NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THAM THIỀN CỦA PHẬT GIÁO
Tham
thiền tu định là pháp môn tu trì quan trọng của Phật giáo là con đường xưa nay
các tôn phái lớn của Phật giáo đều thực hành . Thiền phạn Ngữ là thiền na, Pali
gọi Jhana- Hán dịch là tĩnh lự, (tịnh
tâm suy xét ) gột sạch tất cả tạp niệm.
Thiền
có mặt khắp mọi nơi xưa nay hệt như nhau. Thiền chính là tâm của chúng ta. Cái
tâm này là cái chỉ cho “chân tâm” trái tim chân thật trú ẩn đáy sâu thẳm tâm hồn
chúng ta. Chân tâm này siêu vượt hết thảy sự tồn tại hữu hình, lại lộ bày trong
vũ trụ vạn hữu, cho dù cuộc sống hằng ngày trông giống như rất đỗi bình thường,
nhưng khắp nơi tràn ngập thiền cơ. Tham thiền cầu đạo, quan trọng là ở chỗ giác
ngộ chân tâm bản tính. Phương pháp tọa thiền là phương pháp quan trọng đối với
người mới nhập đạo, người bắt đầu học đạo thì phải ngồi thiền, ngồi thiền phải
điều hòa năm việc : Điều hòa ăn uống, điều hòa ngủ nghỉ, điều hòa thân thể, điều
hòa hơi thở và điều hòa tâm.
Về
điều hòa thân có 7 việc : 1/ Hai chân đan chéo nhau ( thế kiết già ), ngồi xếp
bằng gác một chân lên bắp vế chân kia ( thế bàn già ). 2/ Sống lưng thẳng đứng, không dựa vào vách
tường. 3/ Tay kiết ấn, đặt dưới rún .
4/Hai bả vai ngang bằng, thả lỏng tự nhiên, 5/ Đầu mặt ngay ngắn, hàm dưới thu
vào bên trong . 6/ Hai môi khép lại, lưỡi
chạm nhẹ vào hàm răng trên. 7/ Hai mắt
khép lại, quán chiếu thân tâm.
Thế
kiết già gọi là “ bàn tọa ”, lại chia
làm đơn bàn và song bàn. Những người mới
học nếu không thể song bàn, thì có thể đơn bàn, hoặc ngồi đan chéo hai chân vào
nhau, hoặc có thể ngồi trên ghế (giường
) đặt hai chân trên mặt đất, tư thế áo quần ngay ngắn.
Và
điều hòa hơi thở, hơi thở ( tức ) chính là thở ra hít vào, thông thường hít thở
có bốn hiện tượng gió, hít vào thở ra (
có âm thanh ) . thở ( nghẹt không thông ),
hơi ( ra vào khò khè ). Hơi thở ( không thanh, không ứ, không ồ ) ,( không có âm thanh, không nghẹt, không khò
khè ). Ba hiện tượng trước đều là tướng
của hơi thở chưa điều hòa, không nên ngồi thiền, chỉ có hơi thở nhẹ nhàng, thỏa
mái cõi lòng mới có thể vững vàng an ổn.
Điều
hòa hơi thở là phương pháp nhập môn của tu định. Phương pháp điều hòa hơi thở
có sổ tức và tùy tức ( đếm hơi thở và theo dõi hơi thở ). Sổ tức là một trong “
ngũ đình tâm quán”. Sổ tức có năm công đức như giảm bớt giấc ngủ, là nền tảng của
tu định, đối trị tâm tán loạn có công đức nhất. Nó và bất tịnh quán được cho là
“nhị cam lộ môn”.
Sổ
tức cũng là một trong nhân tướng (cái tướng nguyên nhân của vạn pháp ) của “ lục
diệu pháp môn”. Lục diệu pháp môn tức là sáu loại diệu pháp của tu định, gồm :
sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn và tịnh. Trong pháp môn của tất cả tập định,
an-na-bát-na (anapana ) thiền pháp là căn bản nhất, đồng thời cũng là vững chắc,
an toàn nhất. Thiền pháp an-na-bát-na tức là thông qua việc tu trì lục diêu
môn, khiến tâm dừng lại ở một cảnh giới ( nhất cảnh ), sau đó nương định theo
vào chánh lý quán sát thực tướng các pháp,
theo đó đoạn hoặc chứng chơn ( đoạn trừ tất cả phiền não tham sân si, chứng
ngộ chân lý vũ trụ nhân sinh ). Đức Phật xưa kia ngồi xếp bằng ngay ngắn dưới gốc
cây bồ đề ( bodhi druma ), bắt đầu nội quán an-bát ( an-na-bát-na), cuối cùng
được vạn hạnh mở mang, đối trị được ác ma và thành đạo, sau đó cũng lấy thiền
pháp an-bát dạy bảo cho mọi người, là phương tiện chủ yếu của pháp môn.
Về phương diện điều hòa tâm, Kinh Di giáo Phật
nói : “ Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”. Nghĩa là nếu có thể khống chế tâm vào
một chỗ, thì không có việc gì không làm được. Điều tâm chính là đem tạp niệm vọng
tưởng, tâm tán loạn chuyên chú vào một chỗ, khiến vọng tâm dừng lại mà bước vào
thanh tịnh, minh giác, quên cảnh của ta, đây cũng là mục đích căn bản của tọa
thiền.
Điều
tâm là phương pháp quan trọng của tu định. Bình thường mới tham thiền thường sẽ
xuất hiện hai trạng thái tâm lý, một là hôn trầm ( hôn mê muốn ngủ ). Hai là trạo
cử ( dao động, xao xuyến, vội vàng bất an ), điều tâm ngoài việc phải điều phục
tâm tán loạn, không để phóng dật, còn phải làm cho những trạng thái khác nhau của
tâm đạt đến an ổn thích hợp, ví như lúc hôn trầm thì quán tâm ở đỉnh mũi hoặc
mí tóc, khởi lên chánh niệm ( những ý nghỉ chân chính ) khiến tâm ý tập trung;
lúc trạo cử thì quán tâm ở đan điền ( vùng dưới rún), khiến tâm nông nổi chìm
xuống.
Ngoài
ra cũng có thể quán tưởng các tướng tốt của
Đức Phật, hoặc là niệm Phật, trì
chú; hoặc là tham thoại đầu, công án v.v… chỉ cần phù hợp với phương thức tu
thiền ( thiền tư/ thiền định / thiền quán ) của giới đức, định đức, tuệ đức.
Tùy vào căn cơ của mình mà chọn một pháp tu thích hợp.
Nói
chung mục đích chủ yếu của thiền tu là ở chỗ tu tâm đạt được định, theo đó ( nhờ
có định ) mà khai phát trí tuệ. Tập thiền tu định không thể chóng thành, không
thể vượt qua thứ bậc. Kinh nói “ y giới tu định, y định phát huệ”. Đây là học
trình ( chương trình học ) rõ ràng đúng đắn không được xem nhẹ. Nhất là quá
trình tu học từ sơ học nhiếp ( nắm/ giữ ) tâm, đến chánh định thành tựu, cần
chú trọng dưỡng thành thiền định cơ bản, cũng là dựa vào chín tâm trụ mà luận
Du Già –sư-địa nói, hoặc dựa vào tám đoạn kinh hành mà luận Biện Trung Biên nói
để mà tu tập, sẽ từ từ diệt trừ những
sai lầm như vọng niệm, tán loạn, trạo cử,
hôn trầm, khiến tâm an trú ở cảnh sở duyên, dần dà thì tâm không trầm ( sa sầm)
không trạo ( xao động ), thăng bằng cân
đối, an trú tùy vào sự vận động tự nhiên các pháp. Đây chính là tâm trụ thứ
chín cao nhất trong Dục giới, có tên là “ Đẳng trì tâm” giữ tâm ở thể thăng bằng,
tên gọi khác là định.
Từ
“ Đẳng trì” mà tiến vào Xa-ma-tha ( Samatha), cũng tức là “vị đáo định” ( chưa
được định ) trong Sắc giới. thời kỳ cần
phải tu Tứ thiền Bát định… Phật giáo đặc biệt chú trọng tu học về văn tư
huệ. Văn huệ, tư huệ, tu huệ là học trình thứ lớp trí huệ và năng lực tu học pháp Phật. Người thiền hành sau khi tu được
căn bản thiền định chín loại tâm trụ thì
phải thêm bước nữa, dốc sức vào việc nghiên cứu những lời dạy trong kinh điển,
đạt được những thành tựu “ pháp trụ trí”
của văn tuệ và tư tuệ, mới có thể chứng đắc thánh quả “ Niết bàn trí “ của
tu huệ.
Thiền,
là cần chúng ta không trụ sanh tử, cũng không trụ Niết bàn ( Nirvana ). Không trụ ở sanh tử, là muốn chúng ta dùng trí
tuệ của Bát nhã ( Prajna ) vượt qua sanh tử luân hồi; Không trụ vào Niết bàn ,
là muốn chúng ta lấy tâm từ bi phục vụ quần chúng, cứu độ chúng sanh. Vì thế, tập
thiền hẳn không nên xem nhẹ việc giữ tịnh giới, tu từ bi. Có thể giữ gìn giới
thân tâm thanh tịnh (trong sạch ), tập định sẽ dễ dàng thành tựu; có tâm từ bi,
trong lòng thường khởi lên tâm thương cảm, thì sẽ không đọa vào thiền cảnh khô
mộc.
Chọn
lựa môi trường (điều kiện) tọa thiền cũng là yếu tố vô cùng quan trọng. Ví dụ,
không nên ngồi thiền ở những nơi ẩm ướt hoặc nóng nực, không khí phải lưu
thông, độ sáng tối cần vừa phải, không ngồi ở dưới dầu ( nguồn ) gió, đệm ( bồ
đoàn / tọa cụ ) không nên quá mềm mại hoặc quá cứng…Người mới học giả sử còn ở
giai đoạn điều hòa thân, để thích nghi dần, trong một ngày nên “ ngồi thiền nhiều lần với thời gian ngắn”. Tọa thiền
có thể bố trí vào buổi sáng lúc mới thức dậy, ban đêm trước khi đi ngủ, hoặc
vào những ngày nghỉ lễ lúc nghỉ ngơi, đồng thời nên tránh ăn uống quá no, thân
thể mệt mỏi rã rời, hoặc ngồi thiền sau khi vận động mạnh. Thêm nữa, người mới
học tốt nhất nên thường xuyên đến chùa viện tu chung với đại chúng, đợi sau khi
hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản, hẵng ở nhà tu một mình.
Ở
nhà tu thiền nên có nhân duyên trợ đạo ( hỗ trợ tu hành ) đầy đủ, như : gần gũi
thiện tri thức, bồi dưỡng từ bi, dừng ác làm thiện, không bấu víu vào ngoại
duyên ( đến từ bên ngoài ), khéo điều tiết việc ăn uống, khéo điều tiết việc ngủ
nghỉ, trừ bỏ trạo hối cái ( năm thứ phiền
não che đậy tâm tánh, không cho pháp thiện nẩy sinh: Tham, sân, thụy miên, trạo
hối , nghi pháp ). Lòng tin kiên định, lễ Phật sám hối, phát khởi Bồ đề tâm
mỗi ngày… Trong quá trình tập thiền, nếu gặp phải nghiệp chướng hiện tiền, cần
phải khởi tâm sám hối hành vi đó, cũng như hành thiện pháp công đức, bồi dưỡng
hạt giống thiện, điều càng quan trọng hơn cả là, trong tư tưởng phải nghe nhiều
huân tập vô thường và giáo nghĩa Phật pháp duyên khởi tính không; lập thời khóa
biểu cố định khi ngồi thiền, phải thường xem thân tâm của tự ngã ngay tại bây
giờ như là đối tượng thiền quán, tiến hành thể sát (quan sát, theo dõi và thể
nghiệm ) đối với vấn đề vô thường, vô ngã, một khi phát hiện ra trí tuệ Bát nhã
thì nghiệp chủng khô héo, nghiệp chướng tự diệt vong. Đặc biệt tốt nhất có thể
tự lập ra biểu tu thiền và biểu ưu khuyết điểm, mỗi ngày tự mình yêu cầu, đồng
thời xem tọa thiền như là khóa học thông lệ. Nếu có thể nương vào phương pháp tọa
thiền đúng đắn, bền chí luyện tập, với một khoảng thời gian dài, sẽ có một ngày
tọa xuất yên tĩnh, khinh an ( ung dung an tường ), hỷ duyệt ( vui vẻ) tự nhiên
có thể thu được lợi ích của tọa thiền, kiến lập lòng tin của tọa thiền.
Tinh Vân- Nhã Tuệ dịch- trích Nguyệt san Giác ngộ số
263-02-2018
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét