ĐỊNH NGHĨA THIỀN TỰ TÁNH
Thiền
nói cho đủ là Thiền Na của tiếng Phạn DHYANA, có nghĩa là Định Huệ Đẳng Trì, là
Tịnh lự, là Mặc chiếu ( tức là tâm vắng lặng mà trí luôn soi chiếu tỏ rõ ).
Tự
Tánh là bản thể sẵn có của mình từ xưa đến nay và muôn đời về sau không thêm
không bớt, không sanh không diệt, bổn lai thanh tịnh và sáng suốt. Tuy yên lặng
mà thường chiếu soi, tuy không sanh mà tùy duyên ứng dụng để lợi lạc chúng
sanh.
Điều
kiện tiên quyết để cho người học pháp Thiền này là phải nhận rõ được Tự Tánh,
hiểu được Bổn Tâm của mình, tức là Minh Tâm Kiến Tánh, thì sự tu mới mau có kết
quả.
Trong
Kinh có câu : “ Học đạo chi nhơn bất thức bổn tâm học pháp vô ích. Nhược thức tự
bổn tâm, kiến tự bổn tánh, tức danh Trượng phu Thiên Nhơn Sư Phật Thế Tôn”.
Nghĩa
là : Người học đạo mà không biết được bổn tâm vắng lặng của mình và không thấy
được tự tánh thanh tịnh của mình thì học đạo vô ích. Nếu người nào nhận rõ được
bổn tâm tự tánh của mình rồi, thì người ấy chính là bực đại trượng phu, là Thầy
của Trời, Người, và đó là Đức Phật Thế Tôn vậy.
Lại
có câu : “ Vô tâm xuất thế học đạo vô
ích
Bất minh tự tánh vấn Thiền vô ích ”.
Nghĩa
là : Người không có lòng mong muốn xuất ly thế gian thì học đạo vô ích, vì Đạo
đây là Đạo Giải Thoát, mà mình thì còn luyến ái trần duyên thì học Đạo làm chi cho mất công. Còn người
muốn học Thiền mà không hiểu rõ Tự Tánh là gì thì học Thiền vô ích, vì chỉ
loanh quanh ngoài cửa Đạo chứ không được vô trong nhà. Nghĩa là cần phải Kiến
Tánh rồi mới Khởi Tu.
Vậy
Tự Tánh ra làm sao mà phải Minh phải Kiến ?
Đây
là bài kệ chỉ rõ hình dáng của Tự Tánh :
Tự
Tánh Thanh Tịnh Thiền
Tự
tánh sẵn thanh tịnh.
Tự
tánh vốn lặng yên
Tự
tánh không sanh diệt
Tự
tánh chẳng lay động
Tự
tánh không một vật
Tự
tánh thường đầy đủ
Tự
tánh hằng chiếu soi
Diệu
dụng muôn hạnh lành
Ứng
hóa khắp mười phương.
Người
hành Thiền Tự Tánh cần phải thuộc nằm lòng bài kệ nầy và hiểu rõ ý nghĩa của từng
câu, từng chữ, thì mới thâm nhập được Tự Tánh Thanh Tịnh.
Giải nghĩa :
Tự Tánh sẵn Thanh tịnh. : Là chỉ rõ Tánh Giác Bồ Đề của chính mình xưa
nay sẵn trong sạch thanh tịnh, không nhiễm không nhơ. Tự tánh là bản thể sẵn có
trong muôn loài vạn pháp, ở nơi phàm không bớt, ở nơi Phật không thêm. Nó không
hình tướng lại rỗng rang thanh tịnh. Chỉ trực nhận chứ không thể dùng lời nói nào
diễn tả cho đúng, cũng không thể dùng sáu căn để tiếp xúc được với nó, nhưng nó
lại hằng hiện hữu nơi sáu căn.
-
Tự Tánh vốn lặng yên : Là Tự Tánh của mình luôn luôn yên lặng. Dù thời gian có
thay đổi, cảnh vật có biến động, mà bản thể tự tánh vốn lặng lẽ, an nhiên tịch tịnh.
-
Tự Tánh không sanh diệt : Là các pháp trên thế gian thuộc về hình tướng hữu vi
nên có sanh, trụ, dị, diệt vô thường, còn bản thể của các pháp thì vô hình vô
tướng, thuộc về vô vi tuyệt đối, chơn thường chơn tịnh, nên Tự Tánh không có
sanh diệt thay đổi.
-
Tự Tánh chẳng lay động : Là Tự Tánh của
mình đã vốn lặng yên, bản thể luôn Như Như bất động, thì không có hoàn cảnh nào
chi phối nó được, dù cho thời gian có thay đổi, không gian có chuyển dời, nhưng
Tự Tánh vẫn an nhiên bất động.
Trong
Pháp Bảo Đàn kinh có bài kệ :
Lửa kiếp
thiêu đáy biển khô khan
Gió run núi
chọi tan nát nghiến
Ấy tịch diệt
chơn thường lạc hiện
Thế mới là thật
diện Niết Bàn…
-
Tứ Tánh không một vật : Là trong bản thể
tự tánh của mình nó rỗng rang như hư không bao trùm cả pháp giới mà nó không
dính mắc một vật gì cả. Sở dĩ chúng sanh bị mê lầm chấp trước nên bị Mạt na thức
làm chủ, rồi chứa chất việc này việc kia làm phiền não khổ đau, chớ khi giác ngộ
rồi trở về sống với tự tánh thanh tịnh thì đâu còn chấp một vật gì.
-
Tự Tánh thường đầy đủ : Là tuy tự tánh không có một vật, nhưng không phải là
ngoan không, rỗng không như ngoại đạo lầm chấp, mà là cái Chơn không Tự Tánh
bao hàm bản thể của muôn vật, khi vô sự thì lặng yên bất động, đến khi hữu sự
thì tùy duyên ứng hiện không thiếu món chi, nên gọi là “ Chơn không mà diệu hữu
”. Cũng như trong bầu hư không trống rỗng, mắt thường chúng ta nhìn lên không
thấy vật gì cả, nhưng sự thật trong không gian có đầy đủ bản thể của bảy Đại là
đất, nước, gió, lửa, không, thức, giới. Khi có đủ nhơn duyên hội họp thì nó hiện
ra thế giới, núi, sông , muôn loài vạn vật. Trong Tự Tánh của chúng ta khi một
niệm khởi lên có đủ 5 Uẩn, mà 5 Uẩn đó là cơ cấu tạo thành muôn sự vật.
-
Tự Tánh hằng chiếu soi : Trong Tự Tánh của chúng ta nó trong lặng tròn sáng mà thường chiếu, nó thấy biết hết tất
cả nguyên lý của vũ trụ vạn vật, chánh kiến chánh trí, nên gọi là Tánh Giác Bồ
Đề, nhưng vì từ bấy lâu nay mình bị mê lầm, chấp trước theo Mạt na thức mà chỉ
thấy đảo kiến, tà kiến, nên mới trôi lăn trong sanh tử luân hồi.
Diệu
dụng muôn hạnh lành : Là đến khi tỏ ngộ
rồi, tự giành lại được quyền làm chủ thì Trí Bát Nhã thường hiện tiền, chiếu
soi chúng sanh đau khổ lầm than liền tùy duyên ứng hóa diệu dụng muôn hạnh lành
để cứu độ chúng sanh.
-
Ứng hóa khắp mười phương :
Là
khi đã thể nhập với Tự Tánh, làm chủ được thân tâm, tự mình giác ngộ giải thoát
với chơn trí hiện tiền, nhưng đối với chúng sanh còn trầm luân khổ hải, không
thể điềm nhiên tọa thị, nên khởi lòng đại bi cứu độ, phát ra Hậu Đắc Trí diệu dụng
muôn hạnh lành từ nơi Tự Tánh, mà ứng hiện giáo hóa khắp mười phương ba cõi,
khiến cho tất cả đều được lợi ích an vui giải thoát.
Cũng
như điện lực trong không gian, tuy vô hình vô tướng mà có sức diệu dụng vạn năng,
nếu biết khai thác thì sẽ ứng dụng được muôn ngàn sự việc lợi ích cho nhân loại.
Nhưng đâu phải người tầm thường nào cũng biết khai thác năng lượng của điện, mà
phải là những nhà khoa học, bác học đã nhiều năm nghiên cứu tìm tòi học hỏi mới
biết mà đem ra sử dụng được.
Chúng
ta cũng vậy, muốn ngộ nhập được với Tánh Giác Bồ Đề thì phải nhờ có Minh sư
khai thị và phải công phu tu hành miên mật một thời gian nào đó mới Kiến Tánh
Minh Tâm mà trở về sống với Tự Tánh thanh tịnh của mình và làm lợi ích cho chúng
sanh.
Tóm
lại, Tự Tánh chính là Bản Lai Diện Mục, nó hằng hiện hữu nơi sáu căn, chẳng phải
đợi tu mới có, đợi cầu mới chứng, chỉ vì mê tánh giác nên không thấy được Tánh
Giác của mình, nó là cái hằng hiện thực sống và đầy đủ công đức, nên trong kinh
Phật nói: “ Tất cả các ông đã là Phật nhưng vì mê tánh giác mà có sanh tử, có
chúng sanh, chứ thật các pháp bổn lai thanh tịnh, không hề cấu nhiễm trần lao
”.
Xưa
nay, chúng ta tu mà không Ngộ Tánh, là vì sống với Tánh mà không hay, mê theo
Thức mà chẳng biết nên dù có tu lâu, học nhiều, phước lớn, cũng không ra khỏi
vòng chi phối của tâm thức, cho nên tu hoài mà cứ còn kẹt trong sanh tử luân hồi.
Bởi Tâm thức là Vọng, dùng Vọng tu Vọng sẽ chứng Vọng.
Trong
Kinh có câu : “ Dùng tâm Luân Hồi mà tu Viên Giác thì Viên Giác cũng thành Luân
Hồi ”.
Vậy
chúng ta tìm hiểu Tâm thức là gì ?
Là
tâm khi đối cảnh, cái Tâm ấy bị duyên theo cảnh, cái Thấy và Nghe không thu nhiếp
lại. Ý phân biệt chạy theo Cảnh gọi là Ý thức. Nó chấp ngã gọi là Mạt Na Thức.
Khi Ý căn chấp ngã Duyên theo cảnh gọi là Tâm thức, rồi mỗi hành vi cử động tiếp
nối nhau dưới sự điều khiển của Tâm thức, đây là Nhân đưa đến Luân hồi sanh tử.
-
Còn Tánh giác là gì ?
-
Là Tâm khi đối cảnh, cái tâm ấy liễu tri
và lặng lẽ. Cái Thấy và cái Nghe thu nhiếp nhau. Ý không chạy theo Cảnh nên gọi
là sống với Tánh Giác, nó không còn chấp ngã nên gọi là chơn tâm, là ông chủ, đối
cảnh mà liễu liễu thường tri thì gọi là thể nhập với Phật tánh và mỗi hành động
oai nghi đều nối tiếp nhau, ấy là diệu dụng của tự tánh. Cho nên, cũng một hành
động từ sáu căn mà gọi là sống với Tâm thức. Và cũng một hành động từ sáu căn
mà gọi là sống với Tánh Giác. Chúng ta sống ở trong vòng chi phối của luân hồi
phải có phương pháp để thoát và phải hết sức khéo léo.
Muốn
thoát khỏi bánh xe luân hồi đang quay vùn vụt thì phải có sức mạnh của Thiền định
để vượt khỏi sức hút của nghiệp thức, rồi phải có Trí Bát Nhã để soi thấu vạn
pháp Giai Không mà diệu hữu, thì mới không rơi vào tâm thức khi tu hành.
Lại
còn phải có giới luật của Tự tánh để hộ thân tâm, thì sáu Căn tiếp xúc sáu Trần
không bị ngoại cảnh khảo đảo chi phối, cũng như con người muốn bay ra ngoài
không gian thì phi hành gia đó phải có chiếc hỏa tiễn có sức đẩy thật mạnh gấp
mấy lần sức hút của trái đất, thì mới phóng được phi thuyền vượt qua khỏi bầu
khí quyển của trái đất, nếu hỏa tiễn không có sức mạnh hơn sức hút của trái đất
thì phi thuyền đó sẽ bị hút rơi trở lại địa cầu. Lại phải có lớp vỏ cứng chắc để
bảo vệ phi thuyền khi bị đốt cháy khi cọ xát với bầu khí quyển, cùng với những
máy móc tinh vi điều khiển đúng hướng đúng độ thì mới không bay lạc ra ngoài quỷ
đạo.
Tóm
lại, diệu dụng của pháp Thiền Tự Tánh là giúp chúng ta tu hành thoát khỏi tâm
chi phối của tâm thức và nghiệp lực để đến đạo Bồ Đề Vô Thượng, rồi khởi tâm Đại
bi phát ra muôn hạnh lành từ tự tánh để diệu dụng hóa độ muôn loài chúng sanh.
Tu
pháp này không phải tìm tu trong hoàn cảnh tịnh hay cảnh động mà là tu trong tất
cả mọi môi trường, nhất là ngay trong cảnh phiền não tu mà thấy Bồ Đề, ngay
trong sanh tử mà có Niết Bàn chứ không phải tìm đâu xa, nên trong Kinh gọi là :
Phiền
não tức Bồ Đề
Sanh
tử tức Niết Bàn
Vọng
tưởng là Chơn Như
Chúng
sanh đồng chư Phật
Dục
trừ phiền não trùng tăng binh
Thủ
hưởng chơn như tổng thị tà
Nếu
chúng ta biết trực nhận được Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền nơi chính mình, thì ngay
cảnh Ta bà này là Cực Lạc Tịnh độ vậy, do đó chúng ta phải y theo Tự tánh khởi
tu, toàn tu tự tánh, tự tánh mê là phiền não, tự tánh giác là Bồ đề.
Minh Chánh
{]{
0 nhận xét:
Đăng nhận xét