ĐỨC PHẬT RA ĐỜI- MỘT SỰ KIỆN HY HỮU CỦA THẾ GIAN
Cách
đây 2645 năm, Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất thị hiện giáng trần qua hiện
tướng của Thái tử Tất Đạt Đa ( Siddhartha
Gautama) con Đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Năm 29 tuổi, thái tử
xuất gia, 35 tuổi thành đạo có tôn hiệu
là Thích Ca Mâu Ni. Sau 45 năm giáo hóa độ sanh, vào năm 80 tuổi Ngài vào Vô Dư
Niết Bàn.
Sự
kiện hy hữu của Đức Thế Tôn trên đời đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của
nhân bản hướng đến sự tự do, bình đẳng và từ bi đích thực cho con người và muôn
loài. Đây được xem là sự kiện hy hữu của thế gian mà kinh điển ghi nhận là “ Một
vị thánh xuất hiện ở đời, vì hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lợi ích , vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người “
( Tăng Chi I, chương I, phẩm Một người ).
1/ Hy hữu với tâm từ bi vô lượng:
Trong một buổi lễ hạ điền diễn ra vào đầu năm,
cả Đức vua và vương triều đều tập trung vào nghi thức cày cấy thì Thái tử Sĩ Đạt
Ta đã nhìn thấy những loài côn trùng đau quằn quại bởi những luống cày xới lên,
những con chim sẻ sà xuống gắp đi. Ngài bèn tìm đến gốc cây hồng táo để tĩnh tọa,
trầm tư lẽ sanh tử. Một hoàng nhi chỉ vừa bảy tuổi thay vì nô đùa, vui chơi với
lễ hội, vô tư với vụ mùa đầu xuân thì ở đây Ngài đã nhìn thấy tận gốc rễ khổ đau của kiếp sống. Cái đau khổ của sự
giành giật, mạnh được yếu thua ngay cả những loài côn trùng nhỏ bé nhất.
Ngang qua ánh sáng duyên khởi,
nhân loại dần nhận ra rằng, sự sống của con người không tách rời sự sống của
muôn loài, từ chim muôn thú rừng cho đến cỏ cây hoa lá. Môi trường có sự tương
tác kỳ diệu với con người. Môi trường tốt sẽ dẫn đến cuộc sống tốt, sông ngòi
biển cả, núi rừng, cây cối, chim muôn thú rừng được bảo vệ thì con người sẽ đảm
bảo được sức khỏe, ít bệnh sống trường thọ, ít gặp tai ương. Môi trường bị tàn
phá, động vật bị sát hại thì cuộc sống con người sẽ rơi vào khủng hoảng, khó
khăn. Và dịch bệnh Covid-19 đang chính là một minh chứng cho điều ấy. Đó là hệ
quả tất yếu của sự tàn phá môi trường, sát hại sinh thú do chính con người tạo
nên mà nhân loại đang đối mặt.
Khi lớn khôn, trong một cuộc
dạo chơi bốn cửa thành, thay vì thưởng ngoạn, vui chơi thì Thái tử lại tỏ ra ưu
tư khi nhìn thấy tứ tướng vô thường- Sinh- lão-bệnh- tử, khiến ngài xúc động mạnh
mẽ. Ngay lúc đó, Ngài suy nghĩ rồi đây ta sẽ già, bệnh và chết như bao người. Từ
đó, Ngài để tâm đến việc đi tìm đạo để cứu đời.
2/ Hy hữu với sự từ bỏ vĩ đại
: Là một hoàng thái tử ở trên ngôi cao địa
vị, ở trong cung vàng điện ngọc với cung phi mỹ nữ bao quanh, vậy mà Ngài từ
khước mọi quyền lực, danh vọng, hạnh phúc thế gian, từ giã mẹ cha, cáo biệt
vương triều đi thẳng vào rừng để tìm đạo mong độ mình, cứu đời. Danh vọng, địa
vị, quyền lực, tài sản, hạnh phúc gia đình…là những thứ mà thế gian khát khao
tìm cầu, lịch sử nhân loại đã chứng minh bao nhiêu cuộc chiến tranh, bao nhiêu
sự giành giật gây chết chóc, tang thương cũng không có gì ngoài những thứ tham
này. Ấy vậy mà Ngài đã rũ bỏ một cách nhẹ nhàng như bụi trần vướng áo, như gió
qua cành khô. Một sự từ bỏ vĩ đại mà mấy ai thực hiện được
3/ Hy hữu với tâm bình đẳng
: Xã hội Ấn Độ cổ đại lúc bấy giờ, con
người được phân chia thành bốn giai cấp rõ rệt. Nhưng Đức Thế Tôn thì thiết lập
một lối sống mới, lối sống đặt trên nền tảng bình đẳng giữa con người với con
người, bình đẳng giữa nam và nữ, không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và
dòng nước mắt cùng mặn. Nhân phẩm con người không nằm ở sắc tộc, màu da, tư tưởng,
tướng nam hay tướng nữ, nó nằm ở nhân cách đạo đức và lối sống thiện lành. Tôn
giả Đại Ca Diếp ( Mahakassapa ) là giáo chủ của một tôn giáo thờ lửa, Vô Não (
Angulimala ) là tên sát nhân, Ưu Bà Ly
(Upali) là người gánh phân, Ambapali vốn
là một kỹ nữ danh tiếng, Cấp Cô Độc (
Anthapindika ) là một tỷ phú, Kỳ Bà ( Jivaka ) là lương y tài danh….Dẫu mỗi người
với thành phần địa vị, xã hội khác nhau nhưng khi đã dự vào hội chúng của Đức
Thế Tôn thì như nước trăm sông đổ vào biển cả, nước hòa làm một, không giữ tên
tuổi của từng dòng sông. “ Này các Tỳ
kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamuna, sông
Aciravati, sống Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên họ cũ, trở
thành biển lớn. Này các Tỳ kheo, đây là vi diệu chưa từng có” ( Tiểu bộ
kinh I, Kinh Phật Tự thuyết, Chương Bốn- Phẩm Meghiya ).
4/ Hy hữu với tính nhân
bản: Đất nước Ấn Độ là một trong những
chiếc nôi văn minh của nhân loại với hàng trăm học thuyết, tư tưởng, tôn giáo đều
lấy Phạm thiên ( Brahma ) thượng đế , thần
linh làm đối tượng tôn kính, làm trung tâm lẽ sống. Đức Thích Ca Mâu Ni lại lấy
đối tượng con người làm trọng tâm ( Nhân vi tối thắng ).
Đức Phật dạy rằng mỗi người tự
quết định chọn con đường mình đi và nhận lấy kết quả thiện ác, tốt xấu do chính
mình tạo ra. “ Trong tất cả các pháp, tâm làm chủ tâm tạo tác tất cả “ ( Pháp
cú 1-2 ). “Tâm làm chủ tạo tác ” ở đây được hiểu là mình quyết định cuộc sống
sướng khổ, buồn vui của chính mình mà không ai khác. Nếu có một sự giải thoát
hay ràng buộc nào thì sự giải thoát, buộc ràng đó chính là do ta tạo nên. Tà kiến
thì thấy có một đối tượng ngoài mình an bài, định đoạt số phận của mình. Chánh
kiến sẽ thấy rằng không có ai khác hơn chính ta là người quyết định cho ta ngay
kiếp sống này và tương lai. Nói cách khác, ta sống thuận với quy luật khách
quan ( Nhân quả ), ta có tuệ giác để chọn lựa tương lai tốt xấu của mình ngay
nơi suy nghĩ, lời nói, hành động của mình. Ta là chủ nhân ông tạo nghiệp và
chính ta thừa tự nghiệp quả ấy. Chính nghiệp là nới ta nương tựa, đưa ta đến
tái sinh. “ Con người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là
thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài
hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu . (Trung Bộ Kinh, Tiểu Nghiệp phân biệt số
135 )
5/ Hy hữu với tự do tư tưởng: Con người sống phải có đức tin nhưng không phải
đức tin mù quáng mà là đức tin có trí tuệ, có sự thẩm xét nơi chính chúng ta.
Tin mà thiếu tuệ sẽ dễ rơi vào cuồng tín và tà kiến. Giáo pháp do Đức Thế tôn
thuyết giảng có những đặc tính: “ Thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, đến
để mà thấy, chỉ có bậc trí mới thấu hiểu, có khả năng hướng thượng, và đưa người tu đạt
đến quả Thánh ”. Với 6 đặc tính này cho ta có cái nhìn toàn triệt về pháp bằng
trí tuệ mà không phải niềm tin vô căn cứ. Từ đó biết được con đường đúng sai, kết
quả thiện ác mà thực hành; “ Này các người
Kalama, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe
tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì
công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện, đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết,
đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người
Kalama khi nào các người tự biết rõ; Các pháp này là thiện, các pháp này là
không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện
và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kalama , các người
hãy đạt đến và an trú “(Kinh Tăng Chi Bộ I).
Hướng về Đại lễ Vesak PL
2565 với ba sự kiện lớn kỷ niệm Đức Thế Tôn Đản sinh, Thành đạo và Niết Bàn, ôn
lại vài dấu son trong cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài để nhắc nhở chúng ta rằng,
tuệ giác sáng ngời của bậc Đạo sư vẫn còn đó cho chúng ta. Mỗi người hãy thực tập
giáo pháp và đem giáo pháp vào đời, giúp cuộc đời chuyển hóa đem lại hạnh phúc
an lạc và lợi ích cho chư thiên và loài người mà Đức Thế Tôn hằng nhắc nhở
chúng ta.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét