóa. Trong lúc Tọa Thiền, nếu thấy có triệu
chứng bất thường như nhức đầu chóng mặt, tê tê như kiến bò trên mình…thì phần lớn
do thiếu Oxy ( Dưỡng khí )vì hơi thỏ ngắn và chậm, nên phải thở dài và sâu hơn
mới được.
-
Hai tay bắt ấn Tam Muội - Hai chân ngồi
tréo Kiết già :
-
Hai mắt mở lớn ¼ , định thần, ngó ngay một điểm trước mặt cách 8 tấc- Hai lỗ tai thu nhiếp vào Tự Tánh, không duyên
theo tiếng động bên ngoài.
-
Quần áo khi Tọa Thiền, phải rộng rãi thoáng hơi, tùy theo mùa tiết, không quá lạnh
hay quá nực, dây lưng đừng buộc chặt quá. Khi ăn no không được ngồi Thiền vì
bao tử bị xệ, nặng nề khó thở, hay bị chảy nước dãi. Cách bữa ăn hai tiếng đồng
hồ mới được ngồi. Chỗ ngồi Thiền phải sạch sẽ, thoáng khí, yên tịnh, ít ruồi muỗi,
kiến …
-
Thức ăn của người Hành Thiền phải tránh những thức ăn cay nồng, nóng bức, chiên
dầu khó tiêu cùng ngũ vị tân, không dùng cà phê, trà đậm, thuốc lá cùng những
thứ có chất kích thích cơ thể, bớt dùng bột ngọt và đường hóa học vì nó làm nhức
chân đau mình. Nên dùng những thức ăn dễ tiêu, nhiều rau tươi và quả chín. Khi
Tọa Thiền có ra nước miếng thì nuốt vào chứ đừng nhả ra, vì đó là chất giúp ích
cho sự tiêu hóa.
-
Điều tức : Là điều hòa hơi thở.
Hơi thở rất quan trọng cho người Hành Thiền. Thân có an Tâm có định là do hơi
thở được điều hòa. Do đó, người sơ cơ mới tập tu thì phải dùng phép quán Sổ tức
trong vòng một năm để hơi thở được nhẹ nhàng, điều hòa, nhỏ nhiệm và sâu. Không
thở mạnh, không thở gấp, không thở khi mau khi chậm, không thở hào hển hoặc khò
khè. Hơi thở càng dài càng sâu thì mới đưa được dưỡng khí đi khắp châu thân ra
tới các tế bào ngoài da, nhất là đưa tới đỉnh đầu để nuôi dưỡng những vi bào của
óc, lọc sạch máu dơ, làm cho huyết mạch lưu thông điều hòa, cơ thể được khỏe mạnh,
ít mệt, ít buồn ngủ, tỉnh táo, sáng suốt. Ngồi Thiền mà hay ngáp, hay buồn ngủ,
hay hôn trầm, ngủ gục vô ký, nguyên nhân
phần lớn là vì trong máu có nhiều thán khí mà mình hít thở không dùng phương
pháp như : thở ít, thở không đủ hơi, thở không sâu nên thiếu dưỡng khí trong phế nang, hoặc lý
do vì chỗ ngồi Thiền quá chật hẹp lại có đông người nên không khí bị vẫn đục,
hoặc vì đóng kín các cửa nên không khí không ra vào được bình thường, cần phải tìm xét kỷ
nguyên do để khắc phục thì ngồi Thiền mới được thoải mái và an định được lâu.
-
Chúng ta biết điều hòa hơi thở thì sẽ được mạnh khỏe sống lâu, vì hơi thở đúng
pháp có nhiều dưỡng khí là một thức ăn bổ quý hơn các thức ăn khác. Những vị tu
trên núi cao không ăn uống gì nhiều, chỉ hít thở thanh khí mà vẫn được khỏe mạnh
hồng hào.
-
Nhiếp tâm an tọa, điều hòa hơi thở cho đều khi Chánh Định thì không còn thấy có
hơi thở nữa, mà chỉ còn thoi thóp thật nhẹ trong lồng ngực và bụng mà thôi. Lúc
ấy, thân thể thật nhẹ nhàng an nhiên thanh thoát như không còn có thân nữa. Cái
biết phân biệt cũng không còn, chỉ còn cái Trí Giác của Tự Tánh liễu liễu thường
tri mà thôi, lần lần đạt tới trạng thái thân không, tâm không, cảnh không và
không còn thấy có không gian, thời gian, tức là thể nhập Chơn Như Thanh Tịnh vậy.
Các
Thiền sư ngộ Đạo làm chủ được thân tâm, làm chủ được hơi thở, nên muốn sống chết
lúc nào tùy ý, tự tại vô ngại, bởi vì hơi thở càng nhẹ thì quả tim đập càng chậm
lại, cho đến khi hơi thở dứt thì quả tim cũng ngừng đập một cách êm ái nhẹ
nhàng.
-
Điều Tâm : - Điều Hòa Nội Tâm
: Tâm đây là Tâm thức, nó hay suy nghĩ tính
toán lăng xăng việc này việc nọ tối ngày không dứt: Nghĩ nhớ chuyện cũ, lo tính
chuyện mới để mưu tìm sự sống hoặc tranh đua với đời, tranh danh đoạt lợi, phiền
não lo âu, thất tình lục dục…Giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, bé lớn gì cũng
không ai tránh khỏi tâm thức nó làm vọng tưởng đảo điên, tạo nghiệp đầy dẫy, trầm
luân trong nhiều kiếp.
Bây
giờ chúng ta Hành Thiền là để chế ngự Vọng tâm không cho nó duyên theo cảnh trần
tung hoành tạo nghiệp nữa. Hàng phục được nội tâm là một rất khó, nên Đức Phật nói
trong kinh Pháp Cú :
Thắng
người đâu sánh thắng mình
Chiến
công tự thắng liệt oanh trên đời
Thắng
người đâu sánh thắng mình
Thắng
mình chế ngự dục tình cao siêu.
Thiền
tọa Kiết già là để nhiếp phục ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý trở về với Tự Tánh thanh
tịnh. Mắt, tai, mũi, lưỡi, định vào một chỗ, tâm yên lặng mà tỉnh táo, sáng suốt,
thể nhập vào Tánh Giác Bồ Đề, tỏ rõ sáng soi như như bất động, không duyên nhiễm
theo cảnh trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc.
Trong lúc tọa Thiền mà thân
tâm được nhẹ nhàng thanh thoát, tịch tịnh mà thường chiếu, thường chiếu mà như
như, không tán loạn, không hôn trầm cũng không vô ký, thì đó là giây phút thể
nhập với Tự Tánh thanh tịnh.
-
Thiền khi đi đứng : Hành Thiền Tự
Tánh, khi đi thì khoan thai, nhẹ nhàng, cẩn thận, không gây tiếng động, không
đi đụng bàn ghế, không đi hấp tấp, không đi thụt lùi, không kéo lê giày dép
nghe sột sột, không đi ưởn ẹo, không đi vắt hất hay ngó quanh ngó quất… Khi đi
mà tâm vẫn an tịnh trong Tự Tánh nên dáng điệu được trang nghiêm không thô
tháo.
-
Khi đứng cũng giữ tư thế ngay thẳng chững chạc, không dựa bàn dựa ghế, không đứng
một chân, không chống nạnh ra oai, không
lúc lắc trạo cử. Đó là Hành Thiền Tự Tánh khi đi đứng,
-
Thiền lúc nằm ngồi : Hành Thiền Tự Tánh, lúc nằm thì kiết tường ngọa, nằm
nghiêng bên tay mặt, không xoay trở lăn lộn, tâm an thì tâm mới an, tâm loạn
thì thân mới động Ngoài ra, khi nào làm việc cơ thể quá mệt mỏi, hay đau bịnh
không ngồi Kiết già được, thì nằm ngọa thiền bằng cách nằm ngửa, duỗi hai tay
hai chân, hai bàn tay úp xuống giường, hai mắt mở một phần tư, hơi thở điều hòa
mà sâu, buông xả tư tưởng vọng niệm, buông xả sức cử động, đầu không kê gối hay
gối thấp. Ngọa Thiền như vậy trong một tiếng đồng hồ sẽ phục hồi sức khỏe hơn nằm
ngủ một đêm.
Hành
Thiền khi ngồi là ngồi ngay ngắn, không
dựa ngửa dựa nghiêng, không gác chân lên bàn, không chống chân trên ghế, không
ngồi tréo ngoảy, không rung đùi, không
nhịp chân v.v…Khi đi đứng, lúc nằm ngồi luôn luôn an định trong Tự Tánh thanh tịnh thì oai nghi cử chỉ rất trang nghiêm tịch tịnh,
không thô tháo. Thiền phong phát ra thân tướng làm cho mọi người kính mến.
-
Thiền giữa bửa ăn :
THIỀN
TRONG BỮA ĂN
Bữa
ăn hằng ngày đối với mọi người thì đó là việc bình thường không có gì lạ. Hễ
đói thì ăn, khát thì uống, đói thì ăn cho thiệt no, gặp món ngon thì cứ ăn cho
thích khẩu chớ dại gì mà không ăn cho uổng. Nhưng đối với người tu học theo Phật
pháp thì bữa ăn chính là một thời tu tập rất quan trọng và đầy đủ nhất trong
các thời tu trong ngày.
Phật chia thời khóa “ Trú dạ
lục thời ” ( ngày đêm sáu thời ) là :
Tham thiền, tụng kinh, sám hối, học tập, công tác và ngọ trai, thì thời Ngọ
trai là thời tu trọng yếu hơn các thời kia, vì nó gồm đủ cả Sự Lý, tâm cảnh tiếp
xúc với nhau trực tiếp thì sự tu mới rốt ráo.
Ở tại gia thế gian khi tới
giờ dọn cơm lên rồi thì mạnh ai nấy ăn cho thỏa thích, ngon thì ăn nhiều, dở
thì ăn ít, ngon thì khen, dở thì chê, lúc ăn thì nói chuyện cười đùa hoặc có
khi cãi vã gây gỗ, buồn phiền giận tức….khiến cho đang lúc ăn mà tâm phóng đi
đâu không để ý đến bửa ăn, nên ăn đại ăn đùa cho nhanh lẹ rồi đi xuống, hoặc họ
ăn là muốn cho ngon miệng khoái khẩu, thỏa mãn vị dục, chớ không phải ăn vì sức
khỏe, vệ sinh. Họ chỉ biết sống để ăn, chớ không biết ăn để sống. Trái lại, bửa
ăn trong chùa thì hoàn toàn khác hẳn : Ăn để tu ! Nên nói: Bửa ăn là một thời
tu.
-
Hành Thiền Tự Tánh trong lúc thọ trai là để sống với Tự Tánh trong lúc ăn cơm, gồm
đủ Giới, Định, Huệ, trang nghiêm thanh tịnh hòa hưỡn nhẹ nhàng, vén khéo sạch sẽ….
Bữa
cơm trưa tại chùa
: Khi nghe ba tiếng bảng báo hiệu, tất
cả đại chúng đều mặc áo chính tề, vân tập đến trai đường, chắp tay xá, ngồi vào
bàn ghế sắp sẵn vị trí cho mình, mỗi người đều ngồi tréo chân kiết già hoặc bán
già với tư thế Tọa Thiền, miệng đọc thầm bài kệ :
Chánh
thân đoan tọa - Đương nguyện chúng sanh
Tọa
Bồ đề tòa - Tâm vô sở trước..
Án
phạ tất ra ha ni, bát ra ni, ấp đa da tá ha
Nghĩa là : Thẳng mình ngồi ngay –
Cầu cho chúng sanh
Ngồi
tòa Bồ đề- Lòng không nhiễm trước
Niệm
bài kệ này là để nhắc nhở mình hằng sống trong Tánh Giác Bồ Đề, không móng tâm
nhiễm trước cảnh vật bên ngoài.
Kế
đó, tay giở bát lật ngửa lên rồi đọc bài kệ :
Như
Lai ứng lượng khí - Ngã kim đắc phu triển
Nguyện
cúng nhứt thiết chúng - Đẳng Tam luân
không tịch.
Ý nghĩa nhắc mình trụ tâm
ngay vào cái bát để nhớ rằng : Bát đựng cơm của Phật chế ra, tôi nay được giở
lên, nguyện cúng cho tất cả chúng sanh, cả ba vầng đều vắng lặng.
“ Ba vầng” là : Người cúng
thí, kẻ thọ thí và vật bố thí đều là Tự Thể Chơn Không vắng lặng bình đẳng, nếu
không chấp có tướng người, tướng ta , tướng
vật để so đo phân biệt.
Giở bát lên rồi, mắt nhìn vào cái bát trống không, niệm bài kệ :
Nhược
kiến không bát - Đương nguyện chúng sanh
Cứu
cánh thanh tịnh - Không vô phiền não.
Nghĩa là : Quán cái bát không mà cầu nguyện cho tất cả
chúng sanh đều được rốt ráo thanh tịnh không còn phiền não.
Khi
bới cơm vào đầy bát thì niệm bài kệ :
Nhược
kiến mãn bát- Đương nguyện chúng sanh
Cụ
túc thạnh mãn – Nhứt thiết thiện Pháp
Nghĩa là : Chúng ta tu pháp
Đại thừa, khi làm việc gì cũng nhớ độ thoát chúng sanh, chứ không chỉ cầu cho
riêng mình. Do đó, khi nhìn vào bát đầy thì phát tâm cầu cho chúng sanh đều chứa
đựng đầy đủ tất cả pháp lành. Kế đó, vị thị giả cầm dùi gõ bảng ba tiếng để cho tất cả đại chúng đều nhiếp tâm vắng lặng
đặng cúng dường Tam Bảo. Mỗi người đều cầm lấy cái bát của mình để trên ba ngón
tay trái, còn tay phải bắt ấn Cam lồ, đưa lên trước trán đọc bài cúng dường .
Cúng
dường Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật
Viên
mãn báo thân Lô Xá Na Phật
Thiên
bá ức hóa thân Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Đương
lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật
Cực
lạc thế giới A Di Đà Phật
Thập
phương tam thế nhứt thiết chư Phật
Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Đại
Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Đại
Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Chư
tôn Bồ Tát Ma Ha Tát
Ma
Ha Bát Nhã Ba La Mật
Tam
đức lục vị, cúng Phật cập Tăng
Pháp
giới hữu tình, phổ đồng cúng dường
Nhược
phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh
Thiền
duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn
Tụng
xong rồi để bát xuống :
Giải
thích bài kệ cúng dường :
Người Hành Thiền Tự Tánh,
khi thọ trai phải nhớ nghĩ ngay đến Đức Tỳ Lô Xá Na là Pháp Thân thanh tịnh của
Phật ở cùng khắp cả pháp giới, mà Tự Tánh thanh tịnh của chúng ta cũng ở cùng
khắp cả pháp giới.
Nhơn khi cúng dường Đức Tỳ
Lô Giá Na tức là cúng dường Tự Tánh thanh tịnh của mình vậy.
-
Cúng dường Viên Mãn Báo Thân Lô Giá Na là cúng dường Thân Công Đức- Trí Tuệ
viên mãn của Phật. Tụng như vậy là để nhắc lại cho chúng ta nhớ phải luôn luôn
cố gắng tu hành cho thật đầy đủ công đức trí tuệ của Đức Phật Lô Xá Na.
-
Cúng dường Thiên Bá Ức Hóa Thân là cúng dường cho Phật Thích Ca Mâu Ni, là Thân
ứng Hóa, tùy duyên, tùy loại. Tâm Phật vắng lặng, như như bất động, chỉ vì lòng
Đại Bi mà ứng hóa ra trăm ngàn muôn ức thân để cứu độ chúng sanh.
Trên đây là nói ba Thân của
Phật: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Trong mỗi người chúng ta đây cũng đủ ba
Thân, nên chúng ta mới hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề thì ba Thân sẽ hiện bày.
-
Cúng dường Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật là cúng dường Đức Phật vị lai, mà
chúng ta đang tu đây cũng là đang thực hành công hạnh của Phật tương lai.
-
Cúng dường Cực Lạc thế Giới A Di Đà Phật là Đức Phật có lòng Đại Bi vô lượng ,
phát ra 48 lời nguyện tạo thành thế giới Cực Lạc phương Tây để tiếp dẫn chúng
sanh về An Dưỡng. Vậy chúng ta cúng dường Ngài là để phát tâm, nguyện tu hành
cho được thanh tịnh để phát hiện Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ.
-
Cúng dường thập phương tam thế nhứt thiết chư Phật là chư Phật trong mười
phương ba đời nhiều vô lượng vô số, chúng ta đều nguyện cúng dường khắp tất cả
trong bửa ăn hôm nay.
-
Cúng dường Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là để nhắc nhở cho chúng ta cố gắng tu
hành được Giác Ngộ, đạt được Trí Huệ thù thắng như Ngài văn Thù vậy.
-
Cúng dường Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là để noi theo hạnh nguyện rộng lớn của
Ngài Phổ Hiền, ba nghiệp không mòn mỏi, niệm niệm không xen hở.
-
Cúng dường Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát là để noi theo đức tánh Đại Từ Đại Bi cứu
khổ cứu nạn của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Sau hết là đem thức ăn này cúng dường Chư Đại Bồ Tát trong mười phương thế giới.
-
Câu Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật tức là nhắc nhở chúng ta lúc nào cũng hằng sống với
Trí Tuệ Cứu Cánh, niệm niệm không hề xen hở dù là trong một bửa ăn đi nữa.
-
Tam đức là ba đức tánh quý báu của Phật : Pháp thân Đức, Bát Nhã Đức và
Giải Thoát Đức.
-
Giải Thoát Đức ; Tuy cúng dường rộng lớn và cùng khắp mà không có bốn tướng
: Nhơn, Ngã, Chúng sanh, Thọ giả. Tam Luân Không Tịch nên Tâm không khởi chấp
Nhơn, chấp Ngã, chấp Pháp, lặng lẽ tròn sáng, tức là sống với Tự Tánh, nên nói
: Bát Nhã không chấp tức Giải Thoát.
-
Bát Nhã Đức : Người luôn tỉnh thức thấy rõ Thể Tánh Chơn Không mà Diệu Hữu
của các Pháp, nên lúc nào cũng sáng suốt và chiếu soi các Pháp, nên nói Pháp
Thân chẳng Si tức Bát Nhã và Bát Nhã không chấp tức Giải Thoát.
-
Pháp Thân Đức : Người trở về sống
với Tự Tánh của mình. Tuy cúng dường mà Giải Thoát ngay trong hạnh cúng dường,
nên nói : Giải Thoát Tịch Diệt tức Pháp
Thân.
Như
vậy, Giải Thoát Đức là Tướng của Pháp Thân. Bát Nhã Đức là Dụng của Pháp Thân.
Pháp Thân Đức là Thể của hai Đức trên.
Khi cúng dường phải đủ ba
Thân thì mới đầy đủ công đức. Tuy nói Ba Đức mà chỉ có một Đức. Tuy nói ba Thân
mà thiệt ra chỉ có một Thân.
-
Lục vị : Theo kinh Niết Bàn, Lục vị có
hai nghĩa :
-
Đối với thế gian : Có sáu Vị là mặn, ngọt,
cay, chua, đắng và lạt. Chúng sanh mê mờ nên nhiễm trước theo sáu vị nầy.
-
Đối với Xuất thế gian : Cũng có sáu Vị : là Khổ, Lạc, Thường, Ngã, Vô Thường,
Vô Ngã.
Tụng câu này nhắc cho chúng
ta nhớ : Đối với thức ăn đừng nhiễm vào
sáu thứ mùi vị của thế gian, mà phải thường nếm sáu Vị Xuất thế gian để vui trong Pháp tu Giải
Thoát thanh tịnh.
Câu cúng Phật cập Tăng,
Pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường có nghĩa là : Trước hết phải đem thức ăn mình cúng Phật rồi sau mới cúng Tăng, kế đó đồng
cúng cho các loài hữu tình trong Pháp giới.
-
Câu Nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ
sung mãn, có nghĩa là : Ngay trong bữa ăn này cầu nguyện cho mình và chúng sanh
lấy sự vui trong cảnh Thiền Định làm thức ăn, và lấy sự hoan hỷ trong Pháp tu làm no đủ.
Kế đó, vị Duy Na gắp bảy hạt
cơm để trong chung nước rồi vẽ chữ Án Lam và niệm thầm bài kệ :
Pháp lực bất
tư nghì
Từ bi vô chướng ngại
Thất liệp biến
thập phương
Phổ thí châu sa giới
Thần Kim Sí
Điểu Vương
La Sát Quỷ Tử Mẫu
Tất linh giai
sung mãn
Án Độ Lợi ích Tóa Ha ( 3 lần )
Ý nghĩa : Pháp lực của Phật pháp không thể nghĩ bàn
Lòng Từ Bi không có chi chướng ngại
Với bảy hạt
cơm nầy sẽ biến đầy khắp cả mười phương
Bố thí cho hằng
hà sa số các loài
Mẹ
con quỷ Khoáng Giả và chim thần cánh vàng (chim đại bàng). Tất cả đều được no đủ. Sự bố thí đều khắp, không sót loài nào.
Giải
thích thêm:
theo thời sự ngày nay, chúng ta mới có thể hiểu được thần lực của 7 hạt cơm mà
biến đầy cả pháp giới, trong Phật pháp nghe không thể hiểu, không thể tin được. Nhưng nay ta đem
con Vi rút Covid Cô Rô Na 19 ra để so sánh và chứng minh thì hiểu được câu thần
chú này. Một con vi rút hóa hiện ra ngàn con vi rút khác, ngàn con vi rút khác
lại hóa hiện ra ngàn ngàn, triệu triệu con lan tỏa khắp thế giới từ Đông sang
Tây. Làm cho con người với nền khoa học tiên tiến nhất trên toàn thế giới đau đầu
không đánh bại được con vi rút vô cùng tinh vi lợi hại này.
Con
vi rút này từ đâu xuất hiện mà làm cho cả thế giới run sợ khủng hoảng cả tinh
thần lẫn vật chất làm đảo lộn cuộc sống con người như thế ? Tức nó bắt nguồn từ
ý niệm của con người mà ra. Trong kinh Bát Đại Nhơn Giác Phật đã có nói về sự
vô thường và hủy hoại trong thế giới con người như sau :
“ Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại
khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến
dị, hư ngụy vô chủ. Tâm thị ác nguyên,
hành vi tội tẩu, như thị quán sát, tiệm ly sanh tử.
Nghĩa là : Thế gian này vô
thường luôn luôn thay đổi, đất nước nguy hại, bốn đại khổ không, năm ấm không có ngã, sanh rồi diệt thay hình đổi dạng,
hư ngụy không chủ. Tâm là nguồn gốc của muôn ngàn sự tội lỗi. Quán sát như vậy
lần lần xa lìa sanh tử.
Xong rồi vị Duy Na xướng
Tăng bạt :
Phật chế Tỳ kheo thực tồn ngũ quán
Tán
tâm tạp thoại tín thì nan tiêu
Đại
chúng văn khánh thinh
Các các chánh niệm :
Nam
Mô A Di Đà Phật .
Nghĩa là : Đức Phật dạy Tăng
Ni khi ăn phải quán tưởng năm điều : Nếu tán tâm mà nói chuyện xì xào thì cơm
tín thí khó tiêu được. Đại chúng nghe tiếng khánh phải giữ tâm Chánh niệm, đừng
cho tạp niệm. Nghĩa là : Từ lúc ngồi đến khi cúng dường thì tâm đã an trụ vào
chỗ thọ trai. Nhưng Phật còn sợ chư Tăng phóng tâm ăn nên mới nhắc nhở lại câu này để tất cả đại
chúng nghe đồng thực hành.
Kế đó tụng tiếp bài chú
tiêu độc :
Án Tam Bạt Ra Dà Da
( 7 lần ).
Ý nghĩa bài chú này có năng
lực tẩy trừ độc tố trong thức ăn, mà cũng có ý tẩy trừ độc tố Tham, Sân, Si
trong tâm mình cho sạch trước khi thọ thức ăn. Xong rồi thì hai tay bưng bát
cơm đưa lên trán niệm bài kệ :
Chấp
trì ứng khí, đương nguyện chúng sanh
Thành
tự pháp khí, thọ thiên nhơn cúng
Án
chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra.
Nghĩa
là : Hai tay bưng bát cơm này, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh được thành tựu
Bậc Pháp Khí để thọ lãnh người và trời cúng dường ( Pháp Khí là những bậc Cao Tăng Thạc Đức có
năng lực lãnh đạo đồ chúng, truyền bá Giáo Pháp trong nhơn gian ).
Kế đó là cúng Lưu phạn. Lấy
một ít cơm để ra chén nhỏ và đọc thầm bài kệ :
Di kim sở tu
chứng
Phổ triêm ư
quỷ chúng
Thực dĩ miển
cực khổ
Xả thân sanh
lạc xứ
Bồ tát chi
phước báu
Vô tận nhược
hư không
Thí hoạch như
thị quả
Tăng trưởng
vô hưu tức
Án độ lợi ích
tóa ha
Ý
nghĩa : Nay dùng món ăn này để tu phước,
rải khắp cho các chúng ngạ quỷ, ăn rồi hết cực khổ, bỏ thân sanh cõi vui an
vui, phước báu của Bồ Tát, nhiều vô tận
như hư không, bố thí được quả báu như vậy, tăng trưởng không bao giờ hết.
Kế
đến là Tam Đề, là ba đề mục phải quán khi ăn ba miếng cơn lạc :
-
Nguyện trừ tất cả các việc ác
-
Nguyện làm tất cả các việc lành
-
Nguyện độ tát cả chúng sanh
Xong rồi bưng bát cơm ngang
ngực, quán năm điều :
-
Xét đến công lao nhiều ít của thí chủ và tìm hiểu thức ăn này từ đâu đem đến.
-
Xét đức hạnh của mình thiếu hay đủ để thọ thực phẩm này.
-
Đề phòng tâm ý tránh sự lầm lỗi, mà Tham, Sân, Si là nguồn gốc của tội lỗi.
-
Xem thức ăn như một món thuốc hay để chữa lành thân thể ốm gầy.
-
Vì muốn thành tựu Đạo quả mà thọ thực phẩm này.
Trong khi ăn phải quán sát năm điều này thì
không tán tâm duyên theo cảnh khác. Đó là cách quán thông thường của chư Tăng ở
trong chùa. Còn khi Hành Thiền Tự Tánh là khi thọ trai phải thu hồi vọng tưởng
phóng ra từ sáu Căn, đồng thời nhiếp lại một chỗ, an trụ trong Tự Tánh Thanh Tịnh
của mình. Mắt và tai phải thu nhiếp lại để điều khiển sáu căn. Khi tay gắp thức
ăn thì biết mình đang gắp. Khi đưa thức ăn vào miệng thì biết mình đưa nó vào
miệng. Khi nhai thì biết mình đang nhai. Ngon dở, mặn lạt…đều biết rõ ràng vì
mình đã chế tâm ngay vào chỗ Căn đang hoạt động.
Cái
biết của người Hành Thiền Tự Tánh là cái biết rõ ràng không khởi tâm thương
ghét, không nhiễm đắm thức ăn. Bởi vì làm chủ được Ý thức nên không bị cái biết
làm động tâm, nhiễm trước vào thức ăn.
Dù
ngon hay dở cũng chỉ tạm dùng đủ no đặng nuôi mạng sống để tu hành, chớ không
phải vì món ăn ngon dở mà khởi tâm phiền não.
Trong
lúc thọ trai, đại chúng yên lặng để Hành Thiền. Cả sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần
mà không đắm nhiễm theo trần Cảnh ( là thức ăn ) gọi là Huệ của người Hành Thiền
Tự Tánh. Trong thức ăn có đủ sáu trần là màu sắc món ăn, tiếng nhai dòn khứu,
mùi thơm thức ăn, vị ngọt béo, xúc chạm mềm cứng của món ăn, pháp trần của món
ăn đã gợi lại trong trí ( ý thức ).
Lúc
ăn mà tâm không rối loạn, không khởi tạp niệm, không chạy theo sự phân biệt của
Ý thức, an trụ tâm một chỗ lặng lẽ thanh tịnh, thì gọi đó là Định trong lúc thọ
trai.
Trong
khi Hành Thiền thọ trai, nhất nhất oai nghi chỉnh tề trang nghiêm, từ tốn nhẹ
nhàng, điềm đạm hòa hưỡn, vén khéo sạch sẽ, tế nhị kỹ lưỡng… Khi ăn nhai chậm
rãi từ từ, nhai thật kỹ, nhuyễn, để thức ăn trộn với nước miếng tạo thành chất
đề hồ bổ dưỡng cho cơ thể. Ăn vừa đủ no mà thôi, không ráng ăn quá no mà sanh bịnh.
Khi thọ trai, thân chẳng thô tháo, sáu Căn chẳng buông lung theo sáu Trần là Lục
vị, thì đó là Giới của người Hành Thiền thọ trai. Giới của Tự Tánh chính là diệu
dụng của Tự Tánh đã hiển bày qua sáu Căn. Cho nên người Hành Thiền Tự Tánh trước
phải tu Huệ, trong Huệ có Định, và cuối cùng là thể hiện ra Giới Thể của Tự
Tánh ở sáu Căn.
Thời
tu trong bữa ăn khó hơn thời tu trong lúc Tụng Kinh, Tọa Thiền. Vì trong lúc Tụng
Kinh hay Tọa Thiền là tránh cảnh để tu. Trái lại, thời thọ trai là xúc cảnh để
tu mà giữ tâm không cho động nhiễm theo sáu trần bằng cách làm chủ sáu Căn nhiếp
phục sáu Thức. Đối với bữa ăn thịnh soạn mà mình không nhiễm tức là đã tự chiến
thắng được dục vọng trong tâm, để khi mình hành Bồ Tát Hạnh ở ngoài đời thì tâm
mình cũng an nhiên bất động trước những cảnh danh lợi tình tiền cám dỗ. Cho nên
đây là thời tu rất rốt ráo.
Sau
khi ăn cơm xong đến phần uống nước, cũng niệm bài chú Phật quán nhứt bát thủy
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sanh nhục
Nghĩa
là Đức Phật xem trong một bát nước, có tám vạn bốn ngàn vi trùng, nếu không trì
chú này, như ăn thịt chúng sanh vậy. Đức
Phật dạy trì chú này tức để cầu nguyện cho chúng nó, thì mình mới khỏi tội sát
sanh. Như vậy là để thể hiện lòng Đại Bi vô lượng của Đức Phật đối với cả loài
vi trùng nhỏ nhít mà mắt thường chúng ta không thể thấy được.
Sau
khi thọ trai xong, đại chúng đồng chấp tay tụng bài kệ “ Kiết trai” như sau :
Sở
vị bố thí giả - Tất hoạch kỳ lợi ích
Nhược
vi nhạo bố thí – Hậu tất đắc an lạc.
(
Sở dĩ bố thí đây - Ắt được nhiều lợi ích
Nếu
vì vui bố thí – Sau sẽ được quả an vui )
Ý
nghĩa: Tri ân thí chủ và cầu phúc cho thí chủ nhân công đức bố thí này hưởng được
nhiều phước báu cõi Nhơn Thiên.
Sở dĩ phải áp dụng nhiều nghi thức trong lúc
thọ trai là để chế ngự cái tật háu ăn hốt uống, vội vã gấp gáp, không biết kính
trên nhường dưới, cử chỉ lụp chụp làm mất oai nghi. Nhờ áp dụng các nghi thức
mà nhiếp phục được tâm, không nhiễm trước món ăn là Thiền, không vội vã lụp chụp
là Định. Thiền Định được trong lúc ăn thì sẽ Thiền Định được khi tiếp xúc với
sáu Trần bên ngoài.
Sau
khi Tụng Kinh hồi hướng xong, đại chúng đồng lên xá Tổ và đi kinh hành. Kinh
hành đây là một pháp tu rất tốt về hai mặt thể xác và tinh thần .
-
Thể xác : Rất hợp vệ sinh, vì ăn cơm no nên đi tản bộ vài vòng để cho tiêu hóa
thức ăn.
-
Tinh thần : Thọ trai là Hành Thiền trong lúc ngồi. Còn Kinh hành là Hành Thiền
trong lúc đi, để tâm lúc nào cũng trụ trong Tự Tánh. Mỗi bước chân là một câu
niệm Phật. Niệm niệm không xen hở là hằng sống với Phật Tánh của mình lúc đi.
Tập
kinh hành, đi quen như vậy, lâu ngày thuần thục rồi, khi đi ra ngoài, mỗi bước
là một bước chân Kinh Hành Niệm Phật, tâm không phóng theo trần cảnh bên ngoài
mà sanh vọng tưởng phiền não.
Trên
đây là phần nghi thức thọ trai ở chùa, còn thọ trai ở nhà thì nhẹ gọn hơn như
sau:
Khi tới giờ ăn cơm, cơm được
dọn xong, mọi người trong nhà cùng đứng quanh bàn ăn, chấp tay xá ba xá rồi ngồi
xuống, bới cơm ra chén, đồng chấp tay niệm thầm câu danh hiệu Phật “
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” ba lần,
rồi bưng chén cơm đưa lên trán niệm thầm câu “ Nam mô cúng dường thập phương Phật,
Nam mô cúng dường thập phương Pháp, Nam mô cúng dường thập phương Tăng”. Xong rồi
để chén cơm xuống, dùng muỗng hay đũa ăn ba miếng cơm lạt, niệm thầm : “ Nguyện
dứt bỏ các điều ác, nguyện làm các việc lành, nguyện độ tất cả chúng sanh”. Niệm
xong rồi tất cả đều dùng cơm mà tâm an tịnh trong Thiền, không nói chuyện,
không cười đùa, không khen chê ngon dở, không nhiễm trước món ăn ngon, mà phải
biết nhường món ngon cho cha mẹ, anh chị mình, ăn từ tốn, nhai kỹ, không ăn lớn
tiếng, không nuốt trộng, thân ngồi ngay thẳng oai nghi tề chỉnh, ăn xong đứng dậy
xá rồi lui ra.
Về
phương diện ẩm thực để nuôi mạng căn, thì người Hành Thiền Tự Tánh phải biết
cách ăn uống cho đúng pháp họp đạo thì cơ thể mới được khỏe mạnh. Đồ ăn cũng
góp phần quan trọng để giúp mình làm chủ được thân, vì thức ăn của người tu
khác với thức ăn người thế tục. Người đời thích ăn cao lương mỹ vị, thịt cá béo
bổ, có nhiều kích thích tố, làm cho thân họ bị kích thích đòi hỏi, ham muốn đủ
điều rồi tạo thành nghiệp Sát, Đạo, Dâm, Vọng, tánh tình nóng nảy hung dữ….
Phật dạy người tu nên ăn
chay để cho thân thể được nhẹ nhàng mát mẻ, không nhiễm những độc tố của cá thịt
và thú tánh của loài vật, trong đó có tánh ngu si đần độn, tánh hung hăng háo
sát và tánh dâm dục háo sắc của loài thú là nặng nhất.
Tuy
nhiên, thức ăn chay cũng có hai phần âm và dương. Thân thể của mình cũng có hai
phần âm và dương, tương hợp tương khắc. Nếu chúng ta không biết dùng cho đúng
cách thì sức khỏe cũng bị suy kém. Có nhiều vị xuất gia hay tại gia ăn chay thường
bị bịnh hoạn yếu ớt, da mặt xanh mét, là do ăn chay không đúng pháp khiến cho
nhiều người hiểu lầm là do ăn chay thiếu chất bổ nên ăn chay hay bịnh, rồi
không dám ăn. Nay kể một vài điểm chánh trong việc ăn uống để người tu hành biết
mà áp dụng hoặc ngăn ngừa.
Người
nào da mặt hồng hào, cặp mắt trong sáng, làm việc nhanh nhẹn, tánh tình nóng nảy
là người thuộc Dương tính.
Người
nào ốm yếu hoặc béo phì mà da mặt xanh mét, cặp mắt lừ đừ, mờ đục uể oải lười
biếng, không thích hoạt động, hay trầm ngâm, ưa vắng vẻ hoặc hay chán nản thì
đó là người thuộc Âm tính.
Người
Dương tính thì phải dùng thức ăn Âm tính để trung hòa cơ thể thì sinh hoạt mới
bình thường, trí năng mới sáng suốt, ôn hòa tươi tỉnh, nhã nhặn điềm đạm. Trái
lại người Dương tính mà dùng thức ăn nhiều Dương tính thì chất Dương sẽ tăng
lên nhiều quá mức bình thường, sẽ sanh ra nóng nảy, càng bướng, hay sân, đa
dâm, háo sát…chẳng khác nào lửa cháy mà chế thêm dầu thì lửa càng bùng cháy lớn
hơn.
Người
có Âm tính thì phải dùng thức ăn Dương tính để bổ túc phần Dương cho thân thể
được mạnh khỏe vui tươi, siêng làm, ít mệt mỏi … Trái lại người Âm tính mà dùng
thức ăn có nhiều Âm tính thì càng làm cho cơ thể bạc nhược suy yếu, đi đứng
không vững, làm việc hay mệt, da mặt xanh xao vàng vỏ, với người nam thì hay bị
di tinh, hượt tinh, còn người nữ thì hay bị bạch đới làm tiêu mất tinh huyết
trong người, lần lần sẽ bị yểu tử.
Vậy
thức ăn nào thuộc về Âm hay Dương đặng áp dụng hằng ngày ?
Món
nào có tính mát lạnh, chứa nhiều nước như các loại trái cây, dưa mướp, bầu bí,
các loại củ, nước đá, bún tươi, các vị ngọt, chua, mặn thuộc về chất âm.
Món
nào nóng, khô ráo, sinh nhiều nhiệt lượng như các loại ngũ cốc ( gạo, mè, đậu
nành, đậu đỏ ), bí rợ, rau diếp, boa rô, ngò tây, cà rốt, xà lách son, trái
táo, dâu tây, tương hột, dầu mè, đậu phụng, đậu hũ…là thuộc về chất Dương. Một
kg đậu hũ hay một kg cà rốt bổ hơn một kg thịt bò, thịt heo, mà lại rẻ tiền,
mau tiêu hóa hơn.
Người
làm trai soạn trong nhà bếp cần phải biết rõ những món ăn Âm và Dương trên đây
đặng mỗi ngày chế biến thức ăn cho điều hòa Âm Dương thì đại chúng mới ít bịnh hoạn ốm yếu. Trừ trường hợp cá
nhân nào đau nhiều cần phải có thức ăn riêng để phù hợp với căn bịnh thì phải nấu
riêng.
Ngoài
các món ăn thức uống thông thường, hằng
ngày chúng ta còn có hai món ăn đặc biệt
rất quan trọng mà vô hình, ấy là ánh sáng và không khí. Đó là nguồn sống thiên
nhiên của vũ trụ.
Nhờ
có không khí mà chúng ta hít thở vào buồng phổi làm cho tim đập, mạch nhảy, gân
động, máu huyết lưu thông.
Nhờ
có ánh sáng mặt trời hấp thu vào bì phu tạo thành nhiều sinh tố làm cho da dẻ hồng hào ấm áp,
huyết cầu tăng trưởng giúp cho sự tiêu hóa và bài tiết dễ dàng các chất cặn bả
trong người. Ánh sáng còn trị được nhiều bịnh như: phù thủng, tê bại, và lớn
tim nữa. Nếu không có ánh sáng mặt trời thì thế giới này biến thành quả đất chết,
vì nó tối tăm, mịt mù, lạnh lẽ. Chẳng những loài người mà đến cây cỏ cũng không
sống được. Ánh nắng mặt trời là một nguồn năng lượng vô cùng vô tận, lợi ích
cho muôn loài vạn vật, cũng như Phật pháp là món ăn tinh thần vô cùng quý giá
làm cho chúng sanh hết khổ dứt mê, trở về Tánh Giác Bồ Đề vĩnh viễn an vui.
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét