Thứ Tư, 22 tháng 9, 2021

GIÁO LÝ TẬP 23

 

GIÁO LÝ TẬP 23

(Tài Liệu Hướng Dẫn Phật Tử  Tu Học)

 Biên soạn: HT. Thích Thiện Phương

Chùa Tam Bảo

An Sơn - Tam Kỳ - Quảng Nam

  

PL 2565 – DL T9/2021



MỘT SỐ THÔNG TIN VỀ COVID VÀ CÁCH PHÒNG NGỪA

Dịch Covid xuất hiện trên toàn thế giới gần ba năm nay, bắt đầu từ năm 2019 nên người ta gọi dịch Covid 19. Cả thế giới chưa có một phát đồ nào điều trị dịch Covid một cách hoàn mỹ. Vac xin là liệu pháp tối ưu để ngăn ngừa Covid nhưng những người đã chích ngừa xong vac xin vẫn bị nhiễm như thường. Người ta nói phòng chống Covid như chống giặc, nhưng thực ra không phải như chống giặc, giặc có đối phương để chống, biết chỗ để chống, ngược lại Vi rút dịch Covid  thì không biết từ đâu đến, trốn không xong, ngăn cũng không được. Covid không phân biệt màu da chủng tộc, không phân biệt Đông hay Tây,  lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo. đều có thể lây nhiễm. Rồi người ta phân làm F0, F1, F2, F3, nhưng cũng chưa đúng theo kiểu phân loại. Có người ở một mình không ra ngoài, không tiếp xúc một ai mà cũng vẫn bị nhiễm, có người cùng sống chung trong một gia đình, lại có người âm tính, người dương tính. Sự đột biến Covid mỗi ngày càng thay đổi biến chủng mới, làm cho các nhà khoa học chưa giải thích được một cách rõ ràng. Cho nên chiến tranh người ta không sợ, mà sợ Covid, vì chiến tranh người ta có thể tránh từ vùng miền. Ngược lại vi rút Covid không biết nó đến từ đâu, phòng thủ như thế nào ?  Cho nên người ta sợ Covid hơn là sợ chiến tranh là vậy.

Nhìn về mặt tiêu cực thì thấy Covid là một sự tác hại lớn đối với mọi người trên toàn thế giới. Nhưng nhìn về mặt tích cực chúng ta thấy, từ xưa đến nay chưa có nước nào ra lệnh cấm tụ tập đông người, cấm xe cộ, tàu bè lưu thông, cấm các nhà máy hoạt động, nhưng Covid đã làm được điều đó, và nhân cơ hội này đem lại sự trong sạch môi trường không khí cho trái đất.  Về con người chưa bao giờ gia đình được cùng chung ở với nhau một ngày, dịch Covid họ có cơ hội gần nhau hơn. Bình thường khi ăn uống họ chê dở khen ngon, nhưng khi dịch đến không còn lựa chọn ngon hay dở, miễn có ăn là được v.v..  Covid cũng đã cho con người biết nhìn lại cuộc sống, biết tri túc những gì mình đang có, trong lúc dịch có muốn cũng không được.

Người ta phải nhìn lại dịch Covid qua ba cách nhìn : Khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học Tâm linh thì mới có thể hiểu về Covid. Đứng trên khía cạnh khoa học để tìm hiểu về Covid thì không thể hiểu được, cho nên phải nhìn covid qua ba cách khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và khoa học Tâm linh thì có thể tìm cách giải quyết được.

Sau đây là một số cách phòng ngừa Covid không cần đến thuốc để điều trị. Chúng ta cần phải phòng trước tốt hơn để nhiễm rồi mới trị thì ít có hiệu quả. Một số phương pháp phòng ngừa như sau :

1/ Thường hay uống nước, nước trong , hay nước ấm.

2/ Siêng tập thể dục hằng ngày

3/ Ngủ nghỉ cho đủ giấc

4/ Ăn, uống đầy đủ dinh dưỡng, rau củ quả nhiều hơn

5/ Hít thở đều đặn, Hít sâu thở dài, để nạp dưỡng khí, đẩy lùi trược khí ra khỏi cơ thể.

6/ Tiếp xúc ánh nắng từ 7 g đến 10g khoảng 15 phút

7/ Luôn súc miệng, rửa mũi bằng nước muối pha loãng

8/ Siêng rửa tay bằng xà phòng

9/ Luôn đeo khẩu trang khi ra ngoài

10/ Bớt tiếp xúc nơi đông người

11/ Đừng thức quá khuya

12/ Giữ tinh thần lạc quan ( siêng niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh, nghe giảng )

Nếu giữ tinh thần lạc quan thì cơ thể  tăng hệ miễn dịch tốt để chống lại con vi rút hiệu quả hơn.

]

DINH DƯỠNG VÀ BỆNH LÝ DẠ DÀY

           BS CK1  Trần Thị Minh Nguyệt

Dạ dày là một bộ phận trong bộ máy tiêu hóa, có hình dáng giống như cái túi để đựng thức ăn, có vai trò quan trọng trong dinh dưỡng. Bệnh lý dạ dày thường gặp là viêm loét dạ dày- tá tràng do tăng tiết acid, có thể là bệnh mãn tính hoặc cấp tính , biểu hiện ở các triệu chứng khác nhau như đau bụng, khó tiêu, ợ nóng, ợ hơi, ợ chua, khó chịu….là bệnh thường gặp đứng đầu trong các bệnh ở đường tiêu hóa, bệnh có chiều hướng ngày càng gia tăng.

          - Ăn uống không hợp lý là một nguyên nhân gây bệnh :

          Có rất nhiều nguyên nhân gây tình trạng tăng acid dạ dày,  trong đó một nguyên nhân hay gặp là do ăn uống thiếu khoa học, không đúng giờ giấc làm bệnh đau dạ dày phát triển.

          - Ăn uống thất thường, bỏ bữa, ăn quá khuya đều là nguyên nhân gây tăng tiết acid dịch vị, dễ làm viêm loét niêm mạc dạ dày- tá tràng.

- Ăn quá nhanh, thức ăn chưa được nghiền nát, tiêu hóa một phần tại khoang miệng đã được đẩy xuống dạ dày làm tăng gánh nặng, dễ tổn thương niêm mạc dạ dày.

- Rượu, thuốc lá, trà, cà phê đậm đặc, thực phẩm có tính kích thích, quá chua, cay cũng là chất dễ Làm tổn hại niêm mạc dạ dày.

- Việc ăn uống không vệ sinh rất dễ mắc các bệnh về đường ruột như viêm dạ dày cấp tính, đầy bụng, buồn nôn…

          Nguyên tắc dinh dưỡng cho người mắc bệnh dạ dày :

          Quá trình tiêu hóa, hấp thụ thức ăn được thực hiện trong hệ thống tiêu hóa từ khoang miệng cho đến ruột non. Trong đó, dạ dày đóng vai trò quan trọng, vừa là nơi dự trữ thức ăn đưa vào để tiêu hóa dần, vừa là cơ quan nghiền nhuyễn thức ăn, tạo điều kiện thuận lợi cho tiêu hóa, hấp thụ thức ăn ở ruột non. Các yếu tố về lượng thức ăn, sự nhai nghiền thức ăn thành mảnh nhỏ tại miệng trước khi nuốt vào dạ dày có vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa. Người có bệnh dạ dày cần lưu ý :

- Nấu chín, ninh nhừ thức ăn, không nên ăn thực phẩm sống.

- Ăn chậm, nhai kỹ,

- Không bỏ bữa, chú ý bữa ăn sáng, không ăn quá no trong một bữa, nên chia thành nhiều bữa nhỏ ( 4-5 bữa ) để khỏi gây căng dạ dày ( vì căng dạ dày dễ kích thích tiết nhiều acid) đảm bảo luôn có một lượng thức ăn giúp trung hòa acid.

- Không ăn nhiều canh chung với cơm, sẽ không nhai kỹ được cũng như gây loãng và giảm tiết nước bọt tại khoang miệng, do đó thức ăn chưa được tiêu hóa một phần tại khoang miệng, làm tăng gánh nặng cho dạ dày.

- Ăn xong không nên lao động nặng, chạy nhảy ngay.

 Thực phẩm nên dùng cho người có bệnh lý dạ dày :

- Sữa, trứng có tác dụng giúp trung hòa acid trong dạ dày : sữa bò, sữa hộp, bơ, phô-mai…

- Thực phẩm giàu đạm: Thịt,cá nạc nên chế biến luộc, hấp, nấu nhừ.

-  Rau củ dùng rau non luộc hoặc nấu dạng súp, các loại rau củ nên ăn chín.

- Thực phẩm giàu tinh bột giúp trung hòa acid như cơm nấu nếp, cơm nếp nát, bánh mì, các loại khoai củ, cháo….

- Dầu ăn nên dùng số lượng ít.

            Những thực phẩm nên tránh :

- Thức ăn nhiều mùi vị, chất thơm như thịt quay, rán, thịt ướp  muối,  cá ướp muối và những thức ăn xào rán nhiều dầu mỡ.

- Các loại thực phẩm chế biến sẵn như dăm bông, lạp xưởng, xúc xích, các loại nước xốt, nước thịt cá đậm đặc.

- Những thức ăn cứng, dai gây cọ xát niêm mạc dạ dày như thịt nhiều gân, sụn, rau có nhiều xơ già, quả sống …

- Các loại hoa quả có vị chua, các món ăn có vị chua, cay như gia vị, giấm, tiêu, tỏi, ớt …hay các thực phẩm có thể gây trướng  bụng đầy hơi như dưa cà, hành muối…

- Các chất kích thích như cà phê, trà, nước ngọt có ga….

- Thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh-  Thức ăn sống, lạnh, không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

          Một chế độ dinh dưỡng khoa học hợp lý, điều độ kết hợp lối sống lành mạnh, tâm lý thoải mái giúp phòng tránh được bệnh lý dạ dày cũng như giúp người bệnh cải thiện tốt triệu chứng, tránh cho bệnh có chiều hướng trầm trọng hơn.

{]{

 

TỤNG KINH

Có một vị sư bảo đệ tử tụng kinh, sáng tụng, chiều tụng, tối tụng, khuya tụng, ngày sáu thời tụng kinh như vậy, suốt hơn hai năm, người đệ tử thưa với sư phụ rằng:  Bạch sư phụ, con không tụng kinh nữa, vị sư hỏi đệ tử vì sao con không tụng kinh nữa? Người đệ tử trả lời :  Bạch sư phụ, con tụng kinh hơn hai năm rồi mà chẳng hiểu được một câu, vì thế con không tụng kinh nữa.

Vị sư không giải thích, không bảo đừng tụng, cũng không bảo nên tụng . Vị sư bèn nói với chú đệ tử rằng :  Con làm cho sư phụ một việc, con lấy cái giỏ đựng than, bỏ than ra ngoài con đem giỏ xuống ao múc nước lên cho sư phụ. Người đệ tử tuân lời, bèn đổ than ra rồi đem cái giỏ xuống ao múc nước, nước vừa múc xong đem lên bờ thì nước không còn đọng lại trong giỏ, không còn giọt nào đọng lại trong giỏ, năm lần bảy lượt cũng như thế. Người đệ tử lại bạch sư phụ, con múc nước nhưng giỏ sưa nước đâu có đọng lại giọt nào .

Vị sư lại bảo đệ tử rằng :  Con xem lại cái giỏ ban đầu chưa múc nước với cái giỏ khi đã múc nhiều lần nước, trước sau có giống nhau không ?  Người đệ tử nhìn xem lại cái giỏ  bèn thưa :  Bạch sư phụ :cái gỏi bây giờ khác hơn cái giỏ ban đầu chưa múc nước, là nó sạch không còn lem luốc như trước nữa.

Vị sư bèn nói, à như thế!  Tụng kinh cũng vậy, tuy không hiểu được nghĩa kinh, nhưng ít nhất nó cũng  giúp cho tâm thanh tịnh, nó giúp lần lần tâm giảm bớt phiền não khổ đau.

Người đệ tử hiếu ý của thầy bèn sám hối và tiếp tục tụng kinh như cũ.

]

         


 

HỌA VÀ PHƯỚC

I- Muốn bình an, muốn hạnh phúc, giàu sang, phú quý, hay tu tập v.v… đều cần phải có phước mới thành tựu được lâu bền.

Thế nào Họa và Phước. Họa là những sự việc đem lại những nỗi bất hạnh khó khăn cho con người trên hai lãnh vực : Tâm ký và vật lý, về tinh thần thì khủng hoảng lo âu, buồn phiền, thất vọng v.v…. Về vật chất nghèo túng, nợ nần, mất mát hư hao, thất bại, bịnh tật, tai nạn, v.v…

Trái lại họa là phước, là những sự việc đem lại sự hanh thông, an lạc trên hai lãnh vực thân và tâm. Về tâm lý tinh thần lạc quan, thanh thản không lo âu buồn phiền v.v... Về vật chất, thân không bệnh tật, tai họa, gia sản của cải đầy đủ sung mãn, không hư hao thất thoát, việc gì cũng thành tựu mỹ mãn, năm sau hơn năm trước, vụ sau  hơn vụ trước. Cả hai vật chất và tinh thần luôn luôn thăng tiến tràn đầy hỷ lạc.

 Dù ở trong lãnh vực nào thành tựu hay thất bại, hanh thông hay trắc trở cũng đều do Phước quyết định. Giống như chiếc xe chạy nhiều km hay ít km do xăng quyết định, hết xăng dù xe mới mua cũng phải đứng tại chỗ.

Phước không phải tự nhiên mà có, không phải ai ban cho mà tự mình tạo nên. Những gì làm cho người khác an vui hết khổ về thân hay về tâm thì được gọi là phước. Những gì làm cho người khác bất an lo âu khổ sở về tinh thần lẫn vật chất thì gọi là họa. Xét về nhân quả hễ gây ra thì tự nhận lấy không trước thì sau, không đời này thì đời khác, không xa thì gần.  Phước có thể tạo, thì họa cũng có thể thay đổi, nên chúng ta không lo sợ họa đến với ta, mà ta phải biết hóa giải, biến họa thành phước.

II- Có bốn phạm trù Phước và họa:

1/ Phước nhiều họa ít

2/ Họa ít phước nhiều

3/ Họa phước bằng nhau

4/ Họa nhiều mà không có phước

III -Có bốn nguyên lý của họa và phước:

1/ Họa phước tương sanh

2/ Trong họa có phước, trong phước có họa

3/ Họa phước tương đối (họa có rồi cũng qua, phước có cũng hết)

4/ Phước họa khôn lường  (đang giàu có trở nên trắng tay , đang nghèo khổ trở nên tỷ phú ).

VI -Thái độ đối với họa phước

a/ Khi họa hay phước đến ta nghĩ đến nhân quả. Do nhân đời trước còn lưu lại, do hành thiện nghiệp hay tạo ác nghiệp mà nay phải nhận lãnh. Biết như vậy đối với việc thiện đưa đến hạnh phúc, đủ đầy v.v... thì ta không sanh tâm tự kiêu, tự đắc, tự mãn, ngã mạn, khoe khoang kêu hãnh. Mà trái lại khiêm nhường, không tự kiêu, tự mãn, không khinh chê người khác, không tự cao tự đại. Biết thương xót những người khác, biết chia sẻ nổi khó khăn với người khác,  tuy giàu có nhưng biết tiết kiệm không phung phí, dẫn đến tổn phước hao tài, lần lần cạn phước.

Cho nên phải kiệm phước, tạo phước, tích phước. Có bốn phước là: 1/ Tự mình làm ra của cải, bằng khối óc và tay chân của chính mình.

 2/ Biết sử dụng tài sản  đúng nghĩa :  trong kinh dạy khi làm ra của cải vật chất chia làm bốn phần :a/ Một phần giữ làm vốn, b/ Một phần trích ra nuôi gia đình vợ con, c/ Một phần giữ phòng khi có việc gì bất trắc ,  d/ Một phần đem làm phước như : bố thí cúng dường v.v...

3/ Của cải làm ra không bị nợ nần.

4/ Sự nghiệp không bị lỗi lầm :  việc làm ăn chánh chính, không trốn xâu lậu thuế, không lừa gạt người khác v.v…

Phước họa đời nay là thừa hưởng phước họa đời trước còn lưu lại.   Phước hay họa có là do nghiệp duyên quá khứ và nghiệp duyên hiện tại tạo thành. Nếu ta không biết , phước đến chúng ta tự kiêu, tự đắc tự mãn, khinh người ngạo vật, thì phước sẽ dần dần mất. Phước có chúng ta không biết tích phước tạo thêm phước, trước sau phước sẽ cạn rồi hết, như xe đổ xăng chạy một lúc nếu không đỗ thêm xăng, xăng hết xe phải dừng.

Họa cũng vậy, họa cũng do nghiệp duyên đời trước cùng với nghiệp duyên đời này, kết hợp đưa ra kết quả bất như ý, chúng ta than trời trách đất, đỗ lỗi người này, giận hờn người kia, khiến cho thân tâm bất an, hoàn cảnh bế tắc càng thêm bế tắc. Cuộc đời không vui càng thêm bất an, khó khăn càng thêm khó khăn, bế tắc đi vào đường cùng.

Trong hoạn nạn ta có thể thay đổi thành lạc quan yêu đời, nếu hiểu biết về nhân quả ba đời, thì giúp chúng ta bình tâm tỉnh trí, cố gắng vươn lên trong sự thất bại. Chuyển hóa đau khổ thành an vui, thất vọng thành hy vọng, qua cơn mưa trời sẽ sáng. Bỏ việc ác làm việc lành, thay đổi tâm lý xấu ác thành tâm lý hiền thiện, thì bao nhiêu xấu ác, tai họa dần dần thay đổi từ lớn chuyển thành nhỏ, từ nặng chuyển  sang nhẹ. Ví như ly nước muối mặn, ta đổ dần dần nước ngọt vào thì ly nước muối mặn kia lần sẽ thành ly nước ngọt.

Quán chiếu về nhân quả, nhân duyên, quả báo như vậy, mọi sự mọi vật từ nhân đến quả phải trải qua duyên mới hình thình nên kết quả. Sẽ giúp chúng ta tâm bình an, không trách không oán sống lạc quan yêu đời.

]

VỢ VẮNG NHÀ

Tôi gởi lên đây tâm sự vợ vắng nhà

Trên lầu, phòng khách, bếp vắng tanh

Cứ mở ti vi rồi lại tắt

Ra vào phòng ngủ lại thở ra

Không khí nhà nầy sao buồn quá

À mình lên tủ lấy hình xem

Hình cũ xem hoài đâu vui được

Thôi đói rồi kiếm gì ăn

Vào bếp dở nồi cơm lạnh ngắt

Thì bắt cơm lên tí rồi ăn

Ồ ! gạo, nước bao nhiêu là vừa nhỉ ?

Trời ơi mình hổng biết nấu cơm

Thôi thì mì gói mình ăn tạm

Thôi chết đến nơi hết mì rồi

Vợ đi, con vắng ai mua hộ

Chẳng lẽ đàn ông xách gói mì ?

Thế thì gát lại chiều hãy tính

Chắc kiếm chuyện làm sẽ vui hơn

Quần áo dơ đấy thôi mình phải giặt

Nhà lớp bụi này chút tính sau

Chén bát đầy thau, ôi chuyện nhỏ

Hỡi máy giặt ơi sao mi nút quá trời

Thôi thì giặt tay mình làm được

Ngồi xuống giặt đây sao muốn khóc hoài

Khóc vì tay mỏi chân tê cứng

Không phải đâu nha khóc bởi thương

Thương vợ bao năm ngần ấy việc

Mà mình nào có biết hay đâu

Quần áo bảnh bao nào ai giặt

Cơm sáng, tối, chiều chỉ vợ lo

Cả ngày cười nói vui nhà cửa

Này hỡi các anh biết cho dùm

Vợ có cằn nhằn thôi vui nhịn

Bởi vợ vắng rồi sẽ biết thân

Ấy là chưa kể lau nhà nhé

Rửa chén nữa đi sẽ biết mùi

Xem đây đừng nghỉ tôi hư hỏng

Không phải đâu nha tại vợ cưng

Mến gởi mấy anh chưa cưng vợ

Hãy cưng nhiều vào chẳng lỗ đâu

Mấy chị xem xong thì hãy nhắc

Đó đó thấy chưa anh thấy chưa ?

  ( Mùa dịch vợ vắng nhà )

   TG  Nguyễn Ngọc  Ẩn 

          {]{

PHÙ DU

Nếu biết chắc, ngày mai ta sẽ chết,

Thì hôm nay, ta phải sống ra sao ?

Có đua tranh, quyền lực nữa không nào,

Hay chấp nhận, mang danh “ người quá cố ”

Có đem hết tài năng ra  thi thố

Hay cam lòng như Lữ Bố cũng mạng vong

Có đem theo của cải của mình không ?

Hay nhắm mắt với hai bàn tay trắng

Có vinh nhục, khi thua, khi thắng,

Hay ra đồng, mồ vắng chỉ một mình

Có chuốt trau cho hình dáng đẹp xinh

Hay ba bữa thân trương phình mục rữa

Có hung hăng như sóng thần, núi lửa

Hay ngày mai này nằm giữa đất lạnh tanh

Có nghênh ngang dùng tài trí tung hoành

Hay nằm đó cho thân thành tro bụi

Nếu biết rằng còn một ngày mai ngắn ngủi

Thì chi bằng sống tốt đẹp hôm nay

Ngày mai này ta nhắm mắt xuôi tay

Thì ta cũng có một ngày tốt đẹp.

          {]{

 

 

CUỘC ĐỜI NÀY, ĐIỀU GÌ MONG MỎI NHẤT

- Không cầu bạn bè đông đúc, chỉ cầu một người tri kỷ,

- Không cầu ngàn người thương xót, chỉ cầu một người thấu hiểu

- Không cầu nhà cao cửa rộng, chỉ cầu một gia đình ấm áp,

- Không cầu siêu xe hào nhoáng, chỉ cầu cả đời bình an,

- Không cầu  áo quần đẹp đẽ, chỉ cầu ăn mặc lịch sự,

- Không cầu  tài cao bát đẩu, chỉ cầu  tư tưởng phong phú,

- Không cầu địa vị hiển hách, chỉ cầu công việc thuận lợi

- Không cầu đời người huy hoàng, chỉ cầu cả đời không hối tiếc,

- Không cầu vạn sự như ý, chỉ cầu mọi chuyện vừa vặn,

- Không cầu  sống lâu trăm tuổi, chỉ cầu  cơ thể khỏe mạnh

- Không cầu  cuộc sống xa hoa, chỉ cầu một đời người hạnh phúc

- Không cầu ngày tháng tuyệt vời, chỉ cầu có đủ niềm vui,

- Không cầu vô số người đọc, chỉ cầu có bạn là được

          Tất cả những truy cầu về vật chất, tiện nghi trong cuộc sống này đều phát xuất từ lòng tham của con người, mà ham muốn thì giống như việc uống nước muối, càng uống lại càng thấy khát, mong cầu càng nhiều thì càng dễ đau khổ.

          Mong cầu là việc bạn kỳ vọng vào những gì chưa đến, chưa có, chưa đủ, sống trong tâm trạng đó, làm sao cảm nhận được niềm vui trọn vẹn trong hiện tại, với cái bạn đang có. Tiếc nuối quá khứ, chờ đợi tương lai chính là nguyên nhân của mối khổ đau trong tâm mỗi người, trong khi chỉ có hiện tại là sự thật.

          Cho nên cách duy nhất để khiến chúng ta cảm thấy hạnh phúc là biết hài lòng với những gì mình đang có, và thay thế niềm vui từ sự sở hữu bằng niềm vui thiên về mặt tinh thần.

                             ĐẠI DỊCH NÀY

          Nếu bạn đau buồn vì tiền bạc, hãy ưu tiên cho sức khỏe, vì không có sức khỏe, tiền tài bao nhiêu cũng đều trở nên vô nghĩa.

{]{

CHỮ  “ NHÂN”

                   Ta chợt thấy kiếp người mong manh quá

                   Hiện diện đây, mai đã hóa vô thường

                   Mang được gì theo về miền lạnh giá

                   Ngoài những dòng nước mắt tang thương

                   Sống giành giật tranh nhau từng mét đất

                   Chết nằm yên dưới ba tấc đất khô cằn

                   Sống ích kỷ, ganh đua cùng ghen ghét

                   Chết mong cầu người khác hãy bao dung

                   Xin nhớ lấy đời này không đủ

                   Cũng chẳng ai dám tự đắc thiện, lành

                   Đừng khoe mẽ, đừng ngang tàng, tự phụ

                   Giữ tâm mình luôn sáng một màu xanh

                   Đời này ngắn, và chân tình khó kiếm

                   Phút buông tay là hết một kiếp người

                   Đừng mải miết đuổi theo điều phù phiếm

                   Nếu thương rồi, cứ việc nói thương thôi

                   Hãy mở rộng mắt nhìn và thấu hiểu

                   Giúp đỡ nhau khi có thể, đôi lần.

                   Nhường một chút bạn cũng không túng thiếu

                   Nhưng vui nhiều vì đã trọn chữ “Nhân”

                                                HCM: 1/7 âl  - Nguồn:Ketnoicamxuc.

{]{

CUNG KÍNH LẠY CON LỪA

          Có một con lừa chở một vị Hòa thượng và gói đồ trên lưng, đi đâu mọi người cũng đặt hương án hương đèn bái lạy, nó không biết trên lưng nó thứ gì. Đi qua một đoạn đường khá dài, đi đến đâu ai cũng bái lạy quỳ nạp đến đó. Cho nên con lừa nó nghĩ chắc mình đặc biệt lắm nên mọi người mới quý kính như vậy. Cho nên khi về đến chùa nó bắt đầu kiêu ngạo, nó nói nó không thèm ở trong chùa nữa, nó đi ra ngoài. Lúc đi ra ngoài nó nghĩ nó đã đủ sức thu phục mọi người rồi , nên họ cung kính nó suốt mấy ngày hôm qua, nay sự cung kính đó vẫn còn. Nhưng khi đi ra khỏi chùa nó thấy mọi người ngó lơ nó không ai cung kính nó hết, nó đâm ra buồn phiền, nó trách thế gian nay thay đổi nhiều quá, ngày hôm qua trọng sao nay lại khinh, tự nhiên nó sinh ra trầm cảm, rồi phát điên lên.

          Về sau vị Hòa Thượng mới giải thích thế gian tại sao thay đổi kỳ cục như vậy. Hôm qua người ta xông trầm đốt hương quỳ lạy  con, hôm nay người ta lại không nhìn con, bạc đãi con. Hòa thượng nói, con có biết không, ngày hôm qua con chở cái tượng Phật trên lưng con lên núi, người ta lễ Phật chứ không lễ con, bây giờ tượng Phật đã an vị rồi, người ta lễ Phật chứ đâu phải lễ con.

          Ở đời hay đạo cũng vậy, mỗi khi thăng quan tiến chức, cá nhân người nào đó,  được mọi người đề cử tôn xưng có một chức danh, chức vị  trong một tập thể, hay một cơ quan. Chức danh ấy gắn liền với trách nhiệm của một bộ phận, một công việc nào đó trong tập thể . Mục đích thay thế mọi người đem lại quyền lợi cho tập thể và xã hội, nên chức danh đó được xem trọng khi còn tại chức. Nhưng khi hết kỳ hạn, hay làm không tròn nghĩa vụ với chức danh mà mọi người đã tin tưởng vào mình, thì sự cung kính trọng vọng không còn.

          Cũng vậy một người phát tâm xuất gia rời bỏ thế tục, mặc áo tu sĩ, được mọi người cung kính trọng vọng người mặc áo người tu, là cung kính hình bóng của Phật, của Tăng đoàn đệ tử Phật, nên mọi người cung kính, Ta tưởng mọi người cung kính ta, ta nghĩ ta là người đặc biệt, là người cao quý hơn mọi người, sinh tâm ngã mạng, tự cao tự đại. Nhưng không biết rằng, mọi người cung kính, là cung kinh hình bóng của ba ngôi Tam bảo, Phật pháp Tăng. Tăng là người đại điện cho ba ngôi Tam bảo, nên mọi người cung kính lạy, chứ không phải cung kính lạy riêng bản thân mình, nên mình tự cao, tự đại ,ngã mạn là một sự sai lầm, cũng giống như con lừa chở tượng Phật trên lưng, khi tượng Phật lấy ra khỏi lưng con lừa thì sự cung kính không còn nữa.

          Cũng vậy mọi người cung kính người tu, là cung kính chiếc áo người tu hành, đại diện cho ba ngôi Tam bảo Phật Pháp Tăng, chứ không phải cung kính mình, nếu nghĩ lầm người ta cung kính mình là đã đi sai đường lạc lối rồi.

{]{

 

GIÁO PHÁP NÀO CAO QUÝ

Khi Đức Phật thành đạo tuổi mới 35, là một vị tu sĩ nhỏ tuổi nhất so với các vị đạo sĩ đương thời, và khi thành đạo Đức Phật đưa ra một tuyên ngôn mà trước thời Phật và sau thời Phật chưa có một tôn giáo nào có lời nói tự tin như thế. Đức Phật nói : Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh là Phật sẽ thành. Địa vị Phật không dành riêng cho ai hết, một câu nói bất hủ.

Khi Phật thành đạo và ngài tuyên bố ngài đã đắc đạo, tất cả các phái ngoại đạo không tin, đem lòng nghi ngờ. Đạo sĩ Bà la môn tự xưng là đạo cao quý, chủng tộc cao quý. Họ hỏi Phật đạo Ngài lấy những tiêu chuẩn gì làm cao quý. Đức Phật lại hỏi, đạo các ông lấy những tiêu chuẩn nào làm cao quý ?

Các Bà la môn trả lời, đạo chúng tôi lấy 5 tiêu chuẩn làm cao quý. Một người Bà la môn có đủ năm đức tính như sau :

1/ Dung mạo đẹp trai, tướng hảo hơn người

2/ Tài sản nhiều, giàu có

3/ Người có nhiều tài năng, kỹ thuật

4/ Người thuộc dòng dõi cao quý

5/ Thông thuộc kinh điển, tinh thông mọi học thuyết.

 Bà la môn hỏi theo Phật cần những điều kiện gì để được mọi người tôn kính ?  Đức Phật nói, giả sử một người có đủ năm điều : Giàu sang, tướng tốt, thông đạt, giỏi giang, mà có các tật xấu ác , như giết người, cướp của, tà hạnh, lời nói không chân thật v.v... thì có được gọi là người tôn quý hay không ?   Các vị Bà la môn nói không, chỉ cần có một điều xấu ác là không đủ điều kiện để mọi người tôn quý.

Đức Phật nói, trong giáo pháp Như Lai chỉ cần hai điều là đủ tiêu chuẩn của một người cao quý.

1/ Người đó phải có giới hạnh ( gìn giữ 5 giới )

 Là tôn trọng sự sống muôn loài, tôn trọng của cải vật chất mọi người, không xâm phạm tiết hạnh người khác, không nói lời dối trá v.v...

2/ Phải có trí tuệ. Không tham, sân, chấp thủ v.v...

Giáo lý của Phật chỉ có hai điều làm trọng điểm,  sẽ là người cao quý, được mọi người tôn trọng.

Trí tuệ có hai phần:

1/ Trí tuệ hữu sư : có sanh có diệt

2/ Trí tuệ vô sư :  không sanh không diệt.

Đối với đạo Phật không cần giàu sang, tướng tốt, giỏi giang chỉ cần hai điều giới hạnh và trí tuệ, giới hạnh gồm có 5 điều.

Có người quan niệm, tu tâm không cần quy y và giữ giới, nếu giữ không được giới mang tội.

Tại sao phải thọ Tam quy ?  Ví dụ như một người dân trong một nước thì phải có hộ khẩu, có giấy CMND, thì người đó sẽ hưởng được nhiều quyền lợi trên mọi công việc. Nếu không có hộ khẩu, hoặc CMND người đó xin làm việc gì cũng khó có cơ quan đoàn thể nào chấp nhận, hay người có giấy Bảo hiểm y tế thì khi bịnh đến bệnh viện, chi phí bao giờ cũng thuận tiện hơn, thay vì trả 100 đồng chỉ trả 20 đồng. Hoặc người có quốc tịch Mỹ đi bất cứ nước nào cũng có quyền ưu tiên. Hình thức quy y cũng giống như vậy, người có quốc tịch Mỹ tức có thẻ xanh đi đâu cũng được ưu tiên, không có nước nào sách nhiễu họ.  Năng lực của người đã quy y rồi cũng như vậy. Khi quy y rồi sẽ được Tam bảo âm thầm  bảo hộ.  Thiên long, bát bộ hộ pháp thiện thần phát nguyện trước Phật rằng, chúng con đi qua bất cứ làng mạc nào, phố thị nào, gia đình nào, con thấy có thiện nam , thiện nữ hiếu kính với cha mẹ, những người chủ gia đình, có lòng bảo bọc vợ con, có những người phụ nữ biết lo cho chồng con, thì những gia đình đó, có biết sự hiện diện của con hay không, con vẫn bảo hộ, không cho bất cứ một tai họa nào đến với họ. Đó là lời phát nguyện của Thiên long bát bộ hộ pháp, của Vua trời Đế Thích ủng hộ người phát nguyện tu tập, làm lành tránh giữ.

Cũng như bên Mỹ đến ở một nhà nào không cần phải khai báo tổ trưởng hay phường xã, nhưng khi có một sự cố nào xảy ra thì lập tức có cảnh sát đến can thiệp. Một ngôi nhà phát hỏa cháy, chủ nhà chưa kịp gọi điện đến phòng cứu hỏa, nhưng lính cứu hỏa có mặt ngay sau đó. Năng lực sau khi quy y cũng giống như vậy.

Khi đã quy y rồi, mà đi cầu bùa cầu chú, cầu tà ma, tức ta cầu thế lực bên ngoài, lúc đó ta từ bỏ sự phát nguyện quy y, nên sự gia hộ của hộ pháp không còn hiệu lực nữa. Một khi đã quy y phải nghĩ rằng là việc rất khó, phải có nhân tốt nhiều đời mới được, nên cần phải trân quý quy y.

Đạo Phật đến để mà nghe chứ không phải đến để mà tin, đạo Phật rất đặc biệt, nếu nương tựa chùa nào mà phiền não không chấm dứt thì nên rời chùa đó đi tìm một chùa nào có thể nương tựa  tu tập phiền não chấm dứt. Cũng như khi bịnh đến một bệnh viện chửa trị không hết bịnh, thì bỏ bệnh viện này, tìm bệnh viện khác giỏi hơn để trị bịnh, mà không mắt phải lỗi lầm.

{]{

HAI LỐI SỐNG

          Trong kinh Phật nêu ra có hai lối sống : Lối sống thuận theo  vô minh, theo dòng thế tục,  và lối sống ngược dòng thế tục đưa đến giác ngộ giải thoát. Tức là lối sống của người tỉnh thức, người có duyên gặp Phật pháp biết chuyển hóa tâm lý, là nếp sống của những người chuyên tâm hành trì lời Phật dạy. Lối sống thứ hai là lối sống thuận theo dòng đời, xuôi theo ngũ dục lạc. Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của lẽ sống sáng suốt thoát ly khổ đau ngay trong đời này và đời sau. Lối sống giác ngộ tỉnh thức , giải thoát và lối sống mê muội, khổ đau và trầm luân.

          Theo lời Phật dạy cho chúng ta biết rằng, con người sinh ra ở đời nếu không có duyên may được gặp Phật pháp thì hầu như chỉ có duy nhất một lối sống để theo đuổi, không có sự lựa chọn nào khác. Đó là lối sống theo tập quán thường tình của thế gian, tìm cầu các khoái cảm giác quan, yêu thích cái này, ghét bỏ cái kia, tìm kiếm lạc thọ, lẫn tránh khổ xúc, vùng vẫy trong thế giới có-không, hơn-thua, được-mất, vui-buồn của đời người cho đến hơi thở cuối cùng. Bản chất giới hạn và bất toàn của hiện hữu khiến con người luôn cảm thấy thiếu thốn và khao khát, cố tìm kiếm sự thỏa mãn trong mọi giới hạn của cuộc đời; nhưng càng nổ lực tìm kiếm thì cảm giác thiếu thốn và khao khát càng gia tăng, vì lòng tham của con người là không biên giới. Chữ Dục trong Hán tự gồm có bộ cốc và bộ khiếm, cốc nghĩa là cái hang, khiếm nghĩa là thiếu. Nghĩa là một cái hang đổ vào không bao giờ thấy đầy. Trong Kinh Pháp Cú nói rằng, người mê say tìm cầu các dục lạc thế gian, nhưng lòng tham muốn chưa thỏa mãn thì đã bị cái chết chinh phục rồi. Nói cách khác, sự đời không làm thỏa mãn lòng ham muốn của con người càng chạy theo tập quán tham dục thì bị ái dục trói buộc và sẽ chết với tâm thức khao khát dục, tiếp tục tìm kiếm sự thỏa mãn trong các cảnh giới sinh, bị dục ái và hữu ái giam cầm vĩnh viễn trong thế giới luân hồi sanh tử.

          Kinh Pháp Cú dạy rằng :

          Ai sống trong đời này,

          Bị ái dục buộc ràng;

          Sầu khổ sẽ tăng trưởng

          Như cỏ bị gặp mưa

          Người bị ái buộc ràng

          Vùng vẫy và hoảng sợ

          Như thỏ bị sa lưới

          Chúng sanh ái trói buộc

          Chịu khổ đau dài dài.

          Với mục đích khai thị cho nhân loại về sự thật khổ đau và con đường đi ra khỏi khổ đau. Đức Phật nêu ra hai lối sống để cho mọi người chiêm nghiệm và chọn lựa. Thứ nhất là lối sống thiếu hiểu biết, thiếu tu tập, tự mời gọi khổ đau và thứ hai là lẽ sống sáng suốt, có tu tập, đi ra khỏi khổ đau.

          Lối sống thứ nhất là lối sống thường tình giữa thế gian, kinh Phật gọi là phi Thánh cầu, tức là tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm, biểu lộ qua lối sống mê say tham cầu các lạc thú thế gian, tìm cầu danh lợi trần thế, không phòng hộ các căn môn, không chánh niệm tỉnh giác trong đời sống xúc chạm hằng ngày, tâm tư rơi vào thuận ứng ( ham thích ) và nghịch ứng ( ghét bỏ ), chạy theo các cảm thọ, dung dưỡng thói quen tham ái và chấp thủ, hướng đến sanh hữu, tiếp tục tạo ra sanh, già, bệnh,chết, sầu, bi khổ, ưu, não.

          Lối sống thứ hai là lẽ sống giác ngộ, gọi là Thánh cầu, nghĩa là tự mình bị sanh, sau khi chết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị già, sau khi chết rõ biết sự nguy hại của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị bệnh, sau khi chết biết rõ sự nguy hại của bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị chết, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị chết, tìm cầu cái bất tử, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình bị sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại của bị sầu, tìm cầu cái không sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn; tự mình ô nhiễm, sau khi biết rõ suy nguy hại của bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết bàn, được thể hiện qua nếp sống có tu tập, thường xuyên nhiếp hộ các căn môn, chánh niệm tỉnh giác trong đời sống hằng ngày, tâm tư không rơi vào thuận ứng và nghịch ứng, không chạy theo các cảm thọ, không nuôi lớn tham ái và chấp thủ, không hướng đến sanh hữu, chấm dứt sanh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não trong tương lai.

          Lối sống thứ nhất tiêu biểu cho đời sống của những người chưa có cơ duyên học tập Phật pháp, không biết thế nào là sự nguy hại của các dục và sự lợi ích của sự xuất ly các dục, không biết cách diệt trừ ác pháp và thành tựu thiện pháp, không có Giới-Định-Tuệ, sống theo tập quán tham ái và chấp thủ, chạy theo các cảm thọ, thường xuyên rơi vào thuận ứng và nghịch ứng, tâm tư ô nhiễm, bị thuận duyên giữa cuộc đời làm cho mê say và bị nghịch cảnh làm cho sầu muộn, gọi là thân không tu tập và tâm không tu tập.

          Lối sống thứ hai đại diện cho lẽ sống sáng suốt của những người chuyên tâm hành trì  theo lời Phật dạy, thấy rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly các dục, hiểu rõ sự nguy hại của ác pháp và lợi ích của thiện pháp, nổ lực tâm tu tập Giới-Định-Huệ, thực thi nếp sống phòng hộ các căn môn, nhiếp phục tâm tham ái và chấp thủ, giác tỉnh về các cảm thọ, không để cho mình rơi vào thuận ứng và nghịch ứng, tâm tư không ô nhiễm, không còn bị các đối tượng hấp dẫn làm cho mê say hay các đối tượng không thích ý làm cho phiền muộn, thể hiện tâm giải thoát, tuệ giải thoát ngay trong cuộc đời, gọi là có thân tu tập và tâm tu tập.

          Nhìn chung, sự thiếu hiểu biết về hiện hữu và bản chất khổ đau của sự kiện hiện hữu khiến cho con người thành ra mê lầm, không thấy rõ khổ đau, rơi vào ái luyến khổ đau, mê chấp khổ đau, tự mời gọi khổ đau, tiếp tục tìm cầu khổ đau, không biết đến con đường đi ra khỏi khổ đau. Hiện hữu ( thế giới ngũ uẩn, cảnh giới tái sanh luân hồi), chịu sự sanh diệt ( sanh, già, bệnh, chết ), biến hoại, khổ đau, là thế giới bất an, bất toàn, bất toại nguyện, không phải là nơi chốn để cho con người tìm kiếm hạnh phúc. Thiếu hiểu biết mà rơi vào thích thú hiện hữu, tìm kiếm sự thỏa mãn trong hiện hữu, chấp nhận hiện hữu là hạnh phúc tức là tự mời gọi khổ đau, bởi bản chất của hiện hữu là giới hạn, biến hoại, khổ đau, không an toàn, không toại nguyện. Đó là thái độ hiểu biết của những người chưa có cơ duyên học nghe lời Phật dạy, chỉ thấy vị ngọt của hiện hữu, không thấy được sự nguy hiểm của hiện hữu, rơi vào mê say tham đắm hiện hữu, tiếp tục mời gọi khổ đau ở trong hiện hữu, gọi là tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh lại tìm cầu cái bị bệnh, tự mình bị chết lại tìm cầu cái bị chết, tự mình bị sầu lại tìm cầu cái bị sầu, tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm.

          Trái lại, người có nhân duyên được nghe lời Phật dạy, hiểu rõ vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly hiện hữu thì không còn mê đắm hiện hữu, không còn cố công tìm kiếm sự thỏa mãn ở trong hiện hữu, không hân hoan, không chấp trước hiện hữu, chỉ xem hiện hữu là cơ duyên cho sự nỗ lực giải thoát khổ đau. Người đó ý thức rõ sự kiện được làm người là cơ duyên may mắn nhưng còn may mắn hơn là nhân duyên được nghe Phật pháp, vì chỉ có pháp Phật mới giúp cho con người thoát khỏi mọi mê lầm khổ đau. Vị ấy quyết tâm sống theo lời phật dạy, không tìm cầu dục lạc, dầu là lạc chư Thiên, chỉ ưa thích ái diệt, lấy Chánh pháp làm ngọn đèn, lấy Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chấp trì Bát Thánh đạo, thực thi nếp sống Giới-Định-Huệ, nỗ lực nuôi dưỡng giới đức, làm trong sạch tâm thức và phát triển trí huệ hướng đến giác ngộ, thể hiện nếp sống giải thoát trong đời sống xúc chạm hàng ngày, gọi là thực chứng tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

( Trích : Nếp sống trí tuệ của người con Phật – Nguyên Oanh- VHPG-15-4-2019- số 319.)

{]{

TIỀN ƠI !

Tiền ơi ! Ta bảo Tiền này

Vì Tiền ta khổ bao ngày tháng qua

Tưởng rằng  Tiền ở bên ta

Ngờ đâu Tiền  vẫn đi qua túi người

Sao Tiền bạc thế hỡi Tiền

Nghĩ suy chỉ thấy cuộc đời buồn thêm

Thứ gì nếu gắn với Tiền

Thì hạn sử dụng đi liền đằng sau

Nhiều khi Tiền tựa phép mầu

Nhưng mà có lúc làm đau lòng người

Đôi khi đem lại tiếng cười

Đôi khi mang lại ngậm ngùi xót xa

Trăm năm trong cõi người ta

Buồn, đau, hạnh phúc thì ra vì Tiền.

{]{

TÂM CUNG KÍNH

Trong cung ngoài kính mới chí thành, Phật pháp có thành tựu hay không cũng ở tâm chí thành, cho nên nói  “ trong cung ngoài kính mới chí thành”. Nội tâm có thành kính sẽ biểu hiện ra bên ngoài sự cung kính.

Đối trước tượng Phật, Bồ Tát, chấp tay quỳ gối là hành động biểu hiện cho sự cung kính của nội tâm. Nếu không cung kính không bao giờ chấp tay quỳ gối. Nhưng vì có tâm thành kính nên không ai bảo, mình tự nhiên chấp tay, không ai bảo quỳ tự quỳ tự lạy.

Hành động chấp tay quỳ gối là hành động của thân cung kính, chẳng những thân cung kính mà tâm cũng cung kính, miệng niệm danh hiệu, như vậy  sự cung kính thể hiện  trên toàn thân thể, thân, khẩu, ý. Đủ cả ba nghiệp thì phước sanh huệ phát, nghiệp chướng tiêu trừ.     

{]{

CÓ CẦU CÓ ỨNG

Có phước đức nhân duyên, nếu gia công tu hành tốt, dễ dàng cảm ứng, cho nên có người  xưng niệm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu tài được tài, cầu con được con, cầu danh được danh, cầu Tam muội được Tam muội v.v... nói chung cầu chi được nấy, cho nên nói có cầu ắt có ứng. Song đối với người không có phước đức đầy đủ, dầu có cầu nguyện bất cứ điều gì cũng không được, không có cảm ứng. Nói như vậy Quan Âm Bồ Tát có thiên vị không? Trả lời là không,  vì sao vậy ?   Vậy người cầu có cảm ứng, là cảm ứng cái gì ? Là cảm ứng nghiệp chướng tiêu trừ, một khi nghiệp chướng của bạn tiêu trừ, thì bạn cầu chi được nấy. Bằng ngược lại nghiệp chướng chưa tiêu trừ, thì dù bạn có cầu nguyện đến đâu cũng không cảm ứng. Một khi nghiệp chướng được tẩy sạch, bạn không cần cầu cũng tự nhiên có cảm ứng.

Ví như người đi vay tiền ngân hàng, nếu bạn chưa có nợ cũ trong ngân hàng, thì bạn vay mấy cũng được. Nếu còn nợ cũ còn trong ngân hàng chưa trả xong,  bạn vay tiếp dù ít dù nhiều cũng không được. Cũng vậy, khi bạn làm mất lòng tin ai đó, sau bạn lại nói lời ngon ngọt, dù hay đến mấy, có đúng sự thật 100 % người ta cũng không tin bạn. Cho nên có câu “ Trường học có bút xóa, nhưng trường đời thì không là vậy.  Chữ tín ở đây đồng nghĩa với sự thành tâm và phước đức. Người có phước có tâm thì làm việc gì cũng mau thành tựu là vậy,/,

]

SỰ TU HỌC NHƯ CHÈO THUYỀN NGƯỢC NƯỚC

Người tu đạo có nhiều thiện duyên thì ít, mà chướng duyên thì nhiều. Đơn cử như kể về bản thân mình, khỏe mạnh thì ít, đau bịnh thì nhiều, rảnh rỗi thì ít bận rộn thì nhiều v.v… Một cơn bịnh nhẹ như nhức đầu sổ mũi cũng đã khiến công phu tu tập của ta ngưng trệ liền. Ngồi lâu một chút là cơ thể không cho phép, huống nữa là làm công việc gì lớn, đó là nghiệp chướng đã có từ vô lượng kiếp rồi. Nghiệp chướng thì dày, trong khi thiện căn thì mỏng. Chúng ta tạo nghiệp chướng đã nhiều.

Người có thiện căn biết dụng công tu hành là khổ, biết nghiệp chướng tuy nặng, nhưng lại không sợ nghiệp chướng, mà lại phát tâm tu hành tinh tấn để tiêu trừ nghiệp chướng. Hạng người này rất hy vọng thành công. Ngược lại là người biết nghiệp chướng mình đã nặng, tu hành khó khăn, lại thối chí nản lòng, dù có gặp thiện duyên cũng khó phát tâm tu tập.   

Do đó, chúng ta phải xét lại mình, là người có thiện căn  hay không, phải dùng trí tuệ chiếu soi lại chính mình. Biết mình là người nghiệp dày phước mỏng mà không phát tâm tu tập, thì nghiệp cũ đã không tiêu trừ, lại tạo thêm nghiệp mới nữa, thì làm sao nói đến việc liễu sanh thoát tử? Nên cần phải quyết tâm nổ lực tinh tấn hạ thủ công phu, thì không có việc gì khó, chỉ khó là lòng không bền. Cho nên tục ngữ có câu “ Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người, ngại núi e sông.”

Người có thiện căn dày, ác nghiệp mỏng, thì tu hành rất thuận lợi, thế nhưng chúng ta là những người nghiệp dày phước mỏng, nên việc tu hành của chúng ta như chèo chiếc thuyền ngược nước, nếu chúng ta không vững tay chèo, không nổ lực tinh tấn, chắc chắn thuyền chúng ta bị nước cuốn trôi theo dòng chảy. Vì thế cổ đức có câu  “ Người tu đạo, như thuyền chèo ngược nước, không tiến thì lùi ”.  Nên chúng ta phải nỗ lực, quyết chí, mới mong khỏi bị cuốn trôi theo dòng sông sanh tử. Người thế gian phần đông trôi xuôi theo dòng sông sanh tử, còn người tu chúng ta là đang đi ngược dòng sanh tử. Cho nên khó khăn rất nhiều, do đó dụng công vào câu Phật hiệu không ngừng đừng để có lãng phí thời gian trôi qua không có ích./

{]{

CẦU DIỆU PHÁP XUẤT THẾ GIAN

          Trong kinh Phổ Môn nói : Người niệm danh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát, cầu tài được tài, cầu con được con v.v..  Như vậy người tu xuất thế, có phải cầu tài cầu con không ?  Xin đáp là có. Cầu tài ở đây là cầu Công đức Pháp tài, cầu con ở đây là cầu Phước đức trí tuệ, cầu tướng tốt đoan nghiêm. Người tu là cầu pháp xuất thế gian là vậy.

          Phật có đủ Phước đức và trí tuệ, nên gọi là đấng Phước-Trí nhị nghiêm, nên việc Ngài độ chúng sanh rất nhiều và dễ dàng thuận lợi. Vì thế người tu chỉ cầu phước đức và trí tuệ để độ mình độ chúng sanh là vậy. Trong kinh nói : “ Chỉ cần thấy dạng nghe danh-  Bao loài thoát khỏi ngục hình đớn đau ”.

          Năng lực của Phước đức và trí tuệ của Phật, Bồ Tát, chúng sanh chỉ cần thấy hình bóng và nghe danh hiệu cũng giúp họ thoát ra tâm trạng lo sợ hãi hùng, đang trong tình trạng nguy hiểm của tính mạng v.v.. Như mỗi khi gặp tai nạn nhiều người niệm danh hiệu Phật, hay Quan Âm , giúp họ bình tâm tỉnh trí thoát được sự khổ nạn. Khi Phật còn tại thế, mọi người nhìn thấy tướng hảo của Phật mà phát tâm bỏ tà quy chánh sinh tâm cung kính, quy y theo Phật xin làm đệ tử, không những người thường mà phần lớn các thủ lãnh phái ngoại đạo. Như Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất v.v... đều trở thành đệ tử ưu tú trong hàng Tăng Bảo thời Phật. Vì thế Phật đủ phước đức và trí tuệ trang nghiêm nên đã độ được nhiều chúng sanh một cách dễ dàng. Nên người học Phật chỉ cầu  diệu pháp xuất thế chứ không cầu pháp thế gian.

{]{

LÌA TƯỚNG TU THIỆN PHÁP

          Người tu nói cầu nguyện, nhưng cầu nguyện như thế nào cho hợp với Phật pháp. Phải cầu với nhận thức không có tướng ngã, tướng nhơn và tướng chúng sanh. Tuy là không tướng, nhưng phải tu tập tất cả thiện pháp, nếu ngộ nhận rằng đã không có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, từ đó không chú trọng đến Nhân quả, xả bỏ tu sự mà chuyên tu lý thì có hại cho bản thân vô cùng.

          Cần phải biết tu Phật pháp phải áp dụng nhân quả, sự lý cần phải hài hòa. Nếu coi trọng lý mà xem nhẹ sự tướng nhân quả thì không thể nào đạt được chân lý đích thực của Phật pháp. Tuy không có tướng ngã, tướng nhân, lìa tất cả pháp, lìa tất cả tướng, nhưng đứng trên mặt sự tướng cần phải tu tất cả pháp. Muốn tu được tốt cần phải tinh tấn, thành khẩn tha thiết, trong tương lai chúng ta sẽ cảm ứng quả vị vô vi. Quả báo vô vi thì không sanh không diệt, đó mới chính là Phật pháp thiết thực.

          Nếu lấy tâm hữu tướng tu hành tất cả pháp thì sẽ cảm ứng quả báo hữu vi, tất cả quả báo hữu vi đều là vô thường sanh diệt.  Tu thiện cảm ứng quả báo thiện, một khi hưởng hết rồi trở lại hoàn không.   Chánh nhân vô thường, cho nên “ sinh” vẫn mãi sinh, “chết” cũng vĩnh viễn chết. Chánh nhân như vậy, sanh không ngừng, chết cũng không đoạn, sinh sinh tử tử, mãi mãi chịu khổ không cùng tận.  Cần phải tu hành để có trí tuệ Bát Nhã thấu rõ các pháp vốn không sở hữu, tuy không có sở hữu, nhưng phải luôn tu sự tướng cho viên mãn, vì Phật pháp không lìa thế gian pháp. Đức Phật cũng từ chúng sanh mà thành đạo quả, do đó chúng ta cũng vậy, không thể xa lìa chúng sanh trong thế gian mà tu hành được. Ngược lại phải rộng kết thiện duyên với chúng sanh mới có thể độ họ được./.

{]{

MƯỜI HẠNG VỀ HƯU

1/ Về hưu ngẫm lắm sự đời

Lên “ Voi ” xuống  “ Đất” mỗi người khác nhau

Về hưu đi nhảy, đi câu

Tham quan, du lịch, Tây, Tàu liên miên

Chẳng lo cơm gạo, áo tiền

Vô tư thanh thản không phiền lụy ai

Đấy là HƯU TRÍ không sai

Nhưng mà thiên hạ có ai mấy nào ?

2/Về hưu thậm thụt ra vào

“ Buôn dưa” hóng chuyện tào lao vỉa hè

Rượu bia, cá độ, lô đề

Tối ngày “ bám trụ” quán chè làm vui

Loạn ngôn, bất mãn với đời

Sẵn sàng  “ đấu khẩu” buông lời khó nghe

Thích trò “ thọc gậy bánh xe”

Bà con hàng xóm cười chê HƯU KHÙNG

3/Về hưu nổi máu anh hùng

Xin làm cán bộ “ Ba cùng ” với dân

Nữa đời chỉ biết làm “ Quân”

Nay về làm “ Tướng” muôn phần oai phong

Dẹp chợ, cấm, phạt hàng rong

Bắt dân đóng góp từng đồng “ vệ sinh”

Làm việc để mất chữ tình

Vợ con mới bảo rằng mình HƯU HÂM

4/Về hưu lại nổi máu dâm

Cưa sừng làm nghé “ sưu tầm gái tơ”

Về già mới học làm thơ

Đem tiền nuôi gái, ngẩn ngơ tối ngày

Lưới tình càng mắc càng say

Thế nên mới gọi hưu này HƯU DÂM

5/Về hưu lại bỏ về quê

Trồng rau cuốc đất, chăn dê nuôi gà

Kiêng đường, thịt mỡ , trứng , da

Bia, rượu, thuốc lá, đàn bà cũng kiêng

Kiêng ăn kiêng cả tiêu tiền

Họ hàng, bè bạn than phiền HƯU TU

6/Về hưu làm việc lu bù

Kiếm tiền tiết kiệm từng xu từng đồng

Hoặc làm thân đỡ buồn lòng

Chuốc thân vất vả long đong tối ngày

Mọi người bảo là đi cày

Cho nên mới bảo hưu này HƯU TRÂU

7/ Về hưu chẳng dám đi đâu

Nấu cơm, đi chợ, nhặt rau, quét nhà

Chăm con, nuôi cháu, trông già

Kiêm luôn bảo vệ, coi nhà giữ xe

Thế nên bị gọi khó nghe

Ấy là HƯU CHÓ , làm thuê trong nhà

8/ Về hưu nhưng vẫn chưa già

Phải về trước tuổi gọi là HƯU NON

9/ Về hưu chức không còn

Bổng lộc hết chẳng rút bòn được ai

Khi còn đương chức tác oai

Tham ô, hối lộ, tiêu xài của dân

Về già hết mất người thân

Đệ tử thân tín,  cũng dần bỏ đi

Quyền cao chức trọng mà chi

“ Hai năm mươi ” cũng xanh rì cỏ thôi

Gặp dân không dám mở lời

Hội hè đình đám, mọi người tránh xa

Bán xe, bán đất, bán nhà

Bỏ quê trốn lủi gọi là HƯU MA

10/ Về hưu chưa kịp dưỡng già

Đã coi bệnh viện như nhà của riêng

Bao nhiêu sở thích phải kiêng

Đái đường, huyết áp, bệnh tim, đại tràng

Loãng xương, tiền liệt, bàng quang…

Lương vừa mới lãnh đang mang thuốc rồi

Cháu con mỗi đứa một nơi

Gọi là HƯU HẮT cuối đời cô đơn

Trời sanh chữ Kém chữ Hơn

Chữ Nhân chữ Quả, chữ Buồn, chữ Vui

Đắng cay mới có ngọt bùi

Hết mưa lại rợp trời mây bay

Đủ năm đủ tuổi đến ngày

Có ai tránh được kiếp này Phận hưu ?

          {]{

LỜI XIN LỖI MUỘN MÀNG

Anh sắp đồ đạc…Mẹ đã qua đời

Cuốn nhật ký rơi, vài dòng mẹ viết

Khi con còn nhỏ, Mẹ đút con ăn

Thật là khó khăn, vì con nghịch suốt

Vui thì con nuốt,  bực lại nhả ra

Cơm vãi đầy nhà, vẫn là Mẹ dọn

Mẹ già rồi con, tay chân lóng ngóng

Đỗ hạt cơm nóng,  Con đã cau mày

Nhớ ngày lên hai, Thay đồ đâu dễ

Vì con đâu thể, Ngoan ngoãn đứng yên

Miệng nói huyên thuyên, chạy lui chạy tới

Mặc xong đồ mới, Mẹ đã mệt nhoài

Bây giờ run tay, Mặc đồ khó lắm

Con nói như gầm, “có vậy chả xong”

Con còn nhớ không, Mẹ hay kể chuyện

Hiệp sĩ, nàng tiên,  cho con dễ ngủ

Mẹ thường hát ru,  bằng lời yêu mến

Thương vô bờ bến,  lời hát nhẹ nhàng

Tai giờ nghễnh ngãng, Mẹ hỏi lại con

Mở mắt to tròn,  “ tai bà bị điếc”

Xưa có nhiều việc, con rất hiếu kỳ

“ Mẹ giải thích đi, tại sao lại thế

Những câu không dễ, Mẹ đi hỏi người

Về nở nụ cười, chỉ cho con trẻ

Thắc mắc của Mẹ. Mẹ muốn hỏi con

Con bảo mệt rồi, hỏi gì nhiều thế

Khi xưa Mẹ bế, con mấy dặm đường

Chạy đến nhà trường, trong đêm mưa gió

Chiếc áo mưa nhỏ, Mẹ choàng cho con

Nước lụt xói mòn, toàn thân Mẹ ướt

Nhớ vài hôm trước, trái gió trở trời

Con nỡ nặng lời, ho to sao ngủ

Mẹ sống đã đủ, giờ sức đã tàn

Mong con bình an,  Mẹ về với bố

Anh lặng người khóc, Di ảnh trên bàn

Lòng dạ nát tan, “ con xin lỗi Mẹ ”

                                       ( TG : Lại Văn Sâm )

                   {]{

LÒNG TIN

           Lòng tin là thứ mà một khi đã mất thì khó có thể trở lại như ban đầu.  Vì vậy hãy sống đúng và  thành thật ngay từ ban đầu.

          Bởi trường học có bút xóa, nhưng trường đời thì không.

{]{

TRÍ TUỆ- &- VĂN TÁC

          Những bậc Long tượng đều có đầy đủ trí tuệ lẫn văn tác. Có trí tuệ mà không có văn tác thì việc hoằng pháp cũng khó đi vào lòng người. Có văn tác mà không có trí tuệ thì văn tác đó chỉ là hoa mỹ. Có trí tuệ lẫn văn tác thì ngôn ngữ hoằng pháp mới thành ngôn ngữ thù thắng, mới là loại ngôn ngữ “ chung thân ngôn, vị thường ngôn, chung thân bất ngôn , vị thường bất ngôn “. ( Suốt đời nói mà chưa từng nói, suốt đời không nói mà chưa từng không nói ).  Của Trang Tử.

           Ý tại ngôn ngoại

          Đức Phật cuối cuộc đời kết thúc một câu :

“ Ngã tòng mỗ dạ đắc tối Chánh giác nãi chí mỗ dạ nhập Niết bàn, ư kỳ trung gian nãi chí bất thuyết nhất tự. diệc bất thuyết, đương thuyết, Bất thuyết thị Phật thuyết ”.

           Ta từ đêm chứng được Chánh giác Tối thượng cho đến đêm nhập Niết bàn, ở khoảng giữa thời gian đó, thậm chí ta không hề thuyết một chữ, cũng chẳng phải đã thuyết hay đang thuyết, không thuyết mới là Phật thuyết .

                    Kinh Lăng Già.

{]{

 

MẸ VÀ VỢ

                   Ngày hôm nay anh vô tình đọc

                   Câu chuyện xưa- cô gái hỏi một lời

                   Giữa Mẹ và Em- nếu phải chọn một người

                   Vậy anh sẽ vì ai mà rơi lệ ?

                   Em biết không dù cho anh mạnh mẽ

                   Trước cuộc đời sóng gió chẳng chùn chân

                   Sẽ vì Em mà cố gắng bội phần

                   Nhưng anh lại  thương Mẹ hơn Em ạ

                   Lời thật tâm không hề dối trá

                   Bởi anh yêu tha thiết cả hai người

                   Mẹ và Em đều quan trọng trên đời

                   Nên không thể đem ra mà so sánh

                   Anh nói thật và chưa từng trốn tránh

                   Bởi cả đời anh chỉ có một Mẹ mà thôi

                   Cũng như Em anh yêu chỉ có một người

                   Nên Em nhé…đừng bắt anh phải chọn

                   Mẹ và Em không phải là những món

                   Mà tiền bạc mua được phải không Em ?

                   Cuộc đời anh dầu gia cảnh sang hèn

                   Vẫn hạnh phúc vì có Em và Mẹ

                   Tình yêu ấy, anh chưa từng xem nhẹ

                   Ước mong sao hai cá tính hòa đồng

                   Mẹ thương anh tình thương ấy mênh mông

                   Còn Em lại yêu anh hơn tất cả

                   Ơn sinh thành chưa một ngày đáp trả

                   Em hãy cùng chăm sóc Mẹ với anh

                   Khi cho đi sẽ nhận lại chân thành

                   Một mái ấm rộn tiếng cười Em ạ

                   Rồi một ngày Em sẽ thành người Mẹ

                   Là tấm gương cho dâu trẻ nhìn vào

                   Con dâu Mẹ không muốn chồng phải chọn

                   Bởi trên đời chỉ có một Mẹ mà thôi

                   Anh yêu vợ, xin đừng làm Mẹ khóc

                   Vợ yêu anh, không nên để Mẹ buồn

                   Em muốn Mẹ cười vui khi có đàn cháu nhỏ

                   Thương con dâu suốt đời vì giống Mẹ ngày xưa.

                   {]{

 

OÁN GIẬN, TRÁCH MÓC

          Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường gặp không phải ít những người luôn mang trong lòng tâm hồn oán trách. Họ oán trách cha mẹ không công bằng, oán trách công việc quá nhiều, oán trách bạn bè không  hiểu nhau, oán trách con cái không hiếu thảo, oán trách xã hội v.v… cho đến oán trách cả trời mưa trời nắng nữa.. Trong tâm trạng lúc nào cũng không yên với sự không vừa lòng của mình mọi lúc mọi nơi.

          Oán trách là một loại cảm xúc xấu nhất khiến cho mối quan hệ thêm căng thẳng và mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Nó không chỉ khiến cho sức khỏe bạn xấu đi, người thân bạn bè cũng xa lánh họ  và sự hòa khí không còn, luôn sống trong tâm trạng nghi ngờ, bất mãn.

          Những người phàn nàn quanh năm, cuối cùng có thể bị cô lập và bị mọi người chung quanh xa lánh. Oán giận là một loại độc dược, nó có thể làm giảm nhiệt huyết, phá hủy ý chí, hạ thấp địa vị, hủy hoại cả thân lẫn tâm của con người. Cho nên oán trách vận mệnh chi bằng hãy cải biến vận mệnh, oán trách cuộc sống chi bằng hãy cải thiện đời sống.

          Trong Kinh Di giáo Phật nói : “ oán trách sân giận như một con rắn độc đang nằm ngủ trong nhà bạn, nếu nuốn ngủ yên giấc thì hãy đuổi con rắn độc đó ra khỏi nhà, thì mới yên tâm mà ngủ”.  Oán giận là một cảm xúc không lành mạnh, cảm xúc này không thật có, nó do khởi từ tâm vọng tưởng, tán loạn, giống như gió thổi bóng cây lay động, ánh trăng chiếu soi bóng qua ngọn cây lay động. Cây có thật, trăng có thật, gió có thật nhưng bóng ngọn cây lay động không có thật. Tâm vọng tưởng cũng như thế, con chó sủa ban đêm vì nó thấy sự chuyển động của bóng cây dưới ánh trăng, tưởng là người ăn trộm, nên cứ sủa mãi mà không có con người nào thật trong bóng đêm khuya là vậy.

          Mặt trăng soi bóng trúc in trên thềm nhà

          Gió thổi bóng trúc quét qua, quét mà không làm gợn lên mảy bụi nào.   ( Trăng, trúc, gió có thật nhưng sao quét không sạch bụi )

{]{

SƯ TỬ VÀ DÃ CAN

Thời Phật còn tại thế, trong tăng đoàn có Đề Bà Đạt Đa, là anh em trong dòng tộc Thích Ca với Phật, lúc đầu đi tu Đề Bà rất tinh tấn tu tập, có thần thông được vua quan ham mộ, rồi tự thấy mình có khả năng không khác gì Phật, bèn nghĩ sẽ làm tốt hơn Phật, nên chế riêng ra 5 điều giới luật:

1/ Trọn đời không dùng các loại thịt . 2/ Trọn đời không dùng các loại chế phẩm từ bơ sữa -3 / Trọn đời sống khất thực- 4/ Trọn đời không ngủ trong nhà- 5/ Trọn đời không nhận đồ mặc từ cư sĩ.

Với 5 điều luật mới mẽ này khiến cho 500 vị mới xuất gia họ đánh giá rất cao, họ cho  rằng Đề Bà mới là người thực tu và nghiêm túc. Vì thế những người xuất gia này ủng hộ  quan điểm của Đề Bà và tách ra  thành một Tăng đoàn riêng do Đề Bà đạt đa ( Devadatta ) lãnh đạo.  Đề bà thấy quan điểm của mình là đúng, làm như vậy là hợp lý hợp thời, rất tự hào quan điểm của mình.

Từ quan điểm mà Đề Bà cho là chân chính và được nhiều người ủng hộ trong đó có vua quan, vì thế sự tự hào và kiêu ngạo khiến Đề Bà càng ngày càng đi sâu vào chấp ngã ngã chấp pháp, dẫn đến việc tu tập sa sút thần thông mất hết, tánh tình trở nên cau có hung hăng v.v... vua quan và Tăng chúng theo Đề Bà lần lần rời bỏ Đề Bà qua lại Tăng đoàn của Phật. Rồi Đề Bà bịnh hoạn rồi qua đời trong thời gian không lâu.

Nhân đây Đức Phật mới kể chuyện tiền thân của Ngài với Đề Bà trong vô lượng kiếp về trước. Kiếp trước khu rừng nọ có hai con Sư tử và Dã can làm thân quen với nhau. Lúc đầu Dã can thấy Sư tử to lớn oai hùng, loài thú nào cũng khiếp sợ, chỉ cần một cú nhảy là bắt được con mồi có ăn ngay, không khó khăn gì. Dã can thấy vậy đến dùng những lời lẽ ngon ngọt xin làm đệ tử Sư tử. Sư tử thấy Dã can ăn nói khôn ngoan bèn nhận lời cho làm đệ tử. Sư tử giao cho Dã can nhiệm vụ đi thăm dò các con mồi, bèn lên đỉnh cao nhìn xuống con mồi nào đáng bắt thì báo cho Sư tử. Vì thế cả hai cuộc sống sung túc thời gian. Mỗi lần bắt được mồi Sư tử ăn phần thịt ngon, còn thừa lại Dã can ăn.

Dã can sống nhờ Sư tử một thời gian lâu, con Dã can tự suy nghĩ, sao mình cũng là con thú có bốn chân, có vút nhọn, có răng khỏe, mỏm dài, chạy nhanh như Sư tử. Mà cứ lệ thuộc Sư tử, phần ăn không công bằng, ăn thừa thịt còn lại của Sư tử. Nên ta phải bỏ Sư tử để tự lập cuộc đời ta, có cuộc sống tốt hơn có danh tiếng hơn. Dã can nghĩ vậy bèn đến nói với Sư tử, tôi lâu nay ở với Ngài quá lâu nay tôi xin đi ra tự lập cuộc sống mới, tôi sẽ tự đi săn bắt những con voi như Ngài bắt, tôi sẽ bắt những con mồi béo nhất. Sư tử khuyên ngăn Dã can không đủ sức để ra tự lập được đâu, Dã can một mực ra đi.

Dã can bắt chước Sư tử lựa con voi lớn nhất, mập mạp thừa lúc voi ăn lá không quan sát Dã can nhảy vọt lên đầu voi ngậm lấy đầu voi. Voi bất ngờ bị cú cắn vào đầu đau quá, lắc đầu vung vòi quật mạnh Dã can rớt xuống đất, voi bèn dùng chân dẫm lên thân Dã can trong nháy mắt Dã can chỉ còn đống thịt vụn.

Đức Phật nói, không những đời này mà nhiều kiếp về trước Đề Bà luôn nhờ Ta rồi trở lại làm khó dễ cho Ta và cuối cùng không tồn tại lâu dài.  Đức Phật nói hạng người vô ơn vô nghĩa thì không bao giờ sống lâu và tồn tại.

{]{

ĐỨC PHẬT RA ĐỜI- MỘT SỰ KIỆN HY HỮU CỦA THẾ GIAN

          Cách đây 2645 năm, Bồ Tát Hộ Minh từ cung trời Đâu Suất thị hiện giáng trần qua hiện tướng của Thái tử Tất Đạt Đa ( Siddhartha  Gautama) con Đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Maya. Năm 29 tuổi, thái tử xuất gia,  35 tuổi thành đạo có tôn hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Sau 45 năm giáo hóa độ sanh, vào năm 80 tuổi Ngài vào Vô Dư Niết Bàn.

          Sự kiện hy hữu của Đức Thế Tôn trên đời đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của nhân bản hướng đến sự tự do, bình đẳng và từ bi đích thực cho con người và muôn loài. Đây được xem là sự kiện hy hữu của thế gian mà kinh điển ghi nhận là “ Một vị thánh xuất hiện ở đời, vì hạnh phúc và an lạc cho số đông, vì lợi ích , vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài người “  ( Tăng Chi I, chương I, phẩm Một người ).

1/ Hy hữu với tâm từ bi vô lượng:

 Trong một buổi lễ hạ điền diễn ra vào đầu năm, cả Đức vua và vương triều đều tập trung vào nghi thức cày cấy thì Thái tử Sĩ Đạt Ta đã nhìn thấy những loài côn trùng đau quằn quại bởi những luống cày xới lên, những con chim sẻ sà xuống gắp đi. Ngài bèn tìm đến gốc cây hồng táo để tĩnh tọa, trầm tư lẽ sanh tử. Một hoàng nhi chỉ vừa bảy tuổi thay vì nô đùa, vui chơi với lễ hội, vô tư với vụ mùa đầu xuân thì ở đây Ngài đã nhìn thấy tận gốc rễ  khổ đau của kiếp sống. Cái đau khổ của sự giành giật, mạnh được yếu thua ngay cả những loài côn trùng nhỏ bé nhất.

          Ngang qua ánh sáng duyên khởi, nhân loại dần nhận ra rằng, sự sống của con người không tách rời sự sống của muôn loài, từ chim muôn thú rừng cho đến cỏ cây hoa lá. Môi trường có sự tương tác kỳ diệu với con người. Môi trường tốt sẽ dẫn đến cuộc sống tốt, sông ngòi biển cả, núi rừng, cây cối, chim muôn thú rừng được bảo vệ thì con người sẽ đảm bảo được sức khỏe, ít bệnh sống trường thọ, ít gặp tai ương. Môi trường bị tàn phá, động vật bị sát hại thì cuộc sống con người sẽ rơi vào khủng hoảng, khó khăn. Và dịch bệnh Covid-19 đang chính là một minh chứng cho điều ấy. Đó là hệ quả tất yếu của sự tàn phá môi trường, sát hại sinh thú do chính con người tạo nên mà nhân loại đang đối mặt.

          Khi lớn khôn, trong một cuộc dạo chơi bốn cửa thành, thay vì thưởng ngoạn, vui chơi thì Thái tử lại tỏ ra ưu tư khi nhìn thấy tứ tướng vô thường- Sinh- lão-bệnh- tử, khiến ngài xúc động mạnh mẽ. Ngay lúc đó, Ngài suy nghĩ rồi đây ta sẽ già, bệnh và chết như bao người. Từ đó, Ngài để tâm đến việc đi tìm đạo để cứu đời.

2/ Hy hữu với sự từ bỏ vĩ đại :  Là một hoàng thái tử ở trên ngôi cao địa vị, ở trong cung vàng điện ngọc với cung phi mỹ nữ bao quanh, vậy mà Ngài từ khước mọi quyền lực, danh vọng, hạnh phúc thế gian, từ giã mẹ cha, cáo biệt vương triều đi thẳng vào rừng để tìm đạo mong độ mình, cứu đời. Danh vọng, địa vị, quyền lực, tài sản, hạnh phúc gia đình…là những thứ mà thế gian khát khao tìm cầu, lịch sử nhân loại đã chứng minh bao nhiêu cuộc chiến tranh, bao nhiêu sự giành giật gây chết chóc, tang thương cũng không có gì ngoài những thứ tham này. Ấy vậy mà Ngài đã rũ bỏ một cách nhẹ nhàng như bụi trần vướng áo, như gió qua cành khô. Một sự từ bỏ vĩ đại mà mấy ai thực hiện được

3/ Hy hữu với tâm bình đẳng :    Xã hội Ấn Độ cổ đại lúc bấy giờ, con người được phân chia thành bốn giai cấp rõ rệt. Nhưng Đức Thế Tôn thì thiết lập một lối sống mới, lối sống đặt trên nền tảng bình đẳng giữa con người với con người, bình đẳng giữa nam và nữ, không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và dòng nước mắt cùng mặn. Nhân phẩm con người không nằm ở sắc tộc, màu da, tư tưởng, tướng nam hay tướng nữ, nó nằm ở nhân cách đạo đức và lối sống thiện lành. Tôn giả Đại Ca Diếp ( Mahakassapa ) là giáo chủ của một tôn giáo thờ lửa, Vô Não ( Angulimala ) là tên sát nhân,  Ưu Bà Ly (Upali) là người gánh phân,  Ambapali vốn là một kỹ nữ danh tiếng, Cấp Cô Độc  ( Anthapindika ) là một tỷ phú, Kỳ Bà ( Jivaka ) là lương y tài danh….Dẫu mỗi người với thành phần địa vị, xã hội khác nhau nhưng khi đã dự vào hội chúng của Đức Thế Tôn thì như nước trăm sông đổ vào biển cả, nước hòa làm một, không giữ tên tuổi của từng dòng sông. “ Này các Tỳ kheo, phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamuna, sông Aciravati, sống Mahi, các con sông ấy khi chảy đến biển liền bỏ tên họ cũ, trở thành biển lớn. Này các Tỳ kheo, đây là vi diệu chưa từng có” ( Tiểu bộ kinh I, Kinh Phật Tự thuyết, Chương Bốn- Phẩm Meghiya ).

          4/ Hy hữu với tính nhân bản:  Đất nước Ấn Độ là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại với hàng trăm học thuyết, tư tưởng, tôn giáo đều lấy Phạm thiên ( Brahma )  thượng đế , thần linh làm đối tượng tôn kính, làm trung tâm lẽ sống. Đức Thích Ca Mâu Ni lại lấy đối tượng con người làm trọng tâm ( Nhân vi tối thắng ).

          Đức Phật dạy rằng mỗi người tự quết định chọn con đường mình đi và nhận lấy kết quả thiện ác, tốt xấu do chính mình tạo ra. “ Trong tất cả các pháp, tâm làm chủ tâm tạo tác tất cả “ ( Pháp cú 1-2 ). “Tâm làm chủ tạo tác ” ở đây được hiểu là mình quyết định cuộc sống sướng khổ, buồn vui của chính mình mà không ai khác. Nếu có một sự giải thoát hay ràng buộc nào thì sự giải thoát, buộc ràng đó chính là do ta tạo nên. Tà kiến thì thấy có một đối tượng ngoài mình an bài, định đoạt số phận của mình. Chánh kiến sẽ thấy rằng không có ai khác hơn chính ta là người quyết định cho ta ngay kiếp sống này và tương lai. Nói cách khác, ta sống thuận với quy luật khách quan ( Nhân quả ), ta có tuệ giác để chọn lựa tương lai tốt xấu của mình ngay nơi suy nghĩ, lời nói, hành động của mình. Ta là chủ nhân ông tạo nghiệp và chính ta thừa tự nghiệp quả ấy. Chính nghiệp là nới ta nương tựa, đưa ta đến tái sinh. “ Con người là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt, có ưu . (Trung Bộ Kinh, Tiểu Nghiệp phân biệt số 135 )

5/ Hy hữu với tự do tư tưởng:  Con người sống phải có đức tin nhưng không phải đức tin mù quáng mà là đức tin có trí tuệ, có sự thẩm xét nơi chính chúng ta. Tin mà thiếu tuệ sẽ dễ rơi vào cuồng tín và tà kiến. Giáo pháp do Đức Thế tôn thuyết  giảng có những đặc tính: “ Thiết thực hiện tại, vượt thoát thời gian, đến để mà thấy,  chỉ có bậc trí mới thấu hiểu,  có khả năng hướng thượng, và đưa người tu đạt đến quả Thánh ”. Với 6 đặc tính này cho ta có cái nhìn toàn triệt về pháp bằng trí tuệ mà không phải niềm tin vô căn cứ. Từ đó biết được con đường đúng sai, kết quả thiện ác mà thực hành; “ Này các người Kalama, đừng tin vì nghe nói lại, đừng tin vì theo phong tục, đừng tin vì nghe tin đồn, đừng tin vì kinh điển truyền tụng, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì công thức, đừng tin vì có suy tư đầy đủ về những dữ kiện,  đừng tin vì có thẩm sát và chấp nhận lý thuyết, đừng tin vì thấy thích hợp, đừng tin vì Sa môn là thầy mình. Nhưng này các người Kalama khi nào các người tự biết rõ; Các pháp này là thiện, các pháp này là không đáng chê, các pháp này được người trí khen ngợi, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận thì dẫn đến hạnh phúc an vui, thời này các người Kalama , các người hãy đạt đến và an trú “(Kinh Tăng Chi Bộ I).

          Hướng về Đại lễ Vesak PL 2565 với ba sự kiện lớn kỷ niệm Đức Thế Tôn Đản sinh, Thành đạo và Niết Bàn, ôn lại vài dấu son trong cuộc đời và đạo nghiệp của Ngài để nhắc nhở chúng ta rằng, tuệ giác sáng ngời của bậc Đạo sư vẫn còn đó cho chúng ta. Mỗi người hãy thực tập giáo pháp và đem giáo pháp vào đời, giúp cuộc đời chuyển hóa đem lại hạnh phúc an lạc và lợi ích cho chư thiên và loài người mà Đức Thế Tôn hằng nhắc nhở chúng ta.

          Đại lễ Phật đản năm nay đúng vào dịp kỷ niệm 40 năm thành lập GHPGVN ( 1981-2021) . Đây là sự kiện trọng đại của nền Phật giáo có hơn hai ngàn năm lịch sử, là sự kết tinh của quá trình tu tập, hành đạo của 9 Giáo hội, Hệ phái Phật giáo kết thành. Có thể nói, đây là cuộc thống nhất Phật giáo kỳ vĩ ngang tầm với kỳ thống nhất dưới triều Trần, do chính  Sơ tổ Trúc Lâm hợp nhất ba Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường thành một giáo hội duy nhất. Vì thế, mỗi Tăng Ni Phật tử chúng ta hãy không ngừng nghĩ việc đem Đạo Từ bi tỏa sáng khắp muôn nơi như huấn thị của Thế Tôn: “Này các Tỳ kheo, hãy lên đường thuyết pháp vì hạnh phúc, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”. Kinh Đại Bổn, Trường Bộ I ) như một việc làm có ý nghĩa để dâng lên Ngài như lời tri ân trong mùa Đản sinh này.

PHÁT TÂM DŨNG MÃNH

          Sự tu hành quan trọng là việc phát tâm,  là sự dẫn đường cho thế gian và xuất thế gian. Bằng không chẳng những  Phật đạo khó thành, mà đường mê khó tránh.

          Hạt giống lấy ruộng đất làm quý, vãi lấy chỉ sợi làm quý, con người lấy quần áo làm quý. Người tu học có ba điều quý : a/ Con người lấy Tăng làm quý.-  b/ Tập thể lấy quy củ làm quý- c/ Triệt ngộ lấy dụng công làm quý. Đối với ba điều này mà chẳng thể dũng mãnh phát tâm. Bằng không thành kẻ u mê ngu muội. Một điều quý báu chẳng được thì làm sao tồn tại lâu dài nơi chốn tòng lâm,

           Việc tu hành không ngoài Đạo và Đức, tránh khổ tìm vui. Phải biết một người dù có làm hết sức mình cũng không dễ gì thực hiện được an vui trọn vẹn, cho mình và cho nhân loại. Vì sao vậy ? vì gốc của sự an vui chẳng ra ngoài  hai con đường Đạo và Đức. Ngoài  đạo đức thì không có biện pháp nào khác. Đạo là lìa sự chống trái của đời. Đức là cảm được người sùng kính tin cậy. Người đủ đạo đức thì đối với người đời bất cứ lúc nào tâm cũng vô trụ (không dính mắc) nên gặp việc gì cũng vui.

          Lại nữa nghèo lấy tiền của làm vui, bệnh hoạn lấy mạnh khỏe làm vui, không con lấy sanh con làm vui,  đắm chìm lấy sự ra khỏi nước làm vui,  bị tù đày lấy việc ra khỏi ngục làm vui,  đói khát lấy no đủ làm vui. Tu học lấy ngộ đạo làm vui, khổ lấy hết khổ làm vui. Đây là nhu cầu con người ở thế gian, thật dễ gì có được cái vui lớn.

          Nếu người được chí chân thường lạc, đối với tất cả thế gian khiến cho bỏ ác làm lành tránh sự xảo trá giết hại, cứu giúp kẻ bệnh nghèo, cúng dường Tam bảo. Đây là khéo tạo niềm vui cho người vậy.

{]{

TỰ TÁNH THANH TỊNH THIỀN

           Thế giới càng văn minh, khoa học càng tiến bộ, đời sống con người càng cao, trí hóa con người càng tăng, do đó, sự học hỏi tìm tòi càng thêm nhiều hiểu biết mới lạ, từ những sự vật hữu hình trên mặt đất đến những hành tinh trong không gian, đều lần lần được khám phá ra và thấy hầu như vũ trụ thật là rộng lớn mênh mông không biết đến đâu là cùng. Vì vậy, khoa học ngày nay mới công nhận và thán phục Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một bậc siêu nhân trên các nhà khoa học. Vì cách đây hơn 2565 năm thuộc đời Trung Cổ, mà Đức Phật với Đạo Nhãn thanh tịnh, Ngài đã nhìn thấy rõ tất cả những sự vật hữu vi nhỏ nhất như vi trùng hay hạt nguyên tử, và những thái dương hệ xa xôi trong vũ trụ, mà Đức Phật gọi là Tam thiên đại thiên thế giới vô cùng vô tận.

          Ngoài những sự vật hữu hình mà khoa học đã nhìn thấy, còn những sự vật vô hình mà khoa học chưa biết được, thì Đức Phật cũng thấy rõ như xem làn chỉ tay trong bàn tay, mà người đời gọi là “ Siêu hình học”. Thí dụ như : hồn ma, bóng quỉ,  chư thần, chư thiên trên các cõi trời v.v… và các vị Xuất thế gian như Thanh văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật v.v… thì khoa học đành bó tay.

          Hơn thế nữa, Đức Phật còn đạt ngộ được bản thể của sự vật, tức là nguyên lý của vũ trụ. Nó không thể dùng mắt thường mà nhìn thấy được, không thể dùng lời nói hay văn tự mà chỉ bày được. Nó cũng không thể dùng trí thức thế gian mà tìm hiểu được. Nó không phải Duy Tâm hay Duy Vật của các nhà Triết học và Thần học chủ trương, vì tâm hay vật cũng còn trong vòng tương đối của Tục đế. Còn Bản thể là cái tuyệt đối, nó bao trùm tất cả Pháp Hữu vi hay Vô vi, cũng như bầu hư không bao trùm tất cả thế giới vạn vật. Cái đó mà Cổ Đức gọi là :

          Hữu vật tiên thiên địa, vô hình bổn tịch liêu. Năng vi vạn vật chủ, bất vị tứ thời diêu .

          Và ở trong các bộ Kinh, Đức Phật thường tạm mượn danh từ để gọi nó là Phật Tánh, là Pháp Tánh, là Chơn Như,  Như lai Tạng,  Tự Giác Thánh Trí, Tri Kiến Phật hay Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền v.v….

          Mà cái Diệu Giác Minh Chơn Thể đó không ở đâu xa, lại nằm ngay trong thân chúng ta đây, từ ngàn xưa đến nay không mấy ai tìm thấy được, nên chỉ biết sống theo vọng tâm và cảnh vật sáu trần để phải luân hồi trong sanh tử nhiều kiếp. Đức Phật với lòng Từ Bi, thương xót chúng sanh mê lầm lặn ngụp trong biển Vô Minh nên mới thị hiện ra đời để cứu độ chúng sanh quay về sống với Chơn Tâm Phật Tánh của mình, hầu Mở Mê Khai Ngộ, hết khổ được vui, siêu sanh tử thoát luân hồi  bằng pháp môn Thiền Định. Cổ Đức có nói : “ Con người là tiểu vũ trụ, là tối linh ư vạn vật, nếu biết khai thác con người thật của mình” thì chính mình là chủ nhân ông của vũ trụ càn khôn. Nên có câu :

          Tam giới duy Tâm , Vạn pháp duy Thức

          Đây là pháp môn “ Trực chỉ chơn tâm kiến tánh thành Phật”, tạm gọi tên là Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền ” hoặc gọi “ Thiền Tự Tánh”.

          Muốn tu tập Thiền phải nắm bắt được Đại Cương phần tông chỉ, hầu mong thực hành được miên mật. Khi hiểu được đại cương để thực hành tỏ ngộ rồi thì sẽ nhận rõ được toàn thể. Cũng như người xứ xa đến tìm nhà quen, được người chỉ đường rành rẽ rồi, thì cứ nhắm thẳng hướng mà đi, đến đúng ngôi nhà đó. Khi vào đến nhà thì sẽ thấy rõ hết tất cả những sự vật ở trong ngôi nhà đó.

          Bởi vì : Thiền Tông không lời nói

                   Vắng bặt hết suy tư,

                   Niệm trước không sanh là Tự Tánh

                   Niệm sau chẳng diệt ấy Chơn Như

          Đã nói Thiền Tông không lời nói, mà Tự Tánh vốn sẵn thanh tịnh, thì đâu cần một phương tiện nào để tu mới thành, hay học mới có? Lúc nào cũng trạm nhiên tịch chiếu khắp cả pháp giới vũ trụ. Hễ “Minh Tâm Kiến Tánh ” là tức thời thành Phật, song le không phải người nào cũng có thể kiến Tánh được một cách dễ dàng. Phải là những người thuộc Thượng căn Đại trí mới tỏ ngộ được tánh Bồ Đề, còn hàng Trung căn Hạ trí thì khó có thể nhận được. Bởi vậy, Thiền chia ra nhiều cấp bực : Ước lượng trong 1000 người mộ đạo tu Thiền, may mắn mới có một người “ Đốn ngộ, Đốn tu”, và khoảng chừng 10 người “ Đốn ngộ, Tiệm tu”, kế đó 100 người “ Tiệm ngộ, Đốn tu”, còn lại gần 900 người thuộc Hạ căn ám độn phải “ Tiệm ngộ, Tiệm tu”, mà nếu là hạng  Tiệm ngộ Tiệm tu thì phải cần phương tiện quyền xảo để dẫn dắt, nhưng nếu dùng phương tiện thì dường như làm mất ý nghĩa của Thiền Tự Tánh.

          Thiết nghĩ : Phật pháp bao trùm tất cả muôn pháp

                              Lý Thiền dung thông hết thảy mọi môn,

          Đức Phật với lòng  Đại Bi, thương xót tất cả chúng sanh. Ánh  từ quang của Ngài phổ chiếu khắp nơi, không hạn cuộc riêng người nào hay chốn nào. Cho nên trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật muốn Khi thị chúng sanh ngộ nhập “ Phật Tri Kiến” nên mới phương tiện dùng Ba Thừa. Tuy nói Ba Thừa nhưng quy về Nhất Thừa. Dầu dạy vô lượng pháp môn, chung cuộc cũng trở về pháp môn thanh tịnh.

           Pháp tu “ Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền” này cũng không ngoài mục đích nói trên, là độ khắp mọi căn cơ của quần chúng. Do đó vạn bất đắc dĩ, phải dùng những phương tiện thông thường để dẫn dắt hàng Trung căn, Hạ căn.

          Như người có mắt sáng, sáu căn đầy đủ, biết rõ đường đi thông thạo, thì chỉ cần cho họ số nhà và tên đường thì họ sẽ đi tới nơi tới chốn, khỏi cần ai dẫn dắt. Còn có người khác cũng có mắt sáng và sáu căn đầy đủ, nhưng chưa biết đường đi, thì phải cho họ tấm bản đồ để họ y theo đó mà tìm đến nơi muốn kiếm. Lại có người lữ hành không biết đường đi mà cũng không biết chữ, không biết coi bản đồ, thì cần phải đi theo người hướng dẫn suốt cuộc hành trình, nếu tách ra thì sẽ bị lạc đường ngay.

          Từ Vũng Tàu về Sài Gòn, đi có nhiều phương tiện khác nhau nên thời gian có mau có chậm. Đi bộ, đi xe, đi tàu, xe có xe chạy nhanh chạy chậm và còn sự liên quan nhanh nhẹn khéo léo của tài xế nữa, mà xe đến nhanh hay đến chậm.  Riêng người đi bộ phải tốn ba bốn ngày, còn người đi xe thì vài ba tiếng thì đến chỗ. Như vậy chậm hay mau là do có phương tiện tốt xấu khác nhau.

          Đối với người tu hành cũng vậy ! Có người Đốn ngộ Đốn tu,  có người Đốn ngộ Tiệm tu, có người Tiệm ngộ Đốn tu, lại có người Tiệm ngộ Tiệm tu. Nhưng giáo pháp không có Đốn, Tiệm mà Đốn Tiệm là do căn cơ của mỗi người tu.

          Pháp tu Thiền Tự Tánh này cũng tùy duyên mà nói Đốn, Tiệm, Phương tiện hay Trực chỉ nhiều cách, nhưng mục đích tối hậu là nhắm thẳng vào Tự Tánh Thanh Tịnh mà thể nhập. Như vậy, Đốn Tiệm, chậm mau, trước sau cũng về đến Bảo Sở chứ không tạm dừng ở Hóa Thành. Do đó, dù có hạ thấp pháp tu cho xứng hợp với mọi căn cơ mà tinh thần  Thiền Tự Tánh vẫn không thay đổi hay sai lạc chút nào. Nội dung bài này chú trọng  phần thực hành hơn là lý thuyết nên không giảng nhiều, hoặc có điều gì sơ sót mong quý vị Cao Đức từ bi chỉ giáo thêm.

                                      Quý Xuân năm Giáp Tý  1984

                                       Thích Minh Chánh

            (      Trích : Lời nói đầu của Tập Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền )

 

          Qua bài Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền, ta thấy tu Thiền để đạt được Chơn Tâm Phật Tánh không phải dễ. Đối với hàng Thượng căn Đại trí thì có rất ít, còn lại hạng Trung căn Hạ trí thì nhiều. Hạng này phải có người hướng dẫn, phải dùng phương tiện thì mới đi đến nơi đến chốn.  Đó là cái khó khăn thứ nhất, đến khó khăn thứ hai là Thiền trong Phật giáo lại có Phật Thiền : gồm có Đại Thừa Thiền, Tiểu Thừa Thiền và Tổ Sư Thiền.  Ngoài Thiền của Phật giáo lại có Ngoại đạo Thiền, Phàm phu Thiền. Rồi Tiên Thiền, Địa Tiên Thiền,  Thiên Tiên Thiền,  Thiên Tiên Tứ Thiền Bất Định, Thần Thiền, Quỷ Thiền, Thiên Ma Thiền,  Thiêng Liêng Thiền, Thiền Xuất hồn, Thiền Pha Kia (Phù Thủy ).

          Thiền của Phật  chia làm ba bực : Tiểu Thừa Thiền,  Đại Thừa Thiền, Tối Thượng Thừa Thiền, sau này có Tổ Sư Thiền . Như vậy con đường Thiền rất đa dạng, rất nhiều căn cơ. Người tu phải biết mình thuộc căn cơ nào tu pháp nào mới  đúng không thì bị lạc đường. Làm sao để biết mình thuộc căn cơ nào và hợp với pháp nào cũng khó, và tìm cho được vị minh sư hướng dẫn mình đi đúng con đường lại khó hơn. Trong khi đó con đường Thiền của Ngoại đạo và Phàm phu lại quá nhiều, nếu người tu không có Thầy dẫn đường không có phương pháp tu thì khó mà đến tận nơi tận chốn, và sai đường lạc lối là điều khó khăn vô cùng với hạng Trung căn và Hạ căn.

{]{

                   ĐẠI CƯƠNG PHÁP TU THIỀN TỰ TÀNH

Mở đề : Từ xưa đến nay, Thiền là một danh từ rất hấp dẫn khiến cho hầu hết các Phật tử đều hâm mộ, thậm chí có những người ngoài đời chưa biết quy y Tam Bảo mà cũng ưa thích và tìm tòi học hỏi.

          Nhưng Thiền cũng là một danh từ mà nhiều người dễ lầm lạc hơn các pháp môn khác, nhất là mấy năm gần đây có rất nhiều phái tung ra những pháp tu Thiền, Chánh, Tà lẫn lộn, làm cho người học Đạo phải hoang mang. Có một số người vì quá nhiệt tâm hâm mộ, nghe đâu tin đó, nên bị lạc vào Tà Thiền. Kết quả đâu không thấy, chỉ thấy bịnh hoạn hay điên cuồng, làm cho một số người khác phải e dè chùn bước.

          Vậy chúng ta thử tìm xem nguồn gốc của Thiền Tông  ra sao ?  và do đâu mà có ?

          Ngược dòng thời gian cách nay 2500 năm, Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia học đạo, trong mười một năm trường đủ các pháp môn, sau cùng Ngài Tọa Thiền Đại Định dưới gốc cây Bồ Đề suốt 49 ngày đêm như như bất động, chiến thắng được nội ma, ngoại chướng, thân tâm hoàn toàn thanh tịnh nên chứng quả Bồ Đề, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.

          Sau khi thành đạo Đức Phật đã Chuyển Pháp Luân giáo hóa khắp nơi. Đến khi gần nhập Niết Bàn, thì Đức Phật trao Chánh Pháp Nhãn Tạng bằng pháp “ Thiền Trực chỉ” cho Ngài Ma Ha Ca Diếp. Từ đó về sau, Tổ Tổ tương truyền, Sư Sư tương ấn, từ đời này qua đời khác, từ nước này sang nước kia. Cho đến ngày nay, truyền thống Thiền tông vẫn còn lưu thông hưng thịnh trên thế giới, mà dân tộc Việt Nam chúng ta cũng hân hạnh được hấp thụ phần nào  giáo pháp  sâu mầu của Đức Phật. Như đoạn trước đã nói, trên thế giới ngày nay đã xuất hiện rất nhiều loại Thiền làm hoa mắt những người học đạo, không biết đâu mà chọn lọc cho đúng. Và ngoại đạo tà giáo thấy quần chúng ham thích tu Thiền, nên lạm dụng danh từ Thiền để lôi cuốn những người nhẹ dạ dễ tin.

          Tính chung gồm các loại Thiền như sau :

1/ Phàm phu Thiền- 2/ Ngoại đạo Thiền – 3/  Phật Thiền .

( Phật Thiền chia làm ba bực : Tiểu thừa Thiền, Đại thừa Thiền và Tối Thượng thừa Thiền ).

PHÀM PHU THIỀN :

          Những người ngoài đời chấp thân này là thật, tâm là thật, cảnh vật là thật, rồi ham thích sống trong cõi này để hưởng thụ ngũ dục sung sướng ( sống lâu, mạnh khỏe v.v... ) nên tìm học những pháp Thiền đáp ứng được nhu cầu sở nguyện của họ như : Thiền Dưỡng sinh, Thiền Yoga, Thiền Thái cực, Thiền nội công, Thiền cội nguồn, Thiền nhân điện v.v. .. Các pháp môn này có thể làm cho họ được mạnh khỏe, sống lâu, nhưng tam độc tham, sân , si, thập ác, bát tà vẫn còn, nên càng mạnh khỏe thì lòng tham dục càng tăng, càng sống lâu thì sự nghiệp càng lắm, quả báo càng nhiều, khổ não càng thêm , chứ không được an lạc giải thoát, nên gọi là phàm phu Thiền.

NGOẠI ĐẠO THIỀN :

          Là những pháp tu của ngoại đạo tà giáo, tu tập cho có thần thông biến hóa, pháp thuật, tiên tri hay trường xuân bất lão v.v…Thí dụ như : Tiên Thiền, Thần Thiền, Quỷ Thiền, Thiêng Liêng Thiền v.v…

          Tiên Thiền : Gồm có ba loại : Địa Tiên Thiền, Thiên Tiên Thiền và Thiền Tiên Tứ Thiền Bất Định.

          _ Địa Tiên Thiền :  Những người còn chấp ngã, nhưng vì ngán ngẫm cuộc đời này phồn hoa ô trược nên vào trong núi sâu rừng thẳm tu luyện, hút khí trời cho được trường xuân bất lão, luyện phép thần thông, nói thiên cơ, chế thuốc linh đơn để cứu nhân độ thế, hoặc ngâm thơ vịnh phú sống an nhàn ngoài vòng thế sự. Tuy có an nhàn nhưng mãn số cũng vẫn phải luân hồi, vì còn chấp ngã, chấp pháp là thật có và thường còn.

          - Thiên Tiên Thiền : Tu pháp này thường nhịn ăn, khổ hạnh, bế lục căn, dứt lục trần, hành Thiền theo tứ thời Tý, Ngọ Mẹo, Dậu, trường trai, tịnh dục, bá nhựt trúc cơ, hành thập thiện v.v... để sau khi mạng chung được thành Tiên sanh về cõi Trời lục dục, hưởng phước trên Thiên đường.

          - Thiền Tiên Tứ Thiền Bất Định :  Người tu pháp này mặc dầu sức Định rất sâu, được sanh về cõi Trời Sắc giới và Vô sắc giới, nhưng vì Kiến hoặc và Tư hoặc vi tế vẫn còn, nên khi hưởng hết phước rồi cũng phải luân hồi trở lại trong ba cõi, hoặc hành Thiền Diệt Tưởng Định, ngồi trơ trơ như cây khô đá cứng hàng trăm hàng ngàn năm, nhưng cũng không giải thoát được vì còn vi tế niệm.

          Thần Thiền :  Hạng người này cũng tinh tấn tu hành đắc định, nhưng vì không giữ giới, còn ăn thịt uống rượu, nên tuy có thần thông nhưng không được giải thoát, sau khi họ mạng chung thì họ được thành Thần ( như A Tu La, Dược Doa v.v…) Họ đi lại trong không gian hưởng đồ cúng tế, nếu là Thiện Thần thì ủng hộ người hiền lương, còn là Ác Thần thì hay đi bắt phá người ta, ủng hộ kẻ ác.

          Quỷ Thiền :  Hạng người tu tập theo pháp thuật của tà ma quỷ quái, như luyện thai bào, luyện thiên linh cái, sái đậu thành binh, vẽ bùa nuôi ngải để hại người, họ cũng công phu tu luyện lắm, nhưng với tâm địa tham lam ác độc nên gọi là Quỷ Thiền.

          - Thiên Ma Thiền  :  Hạng người này cũng có công hành Thiền được thần thông vô ngại, nhưng còn ham mê dâm dục nên không được giải thoát, nếu tu cao chỉ thành thiên ma ở cõi Trời Dục giới, tu thấp chỉ thành ma dân, thấp hơn nữa thành ma nữ.

          -Thiêng Liêng Thiền : Hạng này hành Thiền vào lúc đêm khuya thanh vắng để cầu tiếp điển khí thiêng liêng của bề trên đưa xuống, để khai quang điểm nhãn cho họ, hoặc thiêng liêng nhập vào xác họ tự xưng là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân,  hay Đức Tôn Sư, hay Bà Chúa Tiên, Chúa Xứ, Đức Phật Mẫu, Đức Di Lặc, Đức Quan Âm v.v… để giảng kinh nói pháp cho người nghe. Danh từ thiêng liêng rất trừu tượng, vì không ai biết chắc điển linh nhập vào đó là ai, vì tà ma quỷ quái cũng có thể nhập vào tự xưng ông nầy bà nọ, nếu mình quá tin vào thiêng liêng bên ngoài, sẽ bị họ gạt và dẫn dắt mình vào đường tà làm việc phi pháp để bị sa đọa.

          - Thiền Xuất Hồn : Hạng người này nhận biết thân tứ đại là vô thường, là bất tịnh, vô ngã hư giả, ngoài thân này còn có một linh hồn bất diệt, cái linh hồn là cái có cảm nghĩ hiểu biết, mà cái hình tướng vô hình của linh hồn nó nhẹ và trông như làn sương hơi khói, họ dùng phương pháp soi hồn và chuyển luân xa để tập trung thần hồn lên đỉnh đầu rồi mở Huyền Quang Khiếu để đưa thần hồn ra khỏi xác, hoặc bay lên hư không đi dạo chơi nơi nầy nơi nọ, hoặc bay lên cảnh tiên, cảnh trời để tầm Sư học Đạo, hoặc lên chầu Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế để được Ngọc Hoàng Thượng Đế phong cho chức nọ chức kia v.v…họ gọi phái nầy là phái Thiền Xuất Hồn, hay có tên là pháp Vô Vi chuyên uống nước nhịn ăn để luyện Thánh thai, sau này sẽ được về cõi Trời. Nhưng thực phái này tuy nói không chấp thân là Sắc uẩn, mà vẫn chấp chặt bốn uẩn kia là Thọ, Tưởng, Hành, Thức thành ra cái linh hồn, thì đó cũng là cái Ngã tướng ở ngoài Sắc thân. Họ vẫn còn vọng tưởng điên đảo, ham muốn cảnh này cảnh kia v.v…Phần đông, người tu theo pháp này thường bị bịnh, nếu nhẹ thì nhức đầu mất ngủ, nặng thì điên loạn mê cuồng, vì họ vận dụng hỏa khí xông lên đầu căng thẳng quá làm rối loạn các dây thần kinh trong óc.

          - Thiền Pha Kia ( Phù Thủy )  : Lối Thiền này của các ông Phù Thủy, lối tu này rất lạ lùng, hành hạ xác thân đến mức cùng cực, như ở trần phơi mình giữa nắng, hay trầm mình dưới nước, nhịn ăn nhịn thở, trồng chuối ngược, ngồi trên bàn chông, nuốt lửa, nhai miểng chai, giả chết trong mấy mươi ngày v.v…làm như vậy dạng biểu diễn cho người ta xem để được tiếng khen và lợi dưỡng v.v...

           Ngoài ra, còn hạng người tuy quy y hay xuất gia tu Phật mà không y theo lời Phật dạy, lại vọng cầu mong Phật ở đâu bên ngoài ban cho cái gì để đắc đạo, không chịu quán lại tâm mình, tìm lại Phật tánh của chính mình, thì hạng người này cũng bị Phật quở là ngoại đạo.

          Trên đây là kể sơ lược một vài phái Thiền của ngoại đạo và phàm phu, chứ thật ra trên thế gian này có rất nhiều phái ngoại đạo mượn danh từ Thiền để lừa mị người ta, một khi đã lỡ tin theo họ rồi thì khó quay đầu trở lại lắm. Do đó phải cẩn thận khi chọn pháp môn tu. Sở dĩ phải nói rõ về Thiền của phàm phu và ngoại đạo để cho Phật tử nhận thức đúng đắn các pháp Thiền của Phật và ngoại đạo khác nhau thế nào đặng khỏi lầm lạc, cùng như trước khi muốn biết vàng thiệt như thế nào thì phải hiểu rõ vàng giả hình sắc ra sao thì mới nhận diện  đúng được, chớ không có ý chỉ trích hay chê bai  pháp tu của người khác.

          Phật Thiền : Thiền của đạo Phật chia làm ba bực : Tiểu Thừa Thiền, Đại Thừa Thiền và Tối Thượng Thừa Thiền.

          Tiểu Thừa Thiền :  Là pháp tu cho những người có chí cầu giải thoát mà tâm thích trầm lặng yên tĩnh, ưa nơi vắng vẻ để tu sửa cho thân tâm được thanh tịnh v.v… Như Tu Pháp Ngũ Đình Tâm Quán, Tứ Niệm Xứ, Bát Chánh Đạo,  Thập Nhị Nhân Duyên v.v... để phá trừ Ngã chấp, Kiến chấp. Đây cũng gọi là Thiền Đối Trị, cũng như người đau tùy bịnh mà uống thuốc cho hết, mạnh rồi thì thôi. Cũng gọi Thiền trong cảnh Tịnh, vì tu pháp môn này thường tránh cảnh đông người, xa nơi ồn ào để dễ bề tu tập, khi đắc quả rồi thì dứt phiền não chướng, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. Quả vị pháp tu này là các bậc Thánh: Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A Na Hàm, A la hán, Bích chi Phật, an trụ trong cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh.

- Đại Thừa Thiền :  Pháp tu này để cho những người có căn cơ cao, thích hoạt động, có lòng từ bi thương xót chúng sanh, thường lăn lộn trong cảnh đời, chung sống trong xã hội mà tâm hồn luôn luôn an tịnh: “ Cư trần bất nhiễm trần” là hạnh nguyên của Bồ Tát.

          Pháp tu của Thiền Đại Thừa là dùng trí Bát Nhã quán chiếu các pháp Ngũ uẩn Giai Không, là hư huyễn mộng ảo, phá trừ được Pháp chấp và Tứ tướng, dứt được Vô minh hoặc chướng và Trần sa hoặc chướng,  phổ độ chúng sanh đồng thành Phật đạo.

          Phương pháp hành Thiền này là y vào các kinh Kim Cương, Lăng Nghiêm, Viên Giác v.v…mà quán Tứ cú kệ, Nhứt tâm tam quán, Lục độ, Thập độ v.v…không chấp nhị biên, không thiên vô hữu.

          Hành Thiền pháp Đại Thừa là Định trong cảnh Động, lấy cảnh trần lao làm môi trường để tu hành và hóa độ chúng sanh. Chỗ giải thoát của hàng Đại Thừa Thiền là Vô trụ xứ Niết Bàn, lên đến Thập địa Bồ Tát thì phá được một phần Vô minh, chứng được một phần Pháp thân, cho đến khi viên mãn thành bực Diệu Giác tức Phật.

          Tối Thượng Thừa Thiền : Là pháp tu đặc biệt dành cho hàng thượng căn thượng trí, khỏi dùng phương tiện, giáo ngoại biệt truyền, không dùng văn tự dài dòng mà “ Trực chỉ nhơn tâm kiến tánh thành Phật” ( chỉ thẳng nơi tâm người, thấy tánh thành Phật ).

          Người đại trí không cần giảng dạy nhiều, chỉ cần nói qua một câu, một bài kệ, hoặc một cử chỉ, một hành động làm khai thị được tánh giác của họ thì họ tỏ ngộ ngay, bao nhiêu nghiệp hoặc, phiền não, chấp trước lâu đời, nay chỉ trong một phút là tiêu tan hết, tâm quang sáng suốt, định tánh hiển bày, cũng như khi mây tan gió tạnh thì ánh mặt trời chiếu sáng giữa hư không.

          Pháp môn này còn có tên như : Thiền Đốn Ngộ, Thiền Như Lai, Thiền Tự Tánh, hay Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền.

          Ngoài năm loại Thiền là Phàm phu Thiền,  Tiểu Thừa, Đại Thừa và Tối Thượng Thừa Thiền, còn có loại Thiền Tham công án, Thiền Quán thoại đầu, do chư Tổ sau này sáng lập ra, để chỉ cho hàng môn đệ nhứt tâm chuyên chú vào một câu thoại đầu để tâm không tán loạn, cho đến khi nào trực ngộ được bản tâm là đắc pháp. Pháp tu này chỉ thích hợp với số người  có căn cơ như vậy mà thôi, nên nơi đây không đề cập đến nhiều.

          Mục đích của bài này là giới thiệu cùng quý vị pháp tu Thiền Tự Tánh, mà nói cho đủ là Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền, là pháp tu thẳng tắt Nhứt thừa đốn giáo, là lối tu Thiền sống động trong tất cả các thời, không chia thời khóa, không phân biệt tăng tục, nam nữ, già trẻ …

( Thích Minh Chánh  )

{]{

ĐỊNH NGHĨA THIỀN TỰ TÁNH

          Thiền nói cho đủ là Thiền Na của tiếng Phạn DHYANA, có nghĩa là Định Huệ Đẳng Trì, là Tịnh lự, là Mặc chiếu ( tức là tâm vắng lặng mà trí luôn soi chiếu tỏ rõ ).

          Tự Tánh là bản thể sẵn có của mình từ xưa đến nay và muôn đời về sau không thêm không bớt, không sanh không diệt, bổn lai thanh tịnh và sáng suốt. Tuy yên lặng mà thường chiếu soi, tuy không sanh mà tùy duyên ứng dụng để lợi lạc chúng sanh.

          Điều kiện tiên quyết để cho người học pháp Thiền này là phải nhận rõ được Tự Tánh, hiểu được Bổn Tâm của mình, tức là Minh Tâm Kiến Tánh, thì sự tu mới mau có kết quả.

          Trong Kinh có câu : “ Học đạo chi nhơn bất thức bổn tâm học pháp vô ích. Nhược thức tự bổn tâm, kiến tự bổn tánh, tức danh Trượng phu Thiên Nhơn Sư Phật Thế Tôn”.

          Nghĩa là : Người học đạo mà không biết được bổn tâm vắng lặng của mình và không thấy được tự tánh thanh tịnh của mình thì học đạo vô ích. Nếu người nào nhận rõ được bổn tâm tự tánh của mình rồi, thì người ấy chính là bực đại trượng phu, là Thầy của Trời, Người, và đó là Đức Phật Thế Tôn vậy.

          Lại có câu : “  Vô tâm xuất thế học đạo vô ích

                                 Bất minh tự tánh vấn Thiền vô ích ”.

          Nghĩa là : Người không có lòng mong muốn xuất ly thế gian thì học đạo vô ích, vì Đạo đây là Đạo Giải Thoát, mà mình thì còn luyến ái trần duyên  thì học Đạo làm chi cho mất công. Còn người muốn học Thiền mà không hiểu rõ Tự Tánh là gì thì học Thiền vô ích, vì chỉ loanh quanh ngoài cửa Đạo chứ không được vô trong nhà. Nghĩa là cần phải Kiến Tánh rồi mới Khởi Tu.

          Vậy Tự Tánh ra làm sao mà phải Minh phải Kiến ?

          Đây là bài kệ chỉ rõ hình dáng của Tự Tánh :

          Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền

          Tự tánh sẵn thanh tịnh.

          Tự tánh vốn lặng yên

          Tự tánh không sanh diệt

          Tự tánh chẳng lay động

          Tự tánh không một vật

          Tự tánh thường đầy đủ

          Tự tánh hằng chiếu soi

          Diệu dụng muôn hạnh lành

          Ứng hóa khắp mười phương.

          Người hành Thiền Tự Tánh cần phải thuộc nằm lòng bài kệ nầy và hiểu rõ ý nghĩa của từng câu, từng chữ, thì mới thâm nhập được Tự Tánh Thanh Tịnh.

 Giải nghĩa :  Tự Tánh sẵn Thanh tịnh. : Là chỉ rõ Tánh Giác Bồ Đề của chính mình xưa nay sẵn trong sạch thanh tịnh, không nhiễm không nhơ. Tự tánh là bản thể sẵn có trong muôn loài vạn pháp, ở nơi phàm không bớt, ở nơi Phật không thêm. Nó không hình tướng lại rỗng rang thanh tịnh. Chỉ trực nhận chứ không thể dùng lời nói nào diễn tả cho đúng, cũng không thể dùng sáu căn để tiếp xúc được với nó, nhưng nó lại hằng hiện hữu nơi sáu căn.

- Tự Tánh vốn lặng yên : Là Tự Tánh của mình luôn luôn yên lặng. Dù thời gian có thay đổi, cảnh vật có biến động, mà bản thể tự tánh vốn lặng lẽ, an nhiên  tịch tịnh. 

          - Tự Tánh không sanh diệt : Là các pháp trên thế gian thuộc về hình tướng hữu vi nên có sanh, trụ, dị, diệt vô thường, còn bản thể của các pháp thì vô hình vô tướng, thuộc về vô vi tuyệt đối, chơn thường chơn tịnh, nên Tự Tánh không có sanh diệt thay đổi.

          - Tự Tánh chẳng lay động :  Là Tự Tánh của mình đã vốn lặng yên, bản thể luôn Như Như bất động, thì không có hoàn cảnh nào chi phối nó được, dù cho thời gian có thay đổi, không gian có chuyển dời, nhưng Tự Tánh vẫn an nhiên bất động.

          Trong Pháp Bảo Đàn kinh có bài kệ :

          Lửa kiếp thiêu đáy biển khô khan

          Gió run núi chọi tan nát nghiến

          Ấy tịch diệt chơn thường lạc hiện

          Thế mới là thật diện Niết Bàn…

          - Tứ Tánh không một vật :  Là trong bản thể tự tánh của mình nó rỗng rang như hư không bao trùm cả pháp giới mà nó không dính mắc một vật gì cả. Sở dĩ chúng sanh bị mê lầm chấp trước nên bị Mạt na thức làm chủ, rồi chứa chất việc này việc kia làm phiền não khổ đau, chớ khi giác ngộ rồi trở về sống với tự tánh thanh tịnh thì đâu còn chấp một vật gì.

          - Tự Tánh thường đầy đủ : Là tuy tự tánh không có một vật, nhưng không phải là ngoan không, rỗng không như ngoại đạo lầm chấp, mà là cái Chơn không Tự Tánh bao hàm bản thể của muôn vật, khi vô sự thì lặng yên bất động, đến khi hữu sự thì tùy duyên ứng hiện không thiếu món chi, nên gọi là “ Chơn không mà diệu hữu ”. Cũng như trong bầu hư không trống rỗng, mắt thường chúng ta nhìn lên không thấy vật gì cả, nhưng sự thật trong không gian có đầy đủ bản thể của bảy Đại là đất, nước, gió, lửa, không, thức, giới. Khi có đủ nhơn duyên hội họp thì nó hiện ra thế giới, núi, sông , muôn loài vạn vật. Trong Tự Tánh của chúng ta khi một niệm khởi lên có đủ 5 Uẩn, mà 5 Uẩn đó là cơ cấu tạo thành muôn sự vật.

          - Tự Tánh hằng chiếu  soi :  Trong Tự Tánh của chúng ta nó trong lặng  tròn sáng mà thường chiếu, nó thấy biết hết tất cả nguyên lý của vũ trụ vạn vật, chánh kiến chánh trí, nên gọi là Tánh Giác Bồ Đề, nhưng vì từ bấy lâu nay mình bị mê lầm, chấp trước theo Mạt na thức mà chỉ thấy đảo kiến, tà kiến, nên mới trôi lăn trong sanh tử luân hồi.

          Diệu dụng muôn hạnh lành :  Là đến khi tỏ ngộ rồi, tự giành lại được quyền làm chủ thì Trí Bát Nhã thường hiện tiền, chiếu soi chúng sanh đau khổ lầm than liền tùy duyên ứng hóa diệu dụng muôn hạnh lành để cứu độ chúng sanh.

          - Ứng hóa khắp mười phương :

          Là khi đã thể nhập với Tự Tánh, làm chủ được thân tâm, tự mình giác ngộ giải thoát với chơn trí hiện tiền, nhưng đối với chúng sanh còn trầm luân khổ hải, không thể điềm nhiên tọa thị, nên khởi lòng đại bi cứu độ, phát ra Hậu Đắc Trí diệu dụng muôn hạnh lành từ nơi Tự Tánh, mà ứng hiện giáo hóa khắp mười phương ba cõi, khiến cho tất cả đều được lợi ích an vui giải thoát.

          Cũng như điện lực trong không gian, tuy vô hình vô tướng mà có sức diệu dụng vạn năng, nếu biết khai thác thì sẽ ứng dụng được muôn ngàn sự việc lợi ích cho nhân loại. Nhưng đâu phải người tầm thường nào cũng biết khai thác năng lượng của điện, mà phải là những nhà khoa học, bác học đã nhiều năm nghiên cứu tìm tòi học hỏi mới biết mà đem ra sử dụng được.

          Chúng ta cũng vậy, muốn ngộ nhập được với Tánh Giác Bồ Đề thì phải nhờ có Minh sư khai thị và phải công phu tu hành miên mật một thời gian nào đó mới Kiến Tánh Minh Tâm mà trở về sống với Tự Tánh thanh tịnh của mình và làm lợi ích cho chúng sanh.

          Tóm lại, Tự Tánh chính là Bản Lai Diện Mục, nó hằng hiện hữu nơi sáu căn, chẳng phải đợi tu mới có, đợi cầu mới chứng, chỉ vì mê tánh giác nên không thấy được Tánh Giác của mình, nó là cái hằng hiện thực sống và đầy đủ công đức, nên trong kinh Phật nói: “ Tất cả các ông đã là Phật nhưng vì mê tánh giác mà có sanh tử, có chúng sanh, chứ thật các pháp bổn lai thanh tịnh, không hề cấu nhiễm trần lao ”.

          Xưa nay, chúng ta tu mà không Ngộ Tánh, là vì sống với Tánh mà không hay, mê theo Thức mà chẳng biết nên dù có tu lâu, học nhiều, phước lớn, cũng không ra khỏi vòng chi phối của tâm thức, cho nên tu hoài mà cứ còn kẹt trong sanh tử luân hồi. Bởi Tâm thức là Vọng, dùng Vọng tu Vọng sẽ chứng Vọng.

          Trong Kinh có câu : “ Dùng tâm Luân Hồi mà tu Viên Giác thì Viên Giác cũng thành Luân Hồi ”.

          Vậy chúng ta tìm hiểu Tâm thức là gì ?

          Là tâm khi đối cảnh, cái Tâm ấy bị duyên theo cảnh, cái Thấy và Nghe không thu nhiếp lại. Ý phân biệt chạy theo Cảnh gọi là Ý thức. Nó chấp ngã gọi là Mạt Na Thức. Khi Ý căn chấp ngã Duyên theo cảnh gọi là Tâm thức, rồi mỗi hành vi cử động tiếp nối nhau dưới sự điều khiển của Tâm thức, đây là Nhân đưa đến Luân hồi sanh tử.

          - Còn Tánh giác là gì ?

          - Là Tâm khi đối cảnh,  cái tâm ấy liễu tri và lặng lẽ. Cái Thấy và cái Nghe thu nhiếp nhau. Ý không chạy theo Cảnh nên gọi là sống với Tánh Giác, nó không còn chấp ngã nên gọi là chơn tâm, là ông chủ, đối cảnh mà liễu liễu thường tri thì gọi là thể nhập với Phật tánh và mỗi hành động oai nghi đều nối tiếp nhau, ấy là diệu dụng của tự tánh. Cho nên, cũng một hành động từ sáu căn mà gọi là sống với Tâm thức. Và cũng một hành động từ sáu căn mà gọi là sống với Tánh Giác. Chúng ta sống ở trong vòng chi phối của luân hồi phải có phương pháp để thoát và phải hết sức khéo léo.

          Muốn thoát khỏi bánh xe luân hồi đang quay vùn vụt thì phải có sức mạnh của Thiền định để vượt khỏi sức hút của nghiệp thức, rồi phải có Trí Bát Nhã để soi thấu vạn pháp Giai Không mà diệu hữu, thì mới không rơi vào tâm thức khi tu hành.

          Lại còn phải có giới luật của Tự tánh để hộ thân tâm, thì sáu Căn tiếp xúc sáu Trần không bị ngoại cảnh khảo đảo chi phối, cũng như con người muốn bay ra ngoài không gian thì phi hành gia đó phải có chiếc hỏa tiễn có sức đẩy thật mạnh gấp mấy lần sức hút của trái đất, thì mới phóng được phi thuyền vượt qua khỏi bầu khí quyển của trái đất, nếu hỏa tiễn không có sức mạnh hơn sức hút của trái đất thì phi thuyền đó sẽ bị hút rơi trở lại địa cầu. Lại phải có lớp vỏ cứng chắc để bảo vệ phi thuyền khi bị đốt cháy khi cọ xát với bầu khí quyển, cùng với những máy móc tinh vi điều khiển đúng hướng đúng độ thì mới không bay lạc ra ngoài quỷ đạo.

Tóm lại, diệu dụng của pháp Thiền Tự Tánh là giúp chúng ta tu hành thoát khỏi tâm chi phối của tâm thức và nghiệp lực để đến đạo Bồ Đề Vô Thượng, rồi khởi tâm Đại bi phát ra muôn hạnh lành từ tự tánh để diệu dụng hóa độ muôn loài chúng sanh.

          Tu pháp này không phải tìm tu trong hoàn cảnh tịnh hay cảnh động mà là tu trong tất cả mọi môi trường, nhất là ngay trong cảnh phiền não tu mà thấy Bồ Đề, ngay trong sanh tử mà có Niết Bàn chứ không phải tìm đâu xa, nên trong Kinh gọi là :

          Phiền não tức Bồ Đề

          Sanh tử tức Niết Bàn

          Vọng tưởng là Chơn Như

          Chúng sanh đồng chư Phật

          Dục trừ phiền não trùng tăng binh

          Thủ hưởng chơn như tổng thị tà

          Nếu chúng ta biết trực nhận được Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền nơi chính mình, thì ngay cảnh Ta bà này là Cực Lạc Tịnh độ vậy, do đó chúng ta phải y theo Tự tánh khởi tu, toàn tu tự tánh, tự tánh mê là phiền não, tự tánh giác là Bồ đề.

                                                 Minh Chánh

{]{

BÀI KỆ HÀNH THIỀN

          Thiền là Tỉnh thức  -  Thiền là thức tỉnh -  Thiền là tỏ rõ

          Thiền là  soi sáng –Thiền là an nhiên -  Thiền là điềm đạm- Thiền là bình tỉnh-  Thiền là hòa hưởn - Thiền là nhẹ nhàng  - Thiền là cẩn thận -   Thiền là vén khéo -  Thiền là sạch sẻ - Thiền là tế nhị - Thiền là kỹ lưỡng  - Thiền là không vọng tưởng - Thiền là chẳng hôn trầm - Thiền là không rối loạn - Thiền là không chấp trước - Thiền là chẳng lo âu -  Thiền là không sợ hãi - Thiền là không thủ xã- Thiền cả ngày đêm – Thiền không phân giờ- Thiền ở sáu căn – Thiền ngay đôi mắt – Thiền chính lỗ tai – Thiền trong lỗ mũi - Thiền nơi cửa miệng - Thiền tại ý căn - Thiền cả thân mình - Thiền lúc tụng kinh - Thiền khi niệm Phật - Thiền tọa kiết già - Thiền khi đi đứng - Thiền lúc nằm ngồi - Thiền giữa bữa ăn - Thiền khi tiếp chuyện  - Thiền  nơi làm việc - Thiền trong giấc ngủ - Thiền làm chủ được thân - Thiền làm chủ được tâm - Thiền làm chủ ngoại cảnh - Thiền không chấp tà kiến -  Thiền không nhiễm sáu trần - Thiền không lầm nhân quả - Thiền thung dung tự tại  - Thiền giải thoát vô ngại.

           Giải thích : 

Thiền là tỉnh thức : Tự Tánh bổn lai vốn thanh tịnh, trong lặng, tròn sáng và thường chiếu, thì người Hành Thiền đứng về mặt  Tự Tánh để Khởi Tu là luôn luôn hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề, lúc nào cũng tỉnh giác sáng suốt không mê mờ, dù trong cảnh tịnh, cảnh động, cảnh vui, cảnh buồn… tâm mình vẫn tỉnh tỉnh lặng lặng, không duyên theo cảnh là Thức, không nhiễm theo trần là Tỉnh, luôn luôn làm chủ lấy mình trước. Mọi tình huống , không để cho Sắc trần lôi cuốn hay Thinh trần lừa gạt. Như vậy gọi là Đốn ngộ Đốn tu, theo pháp Thiền Tự Tánh. Đối với người Đốn ngộ  một khi nghe được sự khai thị của Minh sư hay bậc Thiện tri thức rồi, thì trực ngộ được Bổn tâm, bao nhiêu Kiến Hoặc, Tư hoặc thành kiến, cố chấp chất chứa trong lòng đều tiêu tan hết, bao nhiêu nghiệp chướng phiền não đều tan rã như sương tan, mây tạnh, chỉ còn lại bầu trời xanh thẳm với mặt nhật sáng lòa, tức là màn Vô Minh dẹp sạch thì còn lại Chơn Tâm thanh tịnh và Trí huệ sáng soi. Đó gọi là Đốn tu.

- Thiền là thức tỉnh :  Chúng sanh sống trong cõi đời bị Ngũ dục lạc và Ngũ cái che lấp Chơn Tánh nên mê man chìm đắm trong sanh tử luân hồi, chẳng khác nào người ngủ mê nằm mơ trong cảnh chiêm bao buồn vui lẫn lộn. Bây giờ, Hành Thiền Tự Tánh là để đánh thức mình tỉnh dậy đặng sống với cái Tánh Giác Bồ Đề, không còn mê muội trong cảnh đại mộng của trần lao sanh tử nữa và không còn mê man trong cảnh tiểu mộng của kẻ ham ngủ hôn trầm nữa. Như vậy, Thiền là thức tỉnh, tức là người Hành Thiền Tự Tánh có tác dụng đánh thức tỉnh hai hạng người Vô Minh bị mê lầm trong đại mộng và mê mờ trong tiểu mộng.

          Từ câu này về sau thuộc về phần “ Đốn ngộ  Tiệm tu” hay gọi là  “ Kiến Tánh Khởi Tu ”.

- Thiền là tỏ rõ : Người Hành Thiền Tự Tánh thì không còn mê mờ trong đại mộng hay tiểu mộng, không còn hôn trầm trong vô ký, mà luôn sống với Chơn Như Trí, Căn Bản Trí, liễu liễu thường tri,  đối với cảnh không mê tức là tỏ rõ, tỏ rõ với cái niệm hiện tiền chứ không duyên theo tùy niệm phân biệt của Ý thức và suy niệm chấp ngã của Mạt Na Thức .

- Thiền là sáng soi :  Huệ của Tự Tánh hằng sáng soi. Khi cần chiếu soi vật gì hay vấn đề gì,  thì Trí Huệ Bát Nhã chiếu kiến đến tột cùng nguyên thủy, không có cái gì ngăn bít được. Người Hành Thiền Tự Tánh khi đã phá được Ngã chấp và Pháp chấp rồi thì Chơn Như Trí hiện bày, Huệ của Tự Tánh hằng sáng soi. Trí và Huệ này vốn sẵn có trong Tánh Giác, không phải nhờ học mà có hay đợi tu mới đắc. Phàm phu, Thánh hiền, Tiên, Phật đều có đủ như nhau, không thêm không bớt. Chỉ vì phàm phu ngu mê nên bị che lấp, còn Phật Thánh là giác ngộ nên nó hiển bày tỏ rõ sáng soi.

- Thiền là an nhiên :  Tự Tánh sẵn có Trí Huệ Bát Nhã, mà Tự Tánh cũng có sẵn “ Định Lực Tam Muội”. Định lực này không nhờ tu mới có, không nhờ tập mới thành, mà cái Thể của Tự Tánh thì vốn lặng yên, nó không lay động, mà trong Định có Huệ, trong Huệ có Định. Định Huệ đi đôi với nhau ở trong Tự Tánh nên gọi là “ Định Huệ đẳng trì”. Người Hành Thiền Tự Tánh thể nhập với Tánh Giác Bồ Đề thì lúc nào cũng an nhiên trong cảnh Định bất cứ giờ phút nào, lúc thức cũng như lúc ngủ, không phân biệt thời khóa, không xuất không nhập, nên gọi là Đại Định : Thân Tâm lúc nào cũng an tịnh điềm nhiên.

- Thiền là điềm đạm :  Do có Định Lực Tam Muội của Tự Tánh, lúc nào cũng an nhiên tịch tịnh, cho nên gương mặt của người Hành Thiền Tự Tánh lúc nào cũng điềm đạm  tươi tỉnh, không cau có bực dọc hay cười cợt lã lơi.

- Thiền là bình tỉnh : Do Tự Tánh có sẵn Định lực thâm sâu, nên người Hành Thiền Tự Tánh một khi đã thể nhập được vào Tam Muội Chánh Định, thì nó phát ra một sức Nhẫn lực rất vững mạnh. Chính nhờ sức Nhẫn lực này mà hành giả mới chịu được những nghịch cảnh khó khăn bên ngoài, như bị người hủy nhục chê bai, hủy báng, hành hạ, đánh đập đau nhức thân tâm, thế mà vẫn giữ được nét mặt bình tĩnh an nhiên. Có Định lực mới có Nhẫn lực. Có Nhẫn lực mới có bình tĩnh. Có bình tĩnh mới có đủ sáng suốt để ứng phó mọi nghịch cảnh bên ngoài và mọi phiền não bên trong một cách khéo léo.

-  Thiền là hòa hưởn : Đã có được Đức Tánh bình tỉnh, thì phong độ lúc nào cũng hòa hưởn, không vội vã hấp tấp lăng xăng, do đó mà lời nói từ tốn, cử chỉ hành động được chửng chạc nghiêm trang.

- Thiền là nhẹ nhàng :  Người Hành Thiền Tự Tánh có được sự bình tỉnh, điềm đạm và hòa hưởn, thì bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi đều được nhẹ nhàng thanh thoát. Tướng đi nghiêm chỉnh mà nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất. Khi đứng lên hay ngồi xuống cũng nhẹ nhàng không khua động. Khi nằm cũng nhẹ nhàng không lăn trở, dậm đạp hay quay cuồng. Khi làm việc cũng nhẹ nhàng không gây tiếng động.

- Thiền là cẩn thận : Người Hành Thiền Tự Tánh lúc nào cũng nhớ câu :  “ Chế Tâm nhứt xứ, vô sự bất biện” Nghĩa là : Khi làm việc gì chú tâm vào việc đó, thì không một việc làm nào mà không thành công. Do đó, có bình tỉnh, hòa hưởn và nhẹ nhàng thì tâm an trụ một chỗ, nên việc làm được cẩn thận, không cẩu thả dối trá, không hư bể mất mát.

-Thiền là vén léo : Có chú tâm chăm chỉ làm việc cẩn thận thì việc làm đó mới được vén khéo, tinh xảo, đẹp đẽ. Cho nên, người Hành Thiền Tự Tánh một khi đã thể nhập Tánh Giác Bồ Đề thì bất cứ việc làm nào, từ trong chùa ngoài ngỏ, hay trong xưởng ngoài đồng… đều làm được vén khéo tốt đẹp.

- Thiền là sạch sẽ : Tự Tánh vốn sẵn trong sạch. Người Hành Thiền trở về với Tự Tánh thì thân tâm lúc nào giữ được sạch sẽ và những vật y báo chung quanh cũng giữ sạch sẽ, cho đến các việc làm của mình bất cứ chỗ nào cũng thể hiện sự vén khéo sạch sẽ tinh khiết.

- Thiền là tế nhị : Tế nhị có nghĩa là nhỏ nhiệm, ý nhị, sâu sắc bên trong. Người Hành Thiền Tự Tánh chẳng những Thiền trong bốn oai nghi, hành động cử chỉ bên ngoài được nhẹ nhàng cẩn thận, vén khéo, mà còn phải Hành Thiền ngay trong ý  nhị, sâu sắc, để phá trừ những vi tế Vô Minh Hoặc. Muốn đối xử khéo léo với mọi người thì cần phải hành Thiền tế nhị, và muốn tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì cũng phải có tế nhị của Thiền mới thành công. Muốn thành Phật tác Tổ cũng phải Hành Thiền tế nhị .

- Thiền là kỹ lưỡng : Nhờ định lực của Tự Tánh mà có được Nhẫn lực rồi phát huy ra điềm đạm, bình tĩnh, nhẹ nhàng, cẩn thận, vén khéo, và kỹ lưỡng. Trong lúc hành sự thì phải nhẹ nhàng, cẩn thận để không sơ suất, hư bể, thất thoát. Sau khi làm xong việc còn phải kỹ lưỡng xem xét, kiểm tra lại cho thật chu đáo đặng sắp xếp cho có thứ tự ngăn nắp thì mới hoàn thành được công tác một cách mỹ mãn.

- Thiền không vọng tưởng : Trong lúc tu tập còn non yếu thì thường bị giặc giác quán vọng tưởng nổi lên công phá làm tán loạn nội tâm. Cho nên, người Hành Thiền Tự Tánh là phải hằng  sống với Tánh Giác, niệm niệm không xen hở thì vọng tưởng mới không xâm nhập được.

- Thiền chẳng hôn trầm : Khi Tọa Thiền lâu ngày, thân an trụ bớt đau nhức, tâm bớt tán loạn, thì lại gặp con ma hôn trầm nó làm mờ mịt tâm trí, mơ màng như say ngủ hoặc gục tới gục lui không định tỉnh, không làm chủ được mình, đó là vì Định nhiều mà Huệ ít nên dễ bị hôn trầm. Nếu hành đúng theo Thiền Tự Tánh là lúc nào cũng phải tỉnh tỉnh mà lặng lặng bằng nhau, tức là Định Huệ đẳng trì, hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề thì luôn luôn tỉnh thức, và thức tỉnh tỏ rõ sáng soi thì mới làm chủ được thân tâm không bị hôn trầm.

- Thiền không rối loạn : Người đời suốt cả ngày cứ lo tranh danh đoạt lợi để cầu cho vinh thân phì da, hoặc có người vì nghèo nàn túng thiếu, lo buôn bán tảo tần làm ăn vất vả để tạo sinh kế cho gia đình nên tâm hồn không bao giờ được an định, hết lo việc này đến tính chuyện khác, nghĩ nhớ lung tung, hoặc vui hoặc buồn, hoặc mừng hoặc giận, thương ghét…do đó mà tâm bị rối loạn như tơ vò.

          Người tu biết đó là phiền não khổ đau, là nhân quả sinh tử luân hồi, nên mới nương tựa ba ngôi Tam Bảo đặng học hỏi pháp tu cho tâm hết rối loạn.

          Người Hành Thiền Tự Tánh đã biết rõ Tự Tánh vốn không lay động, không sinh diệt, thì làm gì có rối loạn, nên quay về sống với Tự Tánh, tất nhiên tâm lúc nào cũng bình tĩnh sáng suốt. Đây là sức Định của Tự Tánh dù cảnh rối mà tâm không rối. Cho nên Lục Tổ nói :

          Tâm địa không rối là Tánh minh Định

          Tâm địa không si thì Tánh minh Huệ

          Tâm địa không quấy  thì Tánh minh Giác

Thiền không chấp trước :  Đức Phật Thích Ca khi mới thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài dùng Phật nhãn nhìn khắp tất cả chúng sanh đều có đủ Trí Huệ đức tướng như Phật, nhưng chỉ vì chúng sanh bị vọng tưởng chấp trước che mờ Chơn Tánh nên không chứng đắc Phật quả, vì vậy Đức Phật mới dùng các pháp môn phương tiện để khai thị chúng sanh nhận ra được Phật Tánh của chính mình thì mới hết chấp trước vọng tưởng. Người Hành Thiền Tự Tánh đã biết rõ Tự Tánh không một vật, bổn lai thanh tịnh, mà chúng sanh chấp có chấp không chấp phải chấp quấy, chấp nhơn ngã bỉ thử cao thấp, chấp pháp này hay pháp kia dở…nên mới sanh ra rầy rà phiền não. Bây giờ hay biết các sự chấp trước là sai lầm, nên trở về sống với Tánh Giác Bồ Đề là tâm rỗng rang thanh tịnh, không còn chấp trước vướng mắc gì cả thì mới được thanh thoát.

          Kinh Kim Cang, Phật dạy : “ Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” là nói rõ về sự không chấp trước vào chỗ nào thì đó mới thật là Chơn Tâm thanh tịnh.

Thiền không sợ hãi : Trong Kinh Bát Nhã có câu “ Tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn” Nghĩa là :  Chơn Tâm vốn thanh tịnh, không có quái ngại việc gì. Do không quái ngại nên không sợ hãi. Vì không sợ hãi nên mới xa lìa được những điên đảo mộng tưởng, rốt ráo đến cõi Niết Bàn. Người Hành Thiền Tự Tánh thì an trụ trong tánh thể yên lặng, không có cái gì khủng bố mà làm cho mình sợ hãi được, vì đã quán chiếu thấy  “ Ngũ uẩn giai không” tức Ngã và Ngã sở đều không thật thì có chi đâu mà sợ hãi ?

          Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương có câu : Người ta tại ái dục sinh lo, tại lo sinh sợ. Nếu bỏ được ái dục thì không còn lo sợ gì nữa.

Thiền không thủ xả : Tất cả sự vật trên thế gian này đều Duy Thức biến hiện, tùy duyên giả hợp, người mê không rõ được Lý này nên chấp chặt bảo thủ lấy những gì mình ưa thích và buông bỏ những gì mình không chê ghét, nhẫn đến chấp chặt những thành kiến của mình và bác bỏ những ý kiến của người khác. Người Hành Thiền Tự Tánh là hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề, gặp việc gì cần làm lợi ích chúng sanh thì tùy duyên ứng dụng, việc xong rồi thì thôi chứ không chấp thủ cũng không buông xuôi. Việc gì qua rồi thì không tiếc nhớ. Việc gì chưa đến thì không mong cầu. Việc gì hiện tại thì bình tĩnh sáng suốt mà giải quyết, chứ không thủ không xả chi hết.

-Thiền cả ngày đêm:  Người Hành Thiền Tự Tánh thì tâm luôn hằng tỉnh hằng giác bất cứ giờ phút nào, ngày cũng như đêm, khi thức cũng như khi ngủ, không lúc nào phóng tâm xen hở nên gọi là  Chánh Định, Chánh Niệm, là Tam Muội là Tổng Trì .

- Thiền không phân giờ : Đối với các môn tu Thiền khác, thì mỗi ngày phải phân thời khóa để dụng công tu tập. Thí dụ như phân ngày đêm làm bốn thời Tý Ngọ Mẹo Dậu, hoặc trú dạ lục thời v.v... Tới giờ công phu thì nhập định, hết giờ thì xả thiền, như vậy là có nhập có xả. Khi nhập thì tâm định, khi xả thì tâm vọng trở lại. Trái lại, Hành Thiền Tự Tánh là Thiền sống động trong tất cả thời, Thiền cả ngày đêm, nên không phân chia thời khắc. Bất cứ nơi nào, giờ nào, làm bất cứ việc gì tâm cũng an trụ trong cảnh Tự Tánh Thanh Tịnh nên gọi là Đại Thiền Định.

-Thiền ở sáu căn : Phương pháp tu Thiền Tự Tánh rất dễ mà cũng rất khó, vì nó không gò bó trong thời khóa Tọa Thiền hay Tụng Kinh, mà nó hằng Thiền trong tất cả thời, khi tiếp xúc cũng như lúc ngồi nằm, luôn luôn thể nhập với Tự Tánh Thanh Tịnh, không động không nhiễm, không chấp không trước, chính đó là một việc rất khó. Khi mới tu tập, cần phải biết chỗ mấu chót của nó nơi nào mà nắm đúng thì mới có kết quả.

Chỗ mấu chốt của nó là ở sáu căn. Sáu căn thanh tịnh thì phát ra hào quang sáng chói diệu dụng khắp mười phương, lợi lạc chúng sanh trong Tam giới. Còn nếu sáu Căn ô nhiễm thì phát ra hành động xấu ác tạo nghiệp suốt ngày, hại người tổn vật, gieo họa muôn đời.

          Nhưng tu sáu Căn đây không phải là “ Bế Lục căn, ngăn Lục thức, dứt Lục trần của ngoại đạo, mà vẫn khai Lục căn thông Lục thức, nhậm Lục trần. Không cần ngăn chận gì cả, mà chỉ một điều duy nhất là phải làm chủ được Lục căn, chỉ huy được Lục thức, không chiều theo sự xúi dục của nó, mà bắt nó phải tuân phục theo mệnh lệnh của mình  ( là Tự Tánh Bát Nhã ).”

          Như vậy, sáu Căn vẫn tiếp xúc với sáu Trần, sáu Thức, vẫn phân biệt tốt xấu, hay dở, đen đỏ, lạnh nóng, ngon dở, thơm hôi…nhưng vì mình làm chủ được nó ( sáu Thức ) nên không duyên theo nó để sanh tâm khen chê, ưa thích, thương ghét, đắm nhiễm…tức là tuy có phân biệt mà bất tùy phân biệt. Do có phân biệt tỏ rõ mà không khởi vọng chạy theo sự phân biệt để chấp trước đắm nhiễm khen chê, thương ghét, tức là ta đã chuyển Thức thành Trí, chuyển Vọng thành Chơn. Ngoài sáu Thức mà chúng ta dễ nhận thấy, còn có hai Thức nữa nằm tiềm tàng ẩn sau bên trong, đó là Mạt Na Thức và A Lại Da Thức.

          Trong tám Thức này, chỉ có anh Ý thức là khôn ngoan lanh lợi hơn cả. Cũng như một bọn cướp có tám tên, chỉ có một tên đầu đảng là hung dữ và mưu trí hơn hết. Bấy lâu nay mình bỏ quên ông chủ của mình ( Tự Tánh ) để cho bọn cướp tám tên này tự do hoành hành, gây tạo nên vô vàn tội lỗi mà mình không biết, lại còn hưởng ứng với nó nữa. Bây giờ giựt mình thức tỉnh ( giác ngộ ) rồi, mới nhận ra được ông chủ thiệt ( Chơn Tâm ) và cũng nhận rõ được mặt mày của bọn cướp rồi thì ta hãy nhắm ngay tên đầu đảng là Ý thức mà quật hạ nó. Khi nó đã khuất phục mình rồi thì bảy tên kia cũng sẽ tự động quy hàng luôn. Khi đã quật hạ nó quy hàng rồi thì khỏi phải tiêu diệt nó, mà mình bắt nó phải cải tà quy chánh, cải ác hành thiện, chuyển Vọng thành Chơn, chuyển Thức thành Trí, từ đó về sau nó không còn làm mười nghiệp ác nữa, mà luôn luôn chịu dưới sự chỉ huy của Trí Huệ Bát Nhã, tùy theo sự diệu dụng của Tự Tánh mà làm tất cả việc lành để lợi lạc chúng sanh.

          Tuy đường lối lý thuyết thì chỉ bày như vậy, nhưng khi hạ thủ công phu để thực hành thì lúc ban đầu phải dụng công rất nhiều mới có thể nhiếp phục được Ý Thức vì nó lanh lợi vô cùng, nên trong kinh Phật thường ví nó là Tâm Viên Ý Mã, nếu không biết chỗ nhược điểm của nó nơi nào mà nắm cho trúng thì không thể nào bắt được nó cả. Vậy phải tìm hiểu trong sáu căn chỗ nào Ý Thức phát động mạnh nhứt, mình xiết chặt ngay chỗ đó, tất nhiên Ý Thức sẽ mất đi phần lớn tác dụng thì sức nó sẽ yếu đi, sau đó mình mới bắt nó quy hàng được. Cũng như muốn bắt được tên cướp hung dữ thì mình phải khóa hai tay và trói hai chân nó thì nó sẽ hết vùng vẫy nổi. Cũng như đốn cây, trước phải chặt nhánh rồi sau mới đào gốc, chứ nếu để cành lá sum suê mà đào gốc ngang thì nó sẽ ngã xuống đập sập nhà mình.

- Thiền nơi đôi mắt : Trong sáu căn có hai chỗ linh hoạt nhất là cặp mắt và hai lỗ tai. Con mắt có hai tác dụng; Một là thâu vào những hình ảnh cảnh vật bên ngoài, hai là phát lộ ra những tình cảm vui buồn bên trong. Người ta thường nói : “ Con mắt là cửa sổ của tâm hồn ”, bởi vì khi giận, buồn, vui, mừng, lo âu, sợ hãi,  thương ghét, gì cũng đều hiện rõ trên ánh mắt, nếu người tinh ý và có kinh nghiệm nhìn qua là biết ngay, mà tất cả những biểu hiện đó đều do ý thức và ý căn làm chủ động xuất phát.

          Vậy khi ta trở về Tự Tánh Thanh Tịnh để Hành Thiền thì phải chế phục Ý căn và điều chỉnh nhãn căn cho thanh tịnh để nó trở thành Thiền nhãn, phải dụng công lâu ngày từ ba đến năm năm mới thành công. Khi đã thành thục rồi thì khỏi cần dụng công nữa mà lúc nào cặp mắt cũng vẫn điềm đạm, trang nghiêm, ngó ngay, nhìn thẳng, nhìn xuống soi vào nội tâm chớ không liếc xéo, liếc xiên, không trợn mắt, cau mày, không chớp mi nháy mắt… lúc nào cũng hé mở một phần ba, khi tiếp chuyện thì thỉnh thoảng mới mở lớn ra nhìn vào người đối thoại để nghe cho rõ hoặc để giải đáp một điều gì mà thôi, còn khi Tọa

Thiền thì mí mắt mở lớn một phần tư và đứng tròng không nháy mắt thường. Đôi mắt có định thần được là biểu tượng cho tâm định. Nếu tâm động thì mắt nháy, càng vọng động nhiều thì mắt chớp nhiều hoặc liếc ngó lia lịa.

          Lúc chưa biết tu thì mắt tiếp xúc với sắc trần thường phân biệt đẹp xấu rồi khởi tâm ưa thích hay chán ghét. Nay ta làm chủ được Ý thức rồi thì mắt vẫn nhìn ngó phân biệt tốt xấu mà không cho khởi tâm  ưa thích hay chán ghét. Trước kia, hễ kiến nhãn là động tâm. Nay kiến nhãn mà tâm không động vì mình biết sắc trần là giả, là huyễn, không phải thật, nên mình không duyên theo nó, cũng không để cho Ý thức nó gạt mình nữa.  Sắc trần cố trêu ghẹo mà mình vẫn lạnh lùng dửng dưng. Khi tiếp xúc với người, với vật, với cảnh, mình không khởi niệm thứ hai thì tâm không động.

          Khi làm việc, khi đọc sách, khi học hỏi, ăn uống …mình chăm chú nhìn xem cho tỏ rõ tận tường nhưng không khởi niệm ưa ghét. Thấy biết một cách trực giác chớ không cần suy nghĩ tính toán. Nếu mắt ngó mà tâm động thì hay khiến cho tay rờ mó cầm nắm. Hoặc khi cảnh sắc đã qua rồi mà mắt vẫn ngó theo mãi, điều đó chứng tỏ mắt đã nhiễm sắc rồi.

- Thiền chính lỗ tai : Hai lỗ tai là cơ quan thâu nhập âm thanh tiếng động bên ngoài đưa vào cho Ý thức phân biệt, nhận xét tiếng hay dở, phải quấy, khen chê, mắng nhiếc, cười khóc…

          Lỗ tai có nhiều tác dụng mạnh hơn đôi mắt, vì mắt cần có ánh sáng mới thấy được vật, không có gì ngăn che trước mắt mới nhìn thấy được. Còn lỗ tai không cần  ánh sáng, tối hay sáng vẫn nghe rõ, dù cách màng cách vách, cũng vẫn nghe được. Lỗ tai lại nhạy cảm hơn con mắt, trong Kinh Pháp Hoa, Phật có nói : Con mắt có  800 công đức, còn lỗ tai có đến 1.200 công đức, nên biết sử dụng nó vào việc lành thì đem lại rất nhiều lợi ích cho chúng sanh. Khi lỗ tai tiếp xúc với Thanh trần bên ngoài thì sanh ra Nhĩ thức phân biệt, rồi phê phán hay dỡ, ưa ghét mà có nhiều phiền não, sân si..

          Nếu mắt dễ động trước  Sắc trần thì lỗ tai lại càng nhạy cảm hơn đối với Thanh trần. Nếu đó là những tiếng du dương, thánh thót dịu ngọt, thiết tha, thì nó làm cảm động tâm hồn người nghe phải mê mẫn say sưa. Hoặc những tiếng mỉa mai cay đắng, khinh chê, nhục mạ, khiêu khích… có thể làm khích động người nghe phải nổi giận, tức tối, hay buồn rầu lo âu. Một đứa bé mới 5, 7 tháng chưa biết đi biết nói, thấy những hình ảnh màu sắc chưa nhận thức được rõ ràng nên nó không tỏ vẻ ưa thích. Trái lại,  khi nó nghe tiếng đàn tiếng nhạc tấu lên du dương kích thích vào Nhĩ căn của nó khiến tay chân nó cũng kích động theo điệu nhịp nhàng của tiếng nhạc.

          Những thanh niên nam nữ thường hay bị rung cảm bởi những lời ca tiếng nhạc mà sa ngã vào đường trụy lạc, hay dễ bị lừa gạt bằng những lời đường mật nỉ non. Như vậy, nhĩ thức dễ bị Thinh trần gạt gẫm cám dỗ hơn là Nhãn thức.

          Trái lại, Nhĩ thức cũng mau giác ngộ quay về đường lành hơn Nhãn thức nếu gặp được Minh sư hay thiện hữu tri thức giảng dạy chỉ bảo cho những điều đạo đức thanh cao.

          Một người trung niên hay lão niên gần suốt một cuộc đời si mê lầm lạc, chạy theo danh lợi, tình, tiền, nhưng khi nghe được bài kinh tiếng pháp cảnh tỉnh tâm hồn thì họ quay đầu hướng thiện, thậm chí những người đau bịnh nằm liệt trên giường sắp sửa lâm chung mà nếu  nghe qua được lời kinh tiếng kệ,  rồi hồi tâm niệm Phật sám hối thì cũng được vãng sanh về cảnh giới an lành khỏi bị  đọa vào ba đường khổ.

          Người mù mắt mà lỗ tai thông, cho học kinh nghe pháp thì mau thuộc mau nhớ hơn người sáng mắt mà lỗ tai điếc. Như vậy biết rằng lỗ tai linh mẫn hơn con mắt.

          Khi xưa, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cũng dùng pháp tu “ Nhĩ căn  viên thông , phản văn tự tánh” mà được mau thành Đạo quả. Cho nên chúng ta tu Thiền Tự Tánh đây không phải là bịt con mắt, bịt lỗ tai không cho thấy nghe gì hết, mà ngược lại, tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, vẫn hiểu biết rõ ràng những hình sắc, tiếng tăm, âm thanh… nhưng vì mình làm chủ được nó, mình điều khiển được nó, không chạy theo phân biệt vọng tưởng ưa ghét, khen chê… mà hướng nó quay về Tự Tánh thanh tịnh, trong lặng sáng suốt, rồi phát ra diệu dụng cho nó làm tất cả việc lành lợi ích chúng sanh.

          Trong kinh Lăng Nghiêm có câu : “ Kiến sắc phi can sắc,Văn thinh bất thị thinh, Sắc, Thinh vô ngại xứ, Thân đáo Pháp Vương Thành”.

          Nghĩa là :  Mắt thấy sắc tướng mà tâm không phan duyên, không can dự vào sắc tướng. Tai nghe âm thanh mà Tánh nghe biết rõ âm thanh chẳng phải thật, tâm vẫn an nhiên  thanh tịnh, đối với âm thanh sắc tướng không chỗ ngăn ngại thì tự thân đã đến được thành Pháp Vương  ( Phật quả ).

          Kinh Kim Cang có câu : “  Nhược dĩ sắc kiến ngã,  Dĩ âm thanh cầu ngã ;  Thị nhơn hành tà đạo,   Bất năng kiến Như Lai ”.

          Nghĩa là : Nếu người nào dùng hình tướng mà muốn thấy được Ta, hoặc dùng âm thanh mà muốn thấy được Ta, thì người ấy hành Đạo tà, chẳng thể thấy được Phật Pháp Thân.

          Con mắt có thể nhắm hay mở, có thể thu thập hình ảnh bên ngoài vào bên trong mà cũng có thể biểu lộ tình cảm và cũng không đóng bít lỗ tai lại được, nên con mắt dễ chế ngự hơn lỗ tai. Vậy muốn tu nơi lỗ tai tức là muốn điều khiển được lỗ tai phải dùng trí Bát Nhã bắt nó phản văn tự tánh, là xoay tánh nghe trở lại tự tánh. Vì tánh nghe vốn sẵn thanh tịnh mà chỉ vì phân biệt theo thinh trần nên mới sanh ra phiền não nên vui buồn v.v…

Thiền trong lỗ mũi :  Kế đến là tu Tỷ căn,  lỗ mũi có hai tác dụng; Một là để thở, hai là để ngửi.  Khi thở vào đem thanh khí, dưỡng khí vô buồng phổi đặng lọc sạch chất thán khí trong máu, đem dưỡng khí theo máu đi nuôi cơ thể khắp châu thân. Khi thở ra thì tống xả những thán khí dơ xấu ra ngoài, nhờ đó mà con người mới được sống còn, mạnh khỏe ít bịnh.

          Còn khi ăn uống hay thưởng thức món gì, lỗ mũi dùng khứu giác để ngửi mùi rồi phân biệt qua ý thức xem món đó thuộc mùi gì, thơm hay hôi, nồng hay dịu v.v…Sau khi phân biệt mùi gì rồi thì khởi tâm ưa thích hay ghét bỏ v.v.. Nếu món ăn có mùi thơm ngon thì ý thức kích thích bao tử cồn cào đói bụng và cái miệng thì muốn ăn, cái lưỡi thì muốn nếm, khi khởi ý thèm quá thì nước miếng chảy ta thúc giục cái tay bốc ăn, cái chân bước tới chỗ có món ăn. Nếu món ăn có mùi hôi thúi, tanh hắt vào lỗ mũi thì ý thức phân biệt không ưa, khiến tay bịt mũi, chân bước xa, hoặc món gì quá hôi tanh, quá gớm ghê mà không tránh được thì nó cũng khiến cho nôn ụa ra nước dãi, nước mật rất khó chịu.

          Hành Thiền Tự Tánh muốn tu tỷ căn này thì cũng bất tùy phân biệt theo mùi thơm hôi thì mới giữ tánh ngửi được thanh tịnh.

          Ví dụ mình đang làm việc gì hay đang ngồi Thiền ở nhà trên mà có mùi chiên xào ở dưới nhà bếp bay lên xông vào mũi, nếu mình khởi ý duyên theo mùi đó thì tâm ý liền nghĩ ngay đến món ăn và khởi lên thèm ăn, tức mình đã động và nhiễm theo món ăn, tuy thân đang ngồi Thiền mà tâm không còn định được nữa. Vì nó đã phóng ý xuống nhà bếp rồi. Vậy luôn luôn phải tỉnh giác, phải làm chủ tâm thức, điều khiển ý căn không cho nó duyên theo hương trần, vì hương trần chỉ là giả hợp, như huyễn không thật . Vì tự tánh vốn không thơm thúi, nếu còn có thấy thơm thúi, ưa ghét thì đó là tâm sanh diệt pháp sanh diệt, không phải tự tánh thanh tịnh.

          Hành Thiền nơi tỷ căn là điều khiển hơi thở cho nó được điều hòa, nhẹ nhàng , sâu và chậm. Hơi thở có điều hòa thì thân mới an và tâm mới định. Nếu hơi thở không điều hòa theo kiểu phong, khí, suyển thì thân sẽ nhúc nhích và tâm sẽ loạn động.

          Người nào làm chủ được hơi thở đến chỗ vi tế là có thể làm chủ được sự sống chết. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật có hỏi ba vị Tỳ kheo, mạng sống con người được bao lâu ?  Vị thứ nhất đáp, mạng sống con người trong vòng một ngày. Phật bảo Ông chưa hiểu đạo. Vị thứ hai nói: mạng sống con người trong một bữa ăn. Phật cũng bảo Ông chưa hiểu đạo. Vị thứ ba đáp: Mạng sống con người trong một hơi thở. Phật khen, ông hiểu đạo rồi đấy.

  Thiền nơi của miệng : Kế đến tu cái miệng, Khẩu nghiệp cũng mạnh lắm không phải vừa chi, bởi vì cái miệng dùng để ăn uống  vật thực. Lại còn có cái lưỡi để nếm mùi vị và nói năng bàn luận. Khi cặp mắt tiếp xúc với cảnh vật rồi, sanh ra ý thức phân biệt là đẹp xấu, hay dỡ, ưa ghét v.v…thì nó khiến cho cái miệng phát ra lời nói khen hay chê v.v..

          Khi lỗ tai nghe lời nói, âm thanh, tiếng tăm bên ngoài thì ý thức cũng phân biệt hay dở, phải quấy, ưa ghét mà phát ra lời khen chê, phê phán v.v… Như vậy cái miệng là cơ quan phát ngôn cho con mắt và lỗ tai để nói lên sự mừng giận, thương ghét, vui buồn. Nếu người nào con mắt sáng, lỗ tai nghe rõ, mà cái miệng bị câm không nói được, thì người đó sẽ sanh nóng giận, bực tức khó chịu lắm và thường phát lộ ra sự ưa ghét hay giận tức của mình bằng hai tay và hai chân.

          Cái miệng là cửa khẩu đưa thức ăn vật uống vào bao tử, khi bụng đói thì nó bắt cái miệng thèm ăn, khi ăn lại bị cái lưỡi phân biệt mùi vị chua ngọt, mặn lạt, đắng cay mà sanh tâm ưa ghét. Nếu món ăn nào mà ý thức cho là ngon thì muốn ăn thật nhiều cho thỏa mãn vị dục, nếu bị ai cản trở không cho ăn hay ăn ít thì sanh ra giận dữ buồn phiền, nên người đời thường nói : “ Món ăn là món tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu ”. Đó là tham ăn, cố ăn. Trái lại món ăn nào ta không ưa mà cứ dọn cho ta ăn hoài thì cũng sanh tâm ghét giận phiền não. Những người có tật háo ăn hay gọi là xấu chứng đói thường hay giận dữ làm phiền khổ gia đình vợ con.

          Khi mắt thấy món ăn ngon hay tai nghe nói món ngon thì ý thức khởi lên thèm ăn, khi thèm quá thì nước miếng chảy ra để thúc giục mình đi tìm món ăn, nước đó gọi là nước ái dục, nó nằm sẵn trong châu thân và thường chảy ra từ cửu khiếu tùy theo chỗ nào khởi ra sự thèm khát.

          Lại có những người bụng không đói mà thường đói vì con mắt, hay đói vì lỗ tai, vì khi thấy ai bán gì hay nghe ai rao bán món gì ngon thì cũng động tâm muốn ăn, khiến cho mình phải ăn hàng, ăn vặt, ăn phi thời mãi. Hoặc đôi khi bị bụng đói, hay mắt đói, chịu không nổi phải đi ăn vụng, ăn cắp.

Tất cả những người trên đây đều không làm chủ được vọng tâm và không điều khiển được khẩu nghiệp của mình nên mới có những hành động như vậy.

          Trong kinh có câu :

          Món ăn ngon dở có ra chi

          Nuốt qua khỏi cổ thành chi đó

          Sao khỏi tỉnh hồn nghĩ thử coi.

          Trong khi đau bịnh cần phải cử kiêng thế mà mình cứ ăn uống bừa bãi những món ăn độc hại hoặc nghĩ lầm là ăn nhiều cho mau lại sức khiến cho bội thực khó tiêu, làm cho bịnh nặng hơn, có khi bị chết vì trúng thực nữa. Hoặc có người làm biếng ham ăn, mê ngủ, thì suốt đời chỉ làm con mọt của xã hội không lợi ích gì cả.

          Đó là nói cái xấu, cái tệ của miệng ham ăn.

          Trong Kinh Di Giáo, Phật dạy : “ Tỳ kheo, các ông phải coi ăn uống như là phục dược. Đối với thức ăn ngon , hay không ngon, đừng thích ăn nhiều hay ăn ít. Coi sự ăn uống cốt để sống, để khỏi đói khát mà thôi, không được cần nhiều để làm tổn hại tâm thiện của mình và của người ”.

          Đến phần cái lưỡi lại càng tai hại hơn nữa. Cái lưỡi có tác dụng nếm các thức ăn và uống, để phân biệt ngon ngọt, béo bùi, mà nhiễm trước rồi sanh phiền não. Nó còn công dụng khác nữa là để phát ra lời nói.

          Con mắt hay lỗ tai nghe thấy điều gì, mà phân biệt, hiểu biết thì tâm ý khiến cho cái lưỡi phát động để nói lên cảm tưởng, ý thích của mình. Hoặc nói lời thương yêu triều mến, khen ngợi dịu ngọt v. v…hoặc nói lời ganh ghét, chê bai, nhục mạ, hoặc nói dối nói lác nói thêu dệt lừa gạt, nói đâm thọc, chửi mắng v.v..

          Sách Nho có câu : “ Nhất ngôn khả dĩ tán bang, nhứt ngôn khả dĩ hưng bang ”. Nghĩa là : “ Một lời nói có thể làm tan gia bại sản, cũng một lời nói có thể làm nên sự nghiệp, hưng thịnh nước nhà”.

          Đạo Lão cũng có câu khuyên người tu hành :  “ Khẩu khai thần khí tán, thiệt động thị phi sanh “. Mở miệng ra thì thần khí tan mất, còn lưỡi vọng lên thì sự hơn thua phải quấy phát ra.

          Trong kinh có câu :  “ Phù sĩ xử thế, phủ tại khẩu trung

Sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn ”. Nghĩa là : Người ở đời xử thế , búa dao ở tại trong miệng . Sở dĩ hại thân là do lời nói ác độc của mình.

          Trong sáu căn của con người thì cái miệng là nơi dễ sanh ra ác cảm nhứt, vì nó hay nói những lời thị phi tốt xấu, khen chê v.v..cho nên Phật ví dụ như ngon dao bén, gây thù kết oán, giết hại lẫn nhau cũng do lời nói bất thiện. Tục ngữ có câu :

          Con ếch nó chết cũng vì cái miệng. Con người mang họa cũng tại cái miệng. Trái lại, khi người đã giác ngộ làm chủ được vọng tâm rồi thì cũng từ cái miệng ấy mà tạo ra muôn ngàn thiện nghiệp. Như trong Kinh Pháp Hoa có câu :

          Cái miệng đã thanh tịnh rồi thì có 1.200 công đức. Dùng cái miệng ấy mà thuyết pháp. Giảng kinh, giáo hóa chúng sanh, nghe được pháp lành cải tà quy chánh, tụng kinh, niệm phật, ăn chay, nói lời chân thật, hòa nhã êm dịu, đạo đức, khiến cho người nghe sanh lòng hoan hỷ, mát mẻ an vui. Nghe được câu kinh lời kệ mà độ người, độ vật, phát tâm Bồ đề tu hành giải thoát đến quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác thì công đức vô lượng vô biên.

          Cổ đức có câu : “ Mặc, mặc, mặc vô hạn thần tiên tùng thử đắc”

Tức là nín lặng cả ba nghiệp, Thân, Khẩu, Ý thì bao nhiêu quả vị Thần Thánh, Tiên Phật cũng đều từ đó mà thành tựu.

          Người ngu si mê chấp theo miếng ăn lời nói mà tranh đấu giành giựt, giết hại nhau không gớm tay, cũng như hai con chó giành nhau cục xương mà phải cắn lộn đến đỗ máu què chân, khiến cho người trí nhìn vào phải đau lòng thương xót, làm trò cười cho thiên hạ và để tiếng nhơ cho hậu thế.

          Muốn tu cho khẩu căn này được thanh tịnh thì phải sắp xếp sự ăn uống có giờ khắc, không ăn phi thời, ăn hàng, ăn vặt v.v... mà ăn theo tiêu chuẩn không quá hạn lượng dầu món ăn ngon hay dỡ cũng vậy. Phải biết kiêng cử những món ăn độc hại không thích hợp với cơ thể khi bịnh hoạn, ăn uống có tiết độ như vậy lâu ngày mới thắng được khẩu nghiệp đòi hỏi.

          Còn về lời ăn tiếng nói thì phải tập nói ít lại, không nói nhiều, không nói dai, không nói to, tập nói lời hòa nhã lễ độ, khiêm nhường, thành thật, đối với bất cứ người lớn hay trẻ nhỏ, không nói lớn lời hỗn ẩu, không nói dối trá, dua nịnh, chê bai, mỉa mai, không nói phi thời, phi pháp, phi lễ, mà chỉ nói đúng lúc, đúng nghĩa, đúng pháp, nói vừa đủ nghe đủ hiểu, không nói quá lâu, quá nhiều làm chán người nghe.

          Sách xưa có câu : “Bán cú phi ngôn, Năng tổn bình sanh chi đức”. Nghĩa là : Nửa câu nói quấy có thể làm tổn giảm công đức đời tu của mình”.

          Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật ân cần dặn dò :  “ Tỳ kheo các ông, nếu cứ hý luận hết thứ này đến thứ khác thì các ông sẽ bị tán loạn. Tuy là người xuất gia mà không đắc đạo giải thoát được . Ấy thế cho nên các ông phải xa bỏ ngay hý luận. Nếu các ông muốn chứng được cái vui tịch diệt Niết bàn, các ông cần giữ tâm không hý luận thì sẽ được công đức cứu cánh đó.

Thiền cả thân mình. Thân đây gồm đầu, cổ, hai tay, hai chân và thân mình. Thân căn có tác dụng xúc chạm, đi đứng, nằm ngồi, làm việc v.v.. Khi xúc chạm với sắc trần nhờ ý thức phân biệt cảm giác sẽ biết  được vật đó trơn hay nhám, cứng hay mềm, tròn hay méo, lạnh hay nóng, đau ngứa v.v…rồi khởi tâm thương ghét, thích hay chán, vui buồn v.v…

          Hai tay chuyển động làm tất cả sự việc từ lớn đến nhỏ, do sự chỉ huy của ý thức như : Nhà cửa lâu đài, dinh thự cung điện, thành ấp, đường sá, cầu cống, xe cộ, phi cơ, tàu thủy, dời non lấp biển….cũng đều do hai bàn tay và khối óc kiến tạo ra. Trái lại, cũng hai bàn tay và khối óc, như khoét vách đào tường, trộm cắp, cướp giựt, xung đột, chiến tranh, chế tạo vũ khí tối tân để giết người hàng loạt, hoặc làm hạnh nhơ xấu như cờ bạc, hút xách, rượu chè, say sưa, dâm dật, tứ đổ tường …

          Tất cả hành vi tạo tác của thân căn gây ra hoặc thô hoặc tế, mà phần chủ động là Ý căn điều khiển. Hai chân cũng chịu sự điều khiển của Ý thức mà hoặc đi hoặc đứng, hay nằm ngồi, chạy nhảy, tới lui…Như vậy, thân hình và tứ chi là công cụ, là tay sai đắc lực của Ý thức.

          Những hành động thiện ác, tốt xấu, hay dở, nhẫn đến tạo thiên lập địa, dời non lấp biển cũng đều do hai bàn tay con người làm ra, cho nên Bác Hồ có hai câu thơ :

           Hai tay làm nên tất cả

          Có sức người thì sỏi đá cũng thành cơm.

          Trong kinh Di Giáo, Đức Phật có dặn các hàng đệ tử phải luôn luôn kiềm chế ngũ căn đừng để cho nó phạm vào ngũ dục lạc.  Ngũ dục lạc là Tài , Sắc, Danh, Thực, Thùy. Nếu phóng túng ngũ căn thì không những chỉ phạm vào ngũ dục mà thôi, mà còn phạm vào những sự ham muốn không bờ bến, cũng như con ngựa dữ không có dây cương hãm thì nó sẽ lôi người xuống hầm hố. Bị hại về giặc cướp thì chỉ khổ có một đời, bị hại về ngũ căn thì tai vạ đến nhiều đời. Cái hại to như thế phải hết sức cẩn thận.

          Chúng ta hành Thiền Tự Tánh, muốn tu phần thân căn thì phải tập cho hai tay, hai chân uyển chuyển dịu dàng, làm bất cứ việc gì cũng phải từ từ chậm rãi, nhẹ nhàng không vội vàng, hấp tấp, vụt chạt, đặng kiềm chế thân căn.

          Tập tọa Thiền là một phương pháp chế phục thân căn rất hay. Hai chân ngồi tréo kiết già tức là trói buộc cặp giò không cho chạy nhảy lung tung. Hai tay bắt ấn Tam muội là cột trói lại không cho nó hành động sai trái mà tội nặng nhất là Sát, Đạo, Dâm.

          Cái miệng ngậm lại, cuống lưỡi để cong lên ổ gà chặn đứng khẩu nghiệp, không cho vọng ngôn ác ngữ.

          Hai mắt khép nhỏ lại một phần tư để soi vào nội tâm không nhìn ra ngoài.

          Hai lỗ tai nghe lại tự tánh thanh tịnh không cho hướng ra ngoại duyên theo thanh trần.

          Ý căn không cho khởi vọng nghĩ suy mà phải thể nhập với tánh giác Bồ đề bản lai thanh tịnh.

          Như vậy, tọa Thiền chẳng những kiềm thúc thân căn mà thật ra nhiếp phục luôn cả ba Nghiệp, sáu Căn.

          Lúc đầu chưa quen, trói buộc như vậy thì cơ thể sẽ phản ứng bằng cách khó chịu, mệt mỏi, đau nhức, ngứa ngáy v.v...Nhưng ráng dụng công lâu ngày chầy tháng quen dần sẽ cảm thấy yên ổn nhẹ nhàng, không còn loạn tưởng hay hôn trầm. Như vậy gọi là Thiền Định, đến khi xả Thiền nhưng tâm vẫn an định với tự tánh. Tay chân đã quen với sự kết ấn, kiết già, nên không quơ tay, đá chân như trước kia nữa. Miệng đã ngậm quen với tự tánh nên không còn nói chuyện bông đùa hý luận. Mũi không để ý đến mùi vị thơm ngon. Mắt không liếc nháy theo sắc tướng bên ngoài. Tai không phan duyên theo thinh trần, tiếng động. Do đó, ngoài giờ hành Thiền kiết già phu tọa, mình ra làm tất cả công việc như quét nhà, gánh nước, nấu cơm, chẻ củi, giặc giũ, cuốc đất, trồng cây, buôn gánh, bán bưng, lao động sản xuất v.v… tất cả tác động đều chú tâm vào đó nên việc làm được nhẹ nhàng, kỹ lưỡng, cẩn thận, sạch sẽ, vén khéo, điều hòa, nhờ vậy mà việc làm đạt được kết quả tốt, năng suất nhiều, phẩm chất cao, không hư không bể, không sơ suất, ít tổn hại, không hao phí v.v...

 Tuy nhiên, vì mới tu tập, đôi khi cũng quên mất ông chủ của mình mà buông lung theo tập khí ( thói quen cũ ) nên phải dùng giới luật làm hàng rào ngăn chận những hành động xấu ác. Phải hành lễ sám hối cho thân nghiệp được nhẹ nhàng. Phải làm việc lao động cho ra mồ hôi đặng giải bớt chất kích thích tố và độc tố trong người. Mỗi ngày chỉ độ một hoặc hai bữa cơm mà thôi để cho cơ thể không tích trữ nhiều chất béo bổ làm nặng nề cơ thể, vì trong máu dư nhiều chất mỡ, cholesterol dễ sanh ra nhiều bịnh khó chữa như tim, mạch, tuần hoàn …

Đi, đứng, nằm, ngồi, tiếp chuyện v.v…oai nghi đều tịch tịnh tranh nghiêm, điềm đạm, tươi tỉnh khiến cho người khác trông thấy sanh lòng cảm mến kinh trọng, cho nên trong kinh có câu:

Hữu oai khả úy, hữu nghi khả kính.

- Thiền tại ý căn :  Trong sáu căn của người thì Ý căn là quan trọng nhứt, vì nó có tác dụng bảo vệ thân căn và làm chủ thân mạng của mình. Trong Duy Thức Học gọi nó là Mạt Na Thức tức là Ý thức chấp ngã. Bản chất của nó là Ngã si, Ngã ái, Ngã mạn, Ngã kiến, cho nên nó luôn ích kỷ, bỏn xẻn, cố chấp, tham lam. Vì ngã si nên tham lam. Vì ngã ái nên ích kỷ, Vì ngã mạn nên cống cao, vì ngã kiến nên cố chấp.

          Làm bất cứ việc gì có tính cách phục vụ sung sướng cho ngã và ngã sở ( tức bản thân mình và những người thân yêu của mình ), thì nó rất chịu và tán đồng thúc đẩy, trái lại làm việc gì chỉ phục vụ cho người khác mà mình bất lợi hay thiệt thòi thì nó cự tuyệt phản kháng. Vì thế nó thường chủ trương làm việc ác hơn là việc thiện, dầu có làm việc thiện thì cũng phải có lợi cho mình nhiều thí nó mới chịu.

          Từ Ý căn phát ra Ý thức  để phân biệt, hiểu biết và phán đoán hay dở, tốt xấu khi năm căn tiếp xúc với năm trần, đồng thời nó quyết định sự ưa thích, thương ghét v.v... rồi truyền lệnh chỉ huy cho năm căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ) làm việc hoạt động theo ý kiến của nó.

          Ý căn này không có hình tướng, ẩn tàng bên trong nên gọi là Tâm, nhưng vì nó duyên theo sáu Trần sanh ra sáu Thức để phân biệt chấp trước, nhận định sai lầm, nên gọi là Tâm thức hay Tâm vọng. Trong Duy Thức gọi đó là Biến Kế Sở Chấp. Trong Kinh Di Giáo Đức Phật dạy : “ Trong sáu Căn, Tâm ý là chủ, ấy thế nên các ông phải khéo kiềm chế lấy Tâm thức, phải sợ Tâm Thức hơn sợ rắn độc, loài thú dữ, như giặc oán thù, như sợ ngọn lửa to đang cháy mạnh…những tỷ dụ này cũng chưa đủ tỏ hết sự tai hại của nó. Các ông phải kiềm chế gấp lấy Tâm ý, đừng để nó phóng túng. Kiềm chế tâm vào một chỗ thì việc gì cũng hay tốt cả. Ấy thế Tỳ kheo các ông phải cố tinh tấn để chiếc phục lấy tâm của các ông.

          Người Hành Thiền Tự Tánh biết rõ Ý thức là giả vọng chẳng những không nghe theo nó mà còn phải dành lấy quyền làm chủ của mình đã lâu nay bị nó cướp đoạt chủ quyền. Bắt mình làm nô lệ, sai sử mình phải trôi lăn nhiều kiếp trong ba cõi sáu đường. Phải dùng trí tuệ Bát Nhã thấy rõ con người thật của mình là Tánh Giác Bồ Đề bổn lai thanh tịnh, còn ý thức là hư vọng sanh diệt không có Tự thể. Biết rõ thấy rõ như vậy rồi, mình liền đứng trên vị trí Tự Tánh mà quán chiếu thì sẽ thấy bao nhiêu việc làm của ta từ trước đến nay đều là mê lầm vọng chấp, là tà kiến đảo kiến không chơn thật. Bấy giờ mình nắm lại quyền làm chủ, hằng sống với Tánh Giác, chiếc phục được Ý thức, đổi Mê ra Ngộ, chuyển Thức thành Trí, hướng dẫn nó làm các việc lành lợi ích chúng sanh.

          Như vậy Tâm thức làm chủ động tất cả sáu Căn, tam nghiệp, tùy theo sự Mê hay ngộ mà làm việc có thiện  hay ác, nên trong Kinh có câu nói về Ý thức là “ Công vi thủ, tội vi khôi ”. Nghĩa là :  Khi mê tạo tội đứng đầu, mà lúc ngộ thì lập công bậc nhất”.

          Người học Đạo cần phải nhận rõ Chơn Tâm và Vọng Tâm. Tánh Giác và Tâm Thức ra sao thì mới không lạc vào Tà Kiến. Chơn Tâm vốn thanh tịnh, nhưng vì mê chấp mà trở thành Vọng Tâm sanh diệt. Tánh Giác Bồ Đề hằng tỏ rõ, mà vì nhiễm trước trần lao, bị vô minh che lấp, nên biến thành Tâm Thức phân biệt, chứ thật sự chỉ có một tâm Chơn Như thanh tịnh mà thôi.

          Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có câu kệ :

          Bồ Đề là Tự Tánh

          Tâm động thành vọng tưởng

          Khi vọng khá tịnh lặng

          Tâm chánh không ba chướng

          Muốn tu hành làm chủ được ý căn, ý thức, thì ta phải:

          Học hỏi theo bậc Thánh nhơn

          Phải trừ Tâm Vọng mới hườn bổn nguyên

          Vọng Tâm là ý tư riêng

          Thất tình lục dục  một tên khác gì

          Thường nên kiểm soát hành vi

          Khi ăn, lúc nói, đứng, đi, ngồi, nằm

          Đừng cho Vọng ý phóng tâm

          Phải nhờ Giới Luật buộc cầm khát khao

          Tuy không thấy ý chỗ nào

          Nhưng khi động tác, ý xua ra ngoài

          Nếu ai Thiền Định hoài hoài

          Ấy là ý đã bị cai trị rồi.

          Vì vậy, Hành Thiền Tự Tánh là phải Thiền trong tất cả thời, hằng sống với Tánh Giác, niệm niệm không hề xen hở thì mới chế phục được Ý căn làm chủ được Ý Thức, điều khiển được ngũ căn bên ngoài, làm tất cả việc lành lợi ích chúng sanh, không cho nó buông lung tung hoành, nghĩa là đã phá được Ngã chấp và Pháp chấp mới thể nhập được với Tự Tánh thanh tịnh của mình.

          Vì sao ta phải Hành Thiền trong tất cả thời ?  Vì Ý thức nếu buông lỏng ra thì nó sẽ làm việc trong tất cả thời, thậm chí trong giấc ngủ nó cũng làm việc theo cảnh chiêm bao. Việc làm của nó là vọng tưởng điên đảo, mưu này kế nọ, buồn vui giận ghét theo thất tình lục dục, rồi tạo nghiệp dẫy đầy để rồi phải chịu quả báo phiền não vô lượng vô biên. Nay ta đã giác ngộ rồi, quay về sống với Tự Tánh thanh tịnh, niệm niệm không rời, thì Tâm thức không còn chỗ hở để xen vào quấy nhiễu ta nữa. Như vậy gọi là Thiền tại Ý Căn, nắm quyền làm chủ trong tất cả thời.

          Trong thân người gồm có sáu Căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý duyên theo sáu Trần bên ngoài là Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp sanh ra sáu Thức là Nhãn thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, và Ý thức. Cộng chung là 18 giới. Do có 18 giới này mà tạo ra sơn hà đại địa, cây cỏ núi sông, người vật, chúng sanh …

          Chúng ta Hành Thiền Tự Tánh là phải nhận thức cho ra Chơn Tâm Thường Trụ của mình là Bản Thể bất sanh bất diệt, là ông chủ thường hằng thật sự của mình. Còn những pháp bên ngoài đều là Duy Tâm Sở Hiện, Duy Thức Sở Biến, do Y tha khởi rồi mê lầm Biến Kế Sở Chấp đó thôi.

          Chúng ta phải dụng trí tuệ Bát Nhã quán chiếu nguyên thể của các pháp. Các pháp trên thế gian là do Thức biến hiện, mà sáu Thức sở dĩ có là do sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần mà phát sanh ra. Quán xét sáu Căn và sáu Trần đều do Ngũ uẩn duyên hợp mà thành, đến khi duyên tan cũng trả về Bản Thể Chơn Không, chứ nó không có Tự Tánh riêng. Mà cái gì cũng do duyên hợp kết thành thì nó giả huyễn vô thường, biết nó là giả huyễn vô thường thì mình không mê chấp bám víu vào nó làm chi ? Biết buông xả cái giả để trở về với cái chơn thật  của mình là biết Hành Thiền Tự Tánh vậy.

- Thiền lúc tụng kinh :  Lâu nay, phần đông những người tu Thiền không chịu tụng kinh mà có khi còn bài bác người khác tụng Kinh là Sự tướng, thấp, dở… Thật ra Kinh điển đâu có lỗi gì mà chê bai ? Kinh là miệng của Phật, còn Thiền là Tâm của Phật. Nhờ kim khẩu của Phật nói ra giáo pháp mà chúng sanh mới biết được Giáo pháp để tu hành. Nếu không có Kinh điển thì người đời lấy đâu y cứ mà tu ? Tụng Kinh giả minh Phật chi lý. Nhờ có đọc tụng Kinh điển mới hiểu rõ Chơn lý. Đức Phật thường thí dụ : Kinh như ngón tay chỉ mặt trăng, còn mặt trăng thì tượng trưng cho Chơn lý. Nếu bỏ ngón tay thì không thấy được mặt trăng, hoặc chấp nhìn vào ngón tay thì cũng không thấy được mặt trăng.

          Khi tụng Kinh cần phải tìm hiểu ý nghĩa, chứ đừng tụng suông, chỉ được phước chứ không được tuệ.

          Người Hành Thiền Tự Tánh mà tụng Kinh, có nhiều tác dụng tự lợi lợi tha, tự giác giác tha của Đại thừa Bồ Tát. Khi ngồi tụng Kinh, chúng ta cũng tọa Kiết già, thân thể ngay thẳng trang nghiêm, mắt tai miệng nhiếp vào một chỗ, tâm trụ vào câu Kinh để rà lại sự tu của mình có hợp với lời Phật dạy hay không, và để tìm nghĩa lý sáng tỏ hơn những chỗ mình chưa hiểu, đó là tự lợi tự giác, còn miệng mình đọc tụng lớn lên là để cho mọi người ngồi chung quanh cùng nghe cùng hiểu lời Phật dạy, chẳng những người sống được nghe, mà chí đến những kẻ vô hình như các vong linh quá cố, quỷ thần, chư thiên, a tu la, dược xoa… cũng đều được nghe mà phát tâm tu hành, đó là lợi tha giác tha. Một việc làm mà được lợi ích hai bên như vậy không đáng quý sao ?

 Trong lúc đứng hay ngồi tụng kinh, thân nghiệp và khẩu nghiệp được thanh tịnh, tức là Giới. Ý nghiệp không phóng tâm vọng tưởng, tức là Định. Nhờ lời Kinh câu Kệ mà Trí được sáng tỏ, thì đó là Huệ. Giới, Định Huệ đầy đủ thì đó là Hành Thiền rất miên mật rồi, còn đi kiếm Thiền ở đâu nữa ? Tuy nhiên, hành giả phải biết tùy theo sức khỏe và tuổi tác mà tụng kinh: Từ tuổi bé cho đến 30 thì tụng lớn cho nở phổi. Từ 30 đến 60 thì tụng vừa nghe để dưỡng hơi. Từ 60 trở lên thì nên tụng thầm để tích hơi. Khi tụng Kinh miệng đọc mà tai phải nghe cho rõ và trí phải hiểu nghĩa cho rõ thì mới đúng pháp Hành Thiền khi tụng kinh.

Thiền khi niệm Phật : Trong Ngũ Đình Tâm Quán, Đức Phật dạy pháp môn niệm Phật để đình chỉ vọng tâm loạn tưởng. Khi loạn tưởng hết rồi thì Niệm Phật cũng không dùng. Đó là phương pháp lấy vọng để trừ vọng. Khi Tâm đã yên lặng rồi thì khỏi Niệm Phật nữa. Cũng như lấy gai lễ gai, khi cái gai bị đạp dính trong chân đã lấy được gai ra rồi thì cái gai dùng để lễ cũng bó luôn.

          Người Hành Thiền Tự Tánh mà Niệm Phật là để xoay cái Tâm chúng sanh quay về Tâm Phật. Phật là giác ngộ, là sáng suốt. Khi ta tu, niệm một câu Phật  hiệu là tăng thêm một câu niệm giác ngộ trong lòng, là bước thêm một bước tiến gần đến cảnh giới Phật. Đến khi viên mãn giác ngộ, tức là thể nhập được vào Tự Tánh thanh tịnh, vào Pháp Thân Phật.

          Niệm Phật là Niệm Tâm, Niệm Giác, Niệm Thanh Tịnh, Niệm Phật mà đúng pháp thì thân tâm được an vui, thanh thoát, không còn phiền não khổ đau, vì đã sống được với Tánh Giác Bồ Đề bổn lai thanh tịnh của mình rồi. Miệng niệm Phật là nhắc mình phải thường nhớ chớ quên ông Phật  thật trong Tâm mình.

-Thiền tọa kiết già : Nói đến tu Thiền là phải biết ngồi Kiết già. Vì đó là cách ngồi vững chắc nhất mà Đức Phật Thích Ca đã áp dụng, còn gọi là ngồi kiểu hoa sen. Hiện nay các người tu ngoại đạo hay các nhà tập dưỡng sinh trên thế giới cũng đều công nhận và áp dụng cách ngồi Kiết già này. Hai chân ngồi tréo Kiết già, thân ngồi mới được vững vàng, không nghiêng không lệch ngồi lâu mới được, có khi ngồi suốt buổi suốt ngày hay nhiều ngày không bị cấn tê.

          Mới tập ngồi Kiết già thì hơi khó vì đau nhức tê mỏi, nhưng ráng tập đều đều mỗi ngày, trong vòng một năm thì sẽ hết đau nhức mà lại cảm thấy dễ chịu hơn ngồi bán già, vì hai chân tréo đều nhau, máu huyết và thần kinh lưu thông điều hòa. Còn ngồi bán già thì chân này gát nằm trên chân kia, nên chân bị chặn ngồi lâu bị tê mỏi nhiều hơn và không vững, dễ tuột ra khi mỏi tê. Ngồi Kiết già chẳng những được ngay ngắn vững vàng, mà còn có tác dụng rất tốt đối với sức khỏe. Nó làm giản tất cả các khớp xương, chống sự xơ cứng, đóng vôi, mọc nhánh, xơ hóa…như khớp đốt xương sống, đốt xương chậu, khớp xương đùi, khớp đầu gối và khớp chân.

          Người Hành Thiền Tự Tánh nên tập ngồi Kiết già mới hợp pháp tu, trừ trường hợp người mập mà lùn, người bị tật chân, hoặc người nữ khi bất tịnh, thì ngồi bán già ngắn giờ hơn.

          Tọa Thiền Kiết già phải trải qua ba giai đoạn điều hòa sau đây: Điều thân, điều tức, điều tâm.

          Điều thân : Là ngồi ngay thẳng đoan nghiêm, không cong, không vẹo, không nghiêng, không ngửa, không khum, không ngước, không thụng. Nếu ngồi lưng cong, lâu sẽ thành bịnh lưng gù, đau khớp xương sống, ngồi vẹo sẽ bị tức lói hông; ngồi nghiêng sẽ bị xệ một bên vai hay nhức mỏi; ngồi ngửa ểnh ra sau sẽ bị tức ngực, ngồi khum dễ bị hôn trầm ngủ gục, ngồi ngước sẽ bị nhức đầu chóng mặt, ngồi thụng sẽ bị nghẹt hơi trong dạ dày khó tiêu hóa. Trong lúc Tọa Thiền, nếu thấy có triệu chứng bất thường như nhức đầu chóng mặt, tê tê như kiến bò trên mình…thì phần lớn do thiếu Oxy ( Dưỡng khí )vì hơi thỏ ngắn và chậm, nên phải thở dài và sâu hơn mới được.

- Hai tay bắt ấn Tam Muội -  Hai chân ngồi tréo Kiết già :

- Hai mắt mở lớn ¼ , định thần, ngó ngay một điểm trước mặt cách 8 tấc-  Hai lỗ tai thu nhiếp vào Tự Tánh, không duyên theo tiếng động bên ngoài.

- Quần áo khi Tọa Thiền, phải rộng rãi thoáng hơi, tùy theo mùa tiết, không quá lạnh hay quá nực, dây lưng đừng buộc chặt quá. Khi ăn no không được ngồi Thiền vì bao tử bị xệ, nặng nề khó thở, hay bị chảy nước dãi. Cách bữa ăn hai tiếng đồng hồ mới được ngồi. Chỗ ngồi Thiền phải sạch sẽ, thoáng khí, yên tịnh, ít ruồi muỗi, kiến …

- Thức ăn của người Hành Thiền phải tránh những thức ăn cay nồng, nóng bức, chiên dầu khó tiêu cùng ngũ vị tân, không dùng cà phê, trà đậm, thuốc lá cùng những thứ có chất kích thích cơ thể, bớt dùng bột ngọt và đường hóa học vì nó làm nhức chân đau mình. Nên dùng những thức ăn dễ tiêu, nhiều rau tươi và quả chín. Khi Tọa Thiền có ra nước miếng thì nuốt vào chứ đừng nhả ra, vì đó là chất giúp ích cho sự tiêu hóa.

- Điều tức :  Là điều hòa hơi thở. Hơi thở rất quan trọng cho người Hành Thiền. Thân có an Tâm có định là do hơi thở được điều hòa. Do đó, người sơ cơ mới tập tu thì phải dùng phép quán Sổ tức trong vòng một năm để hơi thở được nhẹ nhàng, điều hòa, nhỏ nhiệm và sâu. Không thở mạnh, không thở gấp, không thở khi mau khi chậm, không thở hào hển hoặc khò khè. Hơi thở càng dài càng sâu thì mới đưa được dưỡng khí đi khắp châu thân ra tới các tế bào ngoài da, nhất là đưa tới đỉnh đầu để nuôi dưỡng những vi bào của óc, lọc sạch máu dơ, làm cho huyết mạch lưu thông điều hòa, cơ thể được khỏe mạnh, ít mệt, ít buồn ngủ, tỉnh táo, sáng suốt. Ngồi Thiền mà hay ngáp, hay buồn ngủ, hay hôn trầm, ngủ gục  vô ký, nguyên nhân phần lớn là vì trong máu có nhiều thán khí mà mình hít thở không dùng phương pháp như : thở ít, thở không đủ hơi, thở không sâu  nên thiếu dưỡng khí trong phế nang, hoặc lý do vì chỗ ngồi Thiền quá chật hẹp lại có đông người nên không khí bị vẫn đục, hoặc vì đóng kín các cửa nên không khí không  ra vào được bình thường, cần phải tìm xét kỷ nguyên do để khắc phục thì ngồi Thiền mới được thoải mái và an định được lâu.

- Chúng ta biết điều hòa hơi thở thì sẽ được mạnh khỏe sống lâu, vì hơi thở đúng pháp có nhiều dưỡng khí là một thức ăn bổ quý hơn các thức ăn khác. Những vị tu trên núi cao không ăn uống gì nhiều, chỉ hít thở thanh khí mà vẫn được khỏe mạnh hồng hào.

- Nhiếp tâm an tọa, điều hòa hơi thở cho đều khi Chánh Định thì không còn thấy có hơi thở nữa, mà chỉ còn thoi thóp thật nhẹ trong lồng ngực và bụng mà thôi. Lúc ấy, thân thể thật nhẹ nhàng an nhiên thanh thoát như không còn có thân nữa. Cái biết phân biệt cũng không còn, chỉ còn cái Trí Giác của Tự Tánh liễu liễu thường tri mà thôi, lần lần đạt tới trạng thái thân không, tâm không, cảnh không và không còn thấy có không gian, thời gian, tức là thể nhập Chơn Như Thanh Tịnh vậy.

          Các Thiền sư ngộ Đạo làm chủ được thân tâm, làm chủ được hơi thở, nên muốn sống chết lúc nào tùy ý, tự tại vô ngại, bởi vì hơi thở càng nhẹ thì quả tim đập càng chậm lại, cho đến khi hơi thở dứt thì quả tim cũng ngừng đập một cách êm ái nhẹ nhàng.

- Điều Tâm :  - Điều Hòa Nội Tâm :  Tâm đây là Tâm thức, nó hay suy nghĩ tính toán lăng xăng việc này việc nọ tối ngày không dứt: Nghĩ nhớ chuyện cũ, lo tính chuyện mới để mưu tìm sự sống hoặc tranh đua với đời, tranh danh đoạt lợi, phiền não lo âu, thất tình lục dục…Giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, bé lớn gì cũng không ai tránh khỏi tâm thức nó làm vọng tưởng đảo điên, tạo nghiệp đầy dẫy, trầm luân trong nhiều kiếp.

          Bây giờ chúng ta Hành Thiền là để chế ngự Vọng tâm không cho nó duyên theo cảnh trần tung hoành tạo nghiệp nữa. Hàng phục được nội tâm là một rất khó, nên Đức Phật nói trong kinh Pháp Cú :

          Thắng người đâu sánh thắng mình

          Chiến công tự thắng liệt oanh trên đời

          Thắng người đâu sánh thắng mình

          Thắng mình chế ngự dục tình cao siêu.

          Thiền tọa Kiết già là để nhiếp phục ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý trở về với Tự Tánh thanh tịnh. Mắt, tai, mũi, lưỡi, định vào một chỗ, tâm yên lặng mà tỉnh táo, sáng suốt, thể nhập vào Tánh Giác Bồ Đề, tỏ rõ sáng soi như như bất động, không duyên nhiễm theo cảnh trần Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc.

          Trong lúc tọa Thiền mà thân tâm được nhẹ nhàng thanh thoát, tịch tịnh mà thường chiếu, thường chiếu mà như như, không tán loạn, không hôn trầm cũng không vô ký, thì đó là giây phút thể nhập với Tự Tánh thanh tịnh.

- Thiền khi đi đứng :  Hành Thiền Tự Tánh, khi đi thì khoan thai, nhẹ nhàng, cẩn thận, không gây tiếng động, không đi đụng bàn ghế, không đi hấp tấp, không đi thụt lùi, không kéo lê giày dép nghe sột sột, không đi ưởn ẹo, không đi vắt hất hay ngó quanh ngó quất… Khi đi mà tâm vẫn an tịnh trong Tự Tánh nên dáng điệu được trang nghiêm không thô tháo.

- Khi đứng cũng giữ tư thế ngay thẳng chững chạc, không dựa bàn dựa ghế, không đứng một chân, không chống nạnh ra oai,  không lúc lắc trạo cử. Đó là Hành Thiền Tự Tánh khi đi đứng,

- Thiền lúc nằm ngồi : Hành Thiền Tự Tánh, lúc nằm thì kiết tường ngọa, nằm nghiêng bên tay mặt, không xoay trở lăn lộn, tâm an thì tâm mới an, tâm loạn thì thân mới động Ngoài ra, khi nào làm việc cơ thể quá mệt mỏi, hay đau bịnh không ngồi Kiết già được, thì nằm ngọa thiền bằng cách nằm ngửa, duỗi hai tay hai chân, hai bàn tay úp xuống giường, hai mắt mở một phần tư, hơi thở điều hòa mà sâu, buông xả tư tưởng vọng niệm, buông xả sức cử động, đầu không kê gối hay gối thấp. Ngọa Thiền như vậy trong một tiếng đồng hồ sẽ phục hồi sức khỏe hơn nằm ngủ một đêm.

Hành Thiền  khi ngồi là ngồi ngay ngắn, không dựa ngửa dựa nghiêng, không gác chân lên bàn, không chống chân trên ghế, không ngồi tréo ngoảy,  không rung đùi, không nhịp chân v.v…Khi đi đứng, lúc nằm ngồi luôn luôn an định trong Tự Tánh thanh tịnh  thì oai nghi cử chỉ rất trang nghiêm tịch tịnh, không thô tháo. Thiền phong phát ra thân tướng làm cho mọi người kính mến.

- Thiền giữa bửa ăn :

THIỀN TRONG BỮA ĂN

          Bữa ăn hằng ngày đối với mọi người thì đó là việc bình thường không có gì lạ. Hễ đói thì ăn, khát thì uống, đói thì ăn cho thiệt no, gặp món ngon thì cứ ăn cho thích khẩu chớ dại gì mà không ăn cho uổng. Nhưng đối với người tu học theo Phật pháp thì bữa ăn chính là một thời tu tập rất quan trọng và đầy đủ nhất trong các thời tu trong ngày.

          Phật chia thời khóa “ Trú dạ lục thời ”  ( ngày đêm sáu thời ) là : Tham thiền, tụng kinh, sám hối, học tập, công tác và ngọ trai, thì thời Ngọ trai là thời tu trọng yếu hơn các thời kia, vì nó gồm đủ cả Sự Lý, tâm cảnh tiếp xúc với nhau trực tiếp thì sự tu mới rốt ráo.

          Ở tại gia thế gian khi tới giờ dọn cơm lên rồi thì mạnh ai nấy ăn cho thỏa thích, ngon thì ăn nhiều, dở thì ăn ít, ngon thì khen, dở thì chê, lúc ăn thì nói chuyện cười đùa hoặc có khi cãi vã gây gỗ, buồn phiền giận tức….khiến cho đang lúc ăn mà tâm phóng đi đâu không để ý đến bửa ăn, nên ăn đại ăn đùa cho nhanh lẹ rồi đi xuống, hoặc họ ăn là muốn cho ngon miệng khoái khẩu, thỏa mãn vị dục, chớ không phải ăn vì sức khỏe, vệ sinh. Họ chỉ biết sống để ăn, chớ không biết ăn để sống. Trái lại, bửa ăn trong chùa thì hoàn toàn khác hẳn : Ăn để tu ! Nên nói: Bửa ăn là một thời tu.

- Hành Thiền Tự Tánh trong lúc thọ trai là để sống với Tự Tánh trong lúc ăn cơm, gồm đủ Giới, Định, Huệ, trang nghiêm thanh tịnh hòa hưỡn nhẹ nhàng, vén khéo sạch sẽ….

Bữa cơm trưa tại chùa :   Khi nghe ba tiếng bảng báo hiệu, tất cả đại chúng đều mặc áo chính tề, vân tập đến trai đường, chắp tay xá, ngồi vào bàn ghế sắp sẵn vị trí cho mình, mỗi người đều ngồi tréo chân kiết già hoặc bán già với tư thế Tọa Thiền, miệng đọc thầm bài kệ :

          Chánh thân đoan tọa    -  Đương nguyện chúng sanh

Tọa Bồ đề tòa -  Tâm vô sở trước..

Án phạ tất ra ha ni, bát ra ni, ấp đa da tá ha

Nghĩa là : Thẳng mình ngồi ngay – Cầu cho chúng sanh

          Ngồi tòa Bồ đề-  Lòng không nhiễm trước

          Niệm bài kệ này là để nhắc nhở mình hằng sống trong Tánh Giác Bồ Đề, không móng tâm nhiễm trước cảnh vật bên ngoài.

          Kế đó, tay giở bát lật ngửa lên rồi đọc bài kệ :

          Như Lai ứng lượng khí -  Ngã kim đắc phu triển

          Nguyện cúng nhứt thiết chúng -  Đẳng Tam luân không tịch.

          Ý nghĩa nhắc mình trụ tâm ngay vào cái bát để nhớ rằng : Bát đựng cơm của Phật chế ra, tôi nay được giở lên, nguyện cúng cho tất cả chúng sanh, cả ba vầng đều vắng lặng.

          “ Ba vầng” là : Người cúng thí, kẻ thọ thí và vật bố thí đều là Tự Thể Chơn Không vắng lặng bình đẳng, nếu không chấp có tướng người,  tướng ta , tướng vật để so đo phân biệt.

  Giở bát lên rồi, mắt nhìn vào cái bát trống không, niệm bài kệ :

          Nhược kiến không bát -  Đương nguyện chúng sanh

          Cứu cánh thanh tịnh -  Không vô phiền não.

          Nghĩa là :  Quán cái bát không mà cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều được rốt ráo thanh tịnh không còn phiền não.

          Khi bới cơm vào đầy bát thì niệm bài kệ :

          Nhược kiến mãn bát-  Đương nguyện chúng sanh

          Cụ túc thạnh mãn – Nhứt thiết thiện Pháp

          Nghĩa là : Chúng ta tu pháp Đại thừa, khi làm việc gì cũng nhớ độ thoát chúng sanh, chứ không chỉ cầu cho riêng mình. Do đó, khi nhìn vào bát đầy thì phát tâm cầu cho chúng sanh đều chứa đựng đầy đủ tất cả pháp lành. Kế đó, vị thị giả cầm dùi gõ bảng ba tiếng  để cho tất cả đại chúng đều nhiếp tâm vắng lặng đặng cúng dường Tam Bảo. Mỗi người đều cầm lấy cái bát của mình để trên ba ngón tay trái, còn tay phải bắt ấn Cam lồ, đưa lên trước trán đọc bài cúng dường .

          Cúng dường Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật

          Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật

          Thiên bá ức hóa thân Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật

          Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật

          Cực lạc thế giới A Di Đà Phật

          Thập phương tam thế nhứt thiết chư Phật

          Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát

          Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát

          Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát

          Chư tôn Bồ Tát Ma Ha Tát

          Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật

          Tam đức lục vị, cúng Phật cập Tăng

          Pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường

          Nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh

          Thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn

          Tụng xong rồi để bát xuống :

          Giải thích bài kệ cúng dường :

          Người Hành Thiền Tự Tánh, khi thọ trai phải nhớ nghĩ ngay đến Đức Tỳ Lô Xá Na là Pháp Thân thanh tịnh của Phật ở cùng khắp cả pháp giới, mà Tự Tánh thanh tịnh của chúng ta cũng ở cùng khắp cả pháp giới.

          Nhơn khi cúng dường Đức Tỳ Lô Giá Na tức là cúng dường Tự Tánh thanh tịnh của mình vậy.

- Cúng dường Viên Mãn Báo Thân Lô Giá Na là cúng dường Thân Công Đức- Trí Tuệ viên mãn của Phật. Tụng như vậy là để nhắc lại cho chúng ta nhớ phải luôn luôn cố gắng tu hành cho thật đầy đủ công đức trí tuệ của Đức Phật Lô Xá Na.

- Cúng dường Thiên Bá Ức Hóa Thân là cúng dường cho Phật Thích Ca Mâu Ni, là Thân ứng Hóa, tùy duyên, tùy loại. Tâm Phật vắng lặng, như như bất động, chỉ vì lòng Đại Bi mà ứng hóa ra trăm ngàn muôn ức thân để cứu độ chúng sanh.

          Trên đây là nói ba Thân của Phật: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Trong mỗi người chúng ta đây cũng đủ ba Thân, nên chúng ta mới hằng sống với Tánh Giác Bồ Đề thì ba Thân sẽ hiện bày.

- Cúng dường Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật là cúng dường Đức Phật vị lai, mà chúng ta đang tu đây cũng là đang thực hành công hạnh của Phật tương lai.

- Cúng dường Cực Lạc thế Giới A Di Đà Phật là Đức Phật có lòng Đại Bi vô lượng , phát ra 48 lời nguyện tạo thành thế giới Cực Lạc phương Tây để tiếp dẫn chúng sanh về An Dưỡng. Vậy chúng ta cúng dường Ngài là để phát tâm, nguyện tu hành cho được thanh tịnh để phát hiện Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ.

- Cúng dường thập phương tam thế nhứt thiết chư Phật là chư Phật trong mười phương ba đời nhiều vô lượng vô số, chúng ta đều nguyện cúng dường khắp tất cả trong bửa ăn hôm nay.

- Cúng dường Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là để nhắc nhở cho chúng ta cố gắng tu hành được Giác Ngộ, đạt được Trí Huệ thù thắng như Ngài văn Thù vậy.

- Cúng dường Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là để noi theo hạnh nguyện rộng lớn của Ngài Phổ Hiền, ba nghiệp không mòn mỏi, niệm niệm không xen hở.

- Cúng dường Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát là để noi theo đức tánh Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn của Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát.

- Sau hết là đem thức ăn này cúng dường Chư Đại Bồ Tát trong mười phương thế giới.

- Câu Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật tức là nhắc nhở chúng ta lúc nào cũng hằng sống với Trí Tuệ Cứu Cánh, niệm niệm không hề xen hở dù là trong một bửa ăn đi nữa.

- Tam đức là ba đức tánh quý báu của Phật : Pháp thân Đức, Bát Nhã Đức và Giải Thoát Đức.

- Giải Thoát Đức ; Tuy cúng dường rộng lớn và cùng khắp mà không có bốn tướng : Nhơn, Ngã, Chúng sanh, Thọ giả. Tam Luân Không Tịch nên Tâm không khởi chấp Nhơn, chấp Ngã, chấp Pháp, lặng lẽ tròn sáng, tức là sống với Tự Tánh, nên nói :  Bát Nhã không chấp tức Giải Thoát.

- Bát Nhã Đức : Người luôn tỉnh thức thấy rõ Thể Tánh Chơn Không mà Diệu Hữu của các Pháp, nên lúc nào cũng sáng suốt và chiếu soi các Pháp, nên nói Pháp Thân chẳng Si tức Bát Nhã và Bát Nhã không chấp tức Giải Thoát.

- Pháp Thân Đức :  Người trở về sống với Tự Tánh của mình. Tuy cúng dường mà Giải Thoát ngay trong hạnh cúng dường, nên nói :  Giải Thoát Tịch Diệt tức Pháp Thân.

Như vậy, Giải Thoát Đức là Tướng của Pháp Thân. Bát Nhã Đức là Dụng của Pháp Thân. Pháp Thân Đức là Thể của hai  Đức trên.

          Khi cúng dường phải đủ ba Thân thì mới đầy đủ công đức. Tuy nói Ba Đức mà chỉ có một Đức. Tuy nói ba Thân mà thiệt ra chỉ có một Thân.

- Lục vị :  Theo kinh Niết Bàn, Lục vị có hai nghĩa :

- Đối với thế gian :  Có sáu Vị là mặn, ngọt, cay, chua, đắng và lạt. Chúng sanh mê mờ nên nhiễm trước theo sáu vị nầy.

- Đối với Xuất thế gian : Cũng có sáu Vị : là Khổ, Lạc, Thường, Ngã, Vô Thường, Vô Ngã.

          Tụng câu này nhắc cho chúng ta nhớ :  Đối với thức ăn đừng nhiễm vào sáu thứ mùi vị của thế gian, mà phải thường nếm sáu Vị  Xuất thế gian để vui trong Pháp tu Giải Thoát  thanh tịnh.

          Câu cúng Phật cập Tăng, Pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường có nghĩa là :  Trước hết phải đem thức ăn  mình cúng Phật rồi sau mới cúng Tăng, kế đó đồng cúng cho các loài hữu tình trong Pháp giới.

- Câu Nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh, Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn, có nghĩa là : Ngay trong bữa ăn này cầu nguyện cho mình và chúng sanh lấy sự vui trong cảnh Thiền Định làm thức ăn, và lấy sự hoan hỷ  trong Pháp tu làm no đủ.

          Kế đó, vị Duy Na gắp bảy hạt cơm để trong chung nước rồi vẽ chữ Án Lam và niệm thầm bài kệ :

          Pháp lực bất tư nghì  

          Từ bi vô chướng ngại

          Thất liệp biến thập phương

 Phổ thí châu sa giới

          Thần Kim Sí Điểu Vương

La Sát Quỷ Tử Mẫu

          Tất linh giai sung mãn

          Án Độ Lợi ích Tóa Ha ( 3 lần )

          Ý nghĩa :  Pháp lực của Phật pháp không thể nghĩ bàn

           Lòng Từ Bi không có chi chướng ngại

          Với bảy hạt cơm nầy sẽ biến đầy khắp cả mười phương

          Bố thí cho hằng hà sa số các loài

          Mẹ con quỷ Khoáng Giả và chim thần cánh vàng (chim đại bàng).   Tất cả đều được no đủ. Sự bố thí  đều khắp, không sót loài nào.

Giải thích thêm: theo thời sự ngày nay, chúng ta mới có thể hiểu được thần lực của 7 hạt cơm mà biến đầy cả pháp giới, trong Phật pháp nghe không thể  hiểu, không thể tin được. Nhưng nay ta đem con Vi rút Covid Cô Rô Na 19 ra để so sánh và chứng minh thì hiểu được câu thần chú này. Một con vi rút hóa hiện ra ngàn con vi rút khác, ngàn con vi rút khác lại hóa hiện ra ngàn ngàn, triệu triệu con lan tỏa khắp thế giới từ Đông sang Tây. Làm cho con người với nền khoa học tiên tiến nhất trên toàn thế giới đau đầu không đánh bại được con vi rút vô cùng tinh vi lợi hại này.

          Con vi rút này từ đâu xuất hiện mà làm cho cả thế giới run sợ khủng hoảng cả tinh thần lẫn vật chất làm đảo lộn cuộc sống con người như thế ? Tức nó bắt nguồn từ ý niệm của con người mà ra. Trong kinh Bát Đại Nhơn Giác Phật đã có nói về sự vô thường và hủy hoại trong thế giới con người như sau :

           “ Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã,  sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ.  Tâm thị ác nguyên, hành vi tội tẩu, như thị quán sát, tiệm ly sanh tử.

          Nghĩa là : Thế gian này vô thường luôn luôn thay đổi, đất nước nguy hại, bốn đại khổ không, năm ấm  không có ngã, sanh rồi diệt thay hình đổi dạng, hư ngụy không chủ. Tâm là nguồn gốc của muôn ngàn sự tội lỗi. Quán sát như vậy lần lần xa lìa sanh tử.

          Xong rồi vị Duy Na xướng Tăng bạt  :

                    Phật chế Tỳ kheo thực tồn ngũ quán

          Tán tâm tạp thoại tín thì nan tiêu

          Đại chúng văn khánh thinh

Các các chánh niệm :

                   Nam Mô A Di Đà Phật .

          Nghĩa là : Đức Phật dạy Tăng Ni khi ăn phải quán tưởng năm điều : Nếu tán tâm mà nói chuyện xì xào thì cơm tín thí khó tiêu được. Đại chúng nghe tiếng khánh phải giữ tâm Chánh niệm, đừng cho tạp niệm. Nghĩa là : Từ lúc ngồi đến khi cúng dường thì tâm đã an trụ vào chỗ thọ trai. Nhưng Phật còn sợ chư Tăng phóng tâm ăn  nên mới nhắc nhở lại câu này để tất cả đại chúng nghe đồng thực hành.

          Kế đó tụng tiếp bài chú tiêu độc :

                   Án Tam Bạt Ra Dà Da ( 7 lần ).

          Ý nghĩa bài chú này có năng lực tẩy trừ độc tố trong thức ăn, mà cũng có ý tẩy trừ độc tố Tham, Sân, Si trong tâm mình cho sạch trước khi thọ thức ăn. Xong rồi thì hai tay bưng bát cơm đưa lên trán niệm bài kệ :

          Chấp trì ứng khí, đương nguyện chúng sanh

          Thành tự pháp khí, thọ thiên nhơn cúng

          Án chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra.

          Nghĩa là :  Hai tay bưng bát cơm này,  cầu nguyện cho tất cả chúng sanh được thành tựu Bậc Pháp Khí để thọ lãnh người và trời cúng dường  ( Pháp Khí là những bậc Cao Tăng Thạc Đức có năng lực lãnh đạo đồ chúng, truyền bá Giáo Pháp trong nhơn gian ).

          Kế đó là cúng Lưu phạn. Lấy một ít cơm để ra chén nhỏ và đọc thầm bài kệ :

          Di kim sở tu chứng

          Phổ triêm ư quỷ chúng

          Thực dĩ miển cực khổ

          Xả thân sanh lạc xứ

          Bồ tát chi phước báu

          Vô tận nhược hư không

          Thí hoạch như thị quả

          Tăng trưởng vô hưu tức

          Án độ lợi ích tóa ha

          Ý nghĩa :  Nay dùng món ăn này để tu phước, rải khắp cho các chúng ngạ quỷ, ăn rồi hết cực khổ, bỏ thân sanh cõi vui an vui,  phước báu của Bồ Tát, nhiều vô tận như hư không, bố thí được quả báu như vậy, tăng trưởng không bao giờ hết.

          Kế đến là Tam Đề, là ba đề mục phải quán khi ăn ba miếng cơn lạc :

- Nguyện trừ tất cả các việc ác

- Nguyện làm tất cả các việc lành

- Nguyện độ tát cả chúng sanh

          Xong rồi bưng bát cơm ngang ngực, quán năm điều :

- Xét đến công lao nhiều ít của thí chủ và tìm hiểu thức ăn này từ đâu đem đến.

- Xét đức hạnh của mình thiếu hay đủ để thọ thực phẩm này.

- Đề phòng tâm ý tránh sự lầm lỗi, mà Tham, Sân, Si là nguồn gốc của tội lỗi.

- Xem thức ăn như một món thuốc hay để chữa lành thân thể ốm gầy.

- Vì muốn thành tựu Đạo quả mà thọ thực phẩm này.

 Trong khi ăn phải quán sát năm điều này thì không tán tâm duyên theo cảnh khác. Đó là cách quán thông thường của chư Tăng ở trong chùa. Còn khi Hành Thiền Tự Tánh là khi thọ trai phải thu hồi vọng tưởng phóng ra từ sáu Căn, đồng thời nhiếp lại một chỗ, an trụ trong Tự Tánh Thanh Tịnh của mình. Mắt và tai phải thu nhiếp lại để điều khiển sáu căn. Khi tay gắp thức ăn thì biết mình đang gắp. Khi đưa thức ăn vào miệng thì biết mình đưa nó vào miệng. Khi nhai thì biết mình đang nhai. Ngon dở, mặn lạt…đều biết rõ ràng vì mình đã chế tâm ngay vào chỗ Căn đang hoạt động.

          Cái biết của người Hành Thiền Tự Tánh là cái biết rõ ràng không khởi tâm thương ghét, không nhiễm đắm thức ăn. Bởi vì làm chủ được Ý thức nên không bị cái biết làm động tâm, nhiễm trước vào thức ăn.

          Dù ngon hay dở cũng chỉ tạm dùng đủ no đặng nuôi mạng sống để tu hành, chớ không phải vì món ăn ngon dở mà khởi tâm phiền não.

          Trong lúc thọ trai, đại chúng yên lặng để Hành Thiền. Cả sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần mà không đắm nhiễm theo trần Cảnh ( là thức ăn ) gọi là Huệ của người Hành Thiền Tự Tánh. Trong thức ăn có đủ sáu trần là màu sắc món ăn, tiếng nhai dòn khứu, mùi thơm thức ăn, vị ngọt béo, xúc chạm mềm cứng của món ăn, pháp trần của món ăn đã gợi lại trong trí ( ý thức ).

          Lúc ăn mà tâm không rối loạn, không khởi tạp niệm, không chạy theo sự phân biệt của Ý thức, an trụ tâm một chỗ lặng lẽ thanh tịnh, thì gọi đó là Định trong lúc thọ trai.

          Trong khi Hành Thiền thọ trai, nhất nhất oai nghi chỉnh tề trang nghiêm, từ tốn nhẹ nhàng, điềm đạm hòa hưỡn, vén khéo sạch sẽ, tế nhị kỹ lưỡng… Khi ăn nhai chậm rãi từ từ, nhai thật kỹ, nhuyễn, để thức ăn trộn với nước miếng tạo thành chất đề hồ bổ dưỡng cho cơ thể. Ăn vừa đủ no mà thôi, không ráng ăn quá no mà sanh bịnh. Khi thọ trai, thân chẳng thô tháo, sáu Căn chẳng buông lung theo sáu Trần là Lục vị, thì đó là Giới của người Hành Thiền thọ trai. Giới của Tự Tánh chính là diệu dụng của Tự Tánh đã hiển bày qua sáu Căn. Cho nên người Hành Thiền Tự Tánh trước phải tu Huệ, trong Huệ có Định, và cuối cùng là thể hiện ra Giới Thể của Tự Tánh ở sáu Căn.

          Thời tu trong bữa ăn khó hơn thời tu trong lúc Tụng Kinh, Tọa Thiền. Vì trong lúc Tụng Kinh hay Tọa Thiền là tránh cảnh để tu. Trái lại, thời thọ trai là xúc cảnh để tu mà giữ tâm không cho động nhiễm theo sáu trần bằng cách làm chủ sáu Căn nhiếp phục sáu Thức. Đối với bữa ăn thịnh soạn mà mình không nhiễm tức là đã tự chiến thắng được dục vọng trong tâm, để khi mình hành Bồ Tát Hạnh ở ngoài đời thì tâm mình cũng an nhiên bất động trước những cảnh danh lợi tình tiền cám dỗ. Cho nên đây là thời tu rất rốt ráo.

Sau khi ăn cơm xong đến phần uống nước, cũng niệm bài chú                           Phật quán nhứt bát thủy

                    Bát vạn tứ thiên trùng

                    Nhược bất trì thử chú

                    Như thực chúng sanh nhục

          Nghĩa là Đức Phật xem trong một bát nước, có tám vạn bốn ngàn vi trùng, nếu không trì chú này, như ăn thịt chúng sanh vậy.  Đức Phật dạy trì chú này tức để cầu nguyện cho chúng nó, thì mình mới khỏi tội sát sanh. Như vậy là để thể hiện lòng Đại Bi vô lượng của Đức Phật đối với cả loài vi trùng nhỏ nhít mà mắt thường chúng ta không thể thấy được.

          Sau khi thọ trai xong, đại chúng đồng chấp tay tụng bài kệ “ Kiết trai” như sau :

          Sở vị bố thí giả   -  Tất hoạch kỳ lợi ích

          Nhược vi nhạo bố thí – Hậu tất đắc an lạc.

          ( Sở dĩ bố thí đây  - Ắt được nhiều lợi ích

          Nếu vì vui bố thí – Sau sẽ được quả an vui )

          Ý nghĩa: Tri ân thí chủ và cầu phúc cho thí chủ nhân công đức bố thí này hưởng được nhiều phước báu cõi Nhơn Thiên.

           Sở dĩ phải áp dụng nhiều nghi thức trong lúc thọ trai là để chế ngự cái tật háu ăn hốt uống, vội vã gấp gáp, không biết kính trên nhường dưới, cử chỉ lụp chụp làm mất oai nghi. Nhờ áp dụng các nghi thức mà nhiếp phục được tâm, không nhiễm trước món ăn là Thiền, không vội vã lụp chụp là Định. Thiền Định được trong lúc ăn thì sẽ Thiền Định được khi tiếp xúc với sáu Trần bên ngoài.

          Sau khi Tụng Kinh hồi hướng xong, đại chúng đồng lên xá Tổ và đi kinh hành. Kinh hành đây là một pháp tu rất tốt về hai mặt thể xác và tinh thần .

- Thể xác : Rất hợp vệ sinh, vì ăn cơm no nên đi tản bộ vài vòng để cho tiêu hóa thức ăn.

- Tinh thần : Thọ trai là Hành Thiền trong lúc ngồi. Còn Kinh hành là Hành Thiền trong lúc đi, để tâm lúc nào cũng trụ trong Tự Tánh. Mỗi bước chân là một câu niệm Phật. Niệm niệm không xen hở là hằng sống với Phật Tánh của mình lúc đi.

          Tập kinh hành, đi quen như vậy, lâu ngày thuần thục rồi, khi đi ra ngoài, mỗi bước là một bước chân Kinh Hành Niệm Phật, tâm không phóng theo trần cảnh bên ngoài mà sanh vọng tưởng phiền não.

          Trên đây là phần nghi thức thọ trai ở chùa, còn thọ trai ở nhà thì nhẹ gọn hơn như sau:

          Khi tới giờ ăn cơm, cơm được dọn xong, mọi người trong nhà cùng đứng quanh bàn ăn, chấp tay xá ba xá rồi ngồi xuống, bới cơm ra chén, đồng chấp tay niệm thầm câu danh hiệu  Phật  “ Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”  ba lần, rồi bưng chén cơm đưa lên trán niệm thầm câu “ Nam mô cúng dường thập phương Phật, Nam mô cúng dường thập phương Pháp, Nam mô cúng dường thập phương Tăng”. Xong rồi để chén cơm xuống, dùng muỗng hay đũa ăn ba miếng cơm lạt, niệm thầm : “ Nguyện dứt bỏ các điều ác, nguyện làm các việc lành, nguyện độ tất cả chúng sanh”. Niệm xong rồi tất cả đều dùng cơm mà tâm an tịnh trong Thiền, không nói chuyện, không cười đùa, không khen chê ngon dở, không nhiễm trước món ăn ngon, mà phải biết nhường món ngon cho cha mẹ, anh chị mình, ăn từ tốn, nhai kỹ, không ăn lớn tiếng, không nuốt trộng, thân ngồi ngay thẳng oai nghi tề chỉnh, ăn xong đứng dậy xá rồi lui ra.

          Về phương diện ẩm thực để nuôi mạng căn, thì người Hành Thiền Tự Tánh phải biết cách ăn uống cho đúng pháp họp đạo thì cơ thể mới được khỏe mạnh. Đồ ăn cũng góp phần quan trọng để giúp mình làm chủ được thân, vì thức ăn của người tu khác với thức ăn người thế tục. Người đời thích ăn cao lương mỹ vị, thịt cá béo bổ, có nhiều kích thích tố, làm cho thân họ bị kích thích đòi hỏi, ham muốn đủ điều rồi tạo thành nghiệp Sát, Đạo, Dâm, Vọng, tánh tình nóng nảy hung dữ….

          Phật dạy người tu nên ăn chay để cho thân thể được nhẹ nhàng mát mẻ, không nhiễm những độc tố của cá thịt và thú tánh của loài vật, trong đó có tánh ngu si đần độn, tánh hung hăng háo sát và tánh dâm dục háo sắc của loài thú là nặng nhất.

          Tuy nhiên, thức ăn chay cũng có hai phần âm và dương. Thân thể của mình cũng có hai phần âm và dương, tương hợp tương khắc. Nếu chúng ta không biết dùng cho đúng cách thì sức khỏe cũng bị suy kém. Có nhiều vị xuất gia hay tại gia ăn chay thường bị bịnh hoạn yếu ớt, da mặt xanh mét, là do ăn chay không đúng pháp khiến cho nhiều người hiểu lầm là do ăn chay thiếu chất bổ nên ăn chay hay bịnh, rồi không dám ăn. Nay kể một vài điểm chánh trong việc ăn uống để người tu hành biết mà áp dụng hoặc ngăn ngừa.

          Người nào da mặt hồng hào, cặp mắt trong sáng, làm việc nhanh nhẹn, tánh tình nóng nảy là người thuộc Dương tính.

          Người nào ốm yếu hoặc béo phì mà da mặt xanh mét, cặp mắt lừ đừ, mờ đục uể oải lười biếng, không thích hoạt động, hay trầm ngâm, ưa vắng vẻ hoặc hay chán nản thì đó là người thuộc Âm tính.

          Người Dương tính thì phải dùng thức ăn Âm tính để trung hòa cơ thể thì sinh hoạt mới bình thường, trí năng mới sáng suốt, ôn hòa tươi tỉnh, nhã nhặn điềm đạm. Trái lại người Dương tính mà dùng thức ăn nhiều Dương tính thì chất Dương sẽ tăng lên nhiều quá mức bình thường, sẽ sanh ra nóng nảy, càng bướng, hay sân, đa dâm, háo sát…chẳng khác nào lửa cháy mà chế thêm dầu thì lửa càng bùng cháy lớn hơn.

          Người có Âm tính thì phải dùng thức ăn Dương tính để bổ túc phần Dương cho thân thể được mạnh khỏe vui tươi, siêng làm, ít mệt mỏi … Trái lại người Âm tính mà dùng thức ăn có nhiều Âm tính thì càng làm cho cơ thể bạc nhược suy yếu, đi đứng không vững, làm việc hay mệt, da mặt xanh xao vàng vỏ, với người nam thì hay bị di tinh, hượt tinh, còn người nữ thì hay bị bạch đới làm tiêu mất tinh huyết trong người, lần lần sẽ bị yểu tử.

          Vậy thức ăn nào thuộc về Âm hay Dương đặng áp dụng hằng ngày ?

          Món nào có tính mát lạnh, chứa nhiều nước như các loại trái cây, dưa mướp, bầu bí, các loại củ, nước đá, bún tươi, các vị ngọt, chua, mặn thuộc về chất âm.

          Món nào nóng, khô ráo, sinh nhiều nhiệt lượng như các loại ngũ cốc ( gạo, mè, đậu nành, đậu đỏ ), bí rợ, rau diếp, boa rô, ngò tây, cà rốt, xà lách son, trái táo, dâu tây, tương hột, dầu mè, đậu phụng, đậu hũ…là thuộc về chất Dương. Một kg đậu hũ hay một kg cà rốt bổ hơn một kg thịt bò, thịt heo, mà lại rẻ tiền, mau tiêu hóa hơn.

          Người làm trai soạn trong nhà bếp cần phải biết rõ những món ăn Âm và Dương trên đây đặng mỗi ngày chế biến thức ăn cho điều hòa Âm Dương thì đại chúng  mới ít bịnh hoạn ốm yếu. Trừ trường hợp cá nhân nào đau nhiều cần phải có thức ăn riêng để phù hợp với căn bịnh thì phải nấu riêng.

          Ngoài các món ăn thức uống thông thường,  hằng ngày chúng ta còn có hai  món ăn đặc biệt rất quan trọng mà vô hình, ấy là ánh sáng và không khí. Đó là nguồn sống thiên nhiên của vũ trụ.

          Nhờ có không khí mà chúng ta hít thở vào buồng phổi làm cho tim đập, mạch nhảy, gân động, máu huyết lưu thông.

          Nhờ có ánh sáng mặt trời hấp thu vào bì phu tạo thành  nhiều sinh tố làm cho da dẻ hồng hào ấm áp, huyết cầu tăng trưởng giúp cho sự tiêu hóa và bài tiết dễ dàng các chất cặn bả trong người. Ánh sáng còn trị được nhiều bịnh như: phù thủng, tê bại, và lớn tim nữa. Nếu không có ánh sáng mặt trời thì thế giới này biến thành quả đất chết, vì nó tối tăm, mịt mù, lạnh lẽ. Chẳng những loài người mà đến cây cỏ cũng không sống được. Ánh nắng mặt trời là một nguồn năng lượng vô cùng vô tận, lợi ích cho muôn loài vạn vật, cũng như Phật pháp là món ăn tinh thần vô cùng quý giá làm cho chúng sanh hết khổ dứt mê, trở về Tánh Giác Bồ Đề vĩnh viễn an vui.

{]{

THÂN VÀ TÂM

          Cơ thể con người có hai phần, phần thân và phần tâm, hay là phần vật chất và phần tinh thần. Phần thân tức phần thể xác thì dễ nhận thấy còn phần tâm thuộc về tinh thần khó thấy. Cơ thể con người giống như một dòng sông; dòng sông giống như con sông , còn dòng nước giống như tâm. Nước sông trong sạch thì dòng sông có giá trị; nước sông đục thì dòng sông không dùng được.

          Tâm ta rất khó thấy, nhưng nó rất lợi hại. Bởi tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác, nếu tâm ô nhiễm nói hay hành động thì khổ não sẽ theo như bánh xe theo chân con vật kéo.  Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác, nếu với tâm thanh tịnh nói lên hay hành động, an lạc bước theo sau, như bóng không rời hình  (Kinh Pháp Cú, Phẩm Song yếu).  Ví như hồ nước rất đẹp, nhưng nước trong hồ bẩn đục thì không thể dùng vào đâu được, cũng vậy thân ta có đẹp như nàng tiên hay như hoa hậu, nhưng tâm lý bị khuấy động ô nhiễm, thì cái đẹp của thân có nghĩa lý gì đâu ? Tâm trong sạch thì thân mới có giá trị.

          Đức Phật dạy cho ta một phương pháp huấn luyện tâm thù thắng và cụ thể rõ ràng. Ví như một cây sắt nhọn, đặt nằm ngang, chúng ta đặt bàn tay lên trên thì không sao. Nếu đặt cây sắt nhọn theo chiều đứng, đặt bàn tay lên sẽ đâm thủng bàn tay. Cũng như vậy, nếu ta có được gươm trí tuệ nhọn bén, nó sẽ đâm thủng màn vô minh, thấy được Niết bàn giải thoát. Dù là cư sĩ tại gia hay xuất gia nếu đặt tâm không đúng chỗ thì sẽ không đạt được chánh pháp tối thượng.

          Đức Phật ví dụ như một hồ nước đục, thì đứng trên bờ không thể thấy cá, cua, tôm , đá san hô .. ở dưới nước, cũng như người không rèn luyện tâm trong sáng, không trau dồi thân khẩu ý trong sạch, sẽ không có lợi ích cho mình và người khác, không thấy được chánh pháp, không chứng đắc an lạc.  Ngược lại như hồ nước trong, ta sẽ thấy mọi vật trong hồ nước. Cũng thế người tu tập gột rửa các cấu uế  trong thân tâm, trau dồi thân tâm thanh tịnh, trong sáng thì sẽ đạt được an lạc cho mình và người khác, chứng được đạo quả.

          Từ đó chúng ta thấy Phật dạy phải xem nhẹ phần thân, phải luôn chú trọng phần tâm của chúng ta. Bởi tâm sẽ làm cho con người hoàn thiện, đẹp đẽ và mọi người yêu mến. vì vạn pháp do tâm tạo.  Do đó chúng ta phải thường xuyên theo dõi tâm, không để tâm phóng túng, buông lung. Không để cho tâm ác ngăn chận tâm thiện phát khởi.

          Có năm điều làm cho tâm luôn cấu uế, mê muội, không nhận thức được, không phân biệt được đúng sai, thiện ác, như một màng lưới bao trùm không thể thoát được. Đó là năm triền cái kết thành màng lưới trói buộc thân tâm chúng ta.

          1/ Tham dục : Những mong cầu dục lạc qua năm giác quan, như sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục và xúc dục.

          2/  Sân hận : Tâm tức giận đối với mọi hoàn cảnh không vừa ý hay do người khác làm trái ý mình.

          3/ Hôn trầm – Thụy miên :  Sự mệt mỏi của thân và sự rã rời của tâm. Hay nói cách khác là sự nặng nề của cơ thể và mơ màng tâm thức.

          4/ Trạo cử - hối quá : Thân không yên ổn tâm lăng xăng.

          5/ Nghi ngờ”: Trạng thái do dự, không nhất quyết nhận ra điều nào đúng sai. Nghĩa là trong tâm còn thắc mắc về khả năng tu tập của mình hoặc nghi ngờ các pháp học pháp hành, không biết mình tu như thế có đúng không ?

          Vì thế, khi tâm thiện phát khởi lên thì thực hiện ngay, không để cho tâm ác ngăn cản, sinh ra tâm do dự. Thì phước đức sẽ rất lớn. Tất cả mọi việc đều tùy thuộc vào tâm thanh tịnh hay không. Do đó người tu tập phải luôn quán sát tâm, gột rửa tâm, thấy đúng, nghỉ đúng, làm đúng, nói đúng, để dòng nước tâm thức thanh tịnh mãi mãi trong xanh, để tâm từ bi, trí tuệ ngày càng thêm lớn ./.

{]{

DUY TÂM TỊNH ĐỘ LÀ KIẾN TÁNH

          Từ xưa đến nay, đa số người tu về pháp môn Tịnh Độ đều có chí nguyện cầu vãng sanh Tây phương. Chỉ có một tối thiểu Duy Tâm Tịnh Độ mà thôi, đó là các nhà thâm sâu về Phật Học. Tại sao Duy Tâm Tịnh Độ không được phổ thông ?  Bởi lẽ rất dễ hiểu là Duy Tâm Tịnh Độ đồng nghĩa với Minh Tâm Kiến Tánh, mà nói cho đủ là  “ Tự Tánh Di Đà, Duy Tâm Tịnh Độ”. Trong kinh Duy Ma Cật có một câu tuy vắn tắt, nhưng đã nói lên rõ ràng cái lý nghĩa Duy Tâm Tịnh Độ là “ Tùy kỳ tâm tịnh tức Phật độ tịnh” nghĩa là “ Tùy theo cái tâm của mình thanh tịnh thì đó chính là cõi Tịnh Độ của Phật vậy”.

          Duy Tâm Tịnh Độ ý nghĩa sâu xa lắm, khó mà nói cho cùng tận được, vì vậy ở đây xin giải thích theo nghĩa thông thường cho dễ hiểu :

- Duy là chỉ có.- Tâm là lòng . – Tịnh là sạch. – Độ là quốc độ.

Nghĩa là: Cõi quốc độ trong sạch, tức là cái lòng của mình thanh tịnh chớ không phải ở ngoài.

          Nói một cách khác là : Tây Phương Tịnh Độ là cái lòng trong sạch của mình, muôn sự vật đều do Tâm sanh ra, ngoài tâm không có sự vật. Muốn học Phật phải học Tâm. Muốn tu phật phải tu Tâm. Muốn thành Phật phải thành Tâm. Hễ Tâm thành thì Đạo thành.

          Kinh Hoa Nghiêm nói :

          Nhược nhơn dục liễu tri

          Tam thế nhứt thiết Phật

          Ứng quán Pháp giới tánh,

          Nhứt thiết  duy tâm tạo.

          Nghĩa là : người nào muốn biết tất cả Phật trong ba đời, phải quán sát các Tánh của các pháp, thì biết rằng cả thảy đều do Tâm tạo ra.

          Lý nghĩa Duy Tâm của Phật học, chẳng phải cái nghĩa nông cạn như Duy Tâm  Luận của các phái Triết Học hay Thần Học. Theo Phật học, nếu lấy cái Tổng Tướng Y báo Chánh báo của mười cõi ( sáu Phàm bốn Thánh ) mà nói, thì đó là Duy Tâm tạo. Trái lại, phân biệt ra các Pháp thì gọi là “ Vạn Pháp Duy Thức” hay “ Duy Thức biến”.

          Tâm với Thức khác nhau thế nào ?

- Điều đó không có gì khó hiểu, phần nhiều kinh Phật cho Thức là Vọng, đó là nói về chỗ sai biệt của Tâm Tướng, của hiện tượng… Trái lại, nếu theo Chơn Lý viên dung bình đẳng thì kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói rằng : “ Cái Tánh của Thức tức Tánh Biết của Bản Minh, cái Tánh Bản Giác Diệu Minh ấy, thực ra là cái Thức chớ không chi lạ, nhưng nó theo nghiệp duyên phát khởi cùng khắp pháp giới mà vẫn Như Như bình đẳng, không có Năng Sở. Các Thức ấy theo duyên mà phát khởi, nên gọi là Diệu, bình đẳng cùng khắp, nên gọi là Như. Thế thì các Tánh của Thức đại, thật ra chỉ là Tánh của Diệu Chơn Như của Như Lai Tạng vậy.

          Xem thế đủ biết rằng : Nói Duy Tâm hay Duy Thức là tùy trường hợp phân biệt các pháp lý, còn nói về Như Lai Tạng thì không có gì sai biệt.

          Khoa học nói “ Vật sanh Tâm” đồng nghĩa với Phật Học nói “Pháp sanh Tâm”. Nhưng nghĩa lý của chữ Pháp rộng hơn chữ Vật nhiều, bởi vì nó trùm cả vũ trụ vạn hữu, trùm cả hư không thế giới, gọi là Pháp.

          Nói Vật hay Pháp sanh Tâm cũng chưa đúng. Bởi vì mới thấy cái ngọn chứ chưa thấy cái gốc. Như thế thì khoa học chưa thấy được nguồn gốc sanh ra tinh thần và vật chất.

          Phải biết rằng : Khoa học và Phật học nói Pháp sanh Tâm là nói cái Tâm Tướng chớ chẳng phải nói cái Tâm Thể, tức là chưa nói tới nguồn gốc sanh ra vũ trụ vạn hữu, nói tắt là tất cả tinh thần hay vật chất cũng đều do cái Tâm Thể sinh ra mới thành nghĩa Duy Tâm. Mà Tâm Thể là cái Tâm Chơn Như, là Bản thể  của vũ trụ vạn hữu vậy.

          Khoa học thì nhận thấy có Vật sanh Tâm bèn cho rằng : Tinh thần là con đẻ của Vật chất. Sự nhận định này,  cũng như Phật học nói: Bóng duyên của ngoại cảnh lục trần sanh ra Tâm, đó là Tâm thức,  vì ý thức duyên theo sáu Trần mà sanh ra phân biệt hiểu biết, rồi sanh ra tình cảm, tình thương, yêu, ghét, buồn, giận…

          Theo Phật học thì tinh thần và vật chất là cái hiện tượng của Bản Thể ( Tâm Chơn Như ). Nhưng cái hiện tượng ấy ( Tâm và Vật ) là Tâm Tướng, do cái nguồn gốc của nó là Tâm Thể sanh ra. Đó mới là đúng nghĩa của Duy Tâm. Dẫu cho thập phương hằng sa thế giới, dẫu cho Tây Phương Cực Lạc cũng không ngoài cái Tâm Thể Chơn Như ấy.

          Chúng ta nên biết thêm rằng:  Cõi Tây Phương cũng là một cái Dụng Tướng của Tâm Bồ Đề chứ không có gì lạ. Mà Dụng Tướng Bồ Đề thì tràn đầy khắp vũ trụ, làm ra Căn Thân thế giới, làm ra chúng sanh, làm ra tinh tú, địa cầu…Hiểu rõ như vậy mới rốt ráo hai chữ Duy Tâm, mới có thể chứng được Duy Tâm Tịnh Độ.

          Kinh Thủ Lăng Nghiêm có nói :  Hư không sanh trong Chơn Giác như chút mây ở giữa trời. Phải biết rằng : Hư không hàm chứa vô lượng vô biên thế giới, hư không lớn đến nổi không có ngằn mé, thế mà so sánh với Chơn Giác ( Chơn Tâm Diệu Giác ) cũng như một cụm mây nhỏ ở bầu trời, thật là không có lời lẽ nào nghĩ bàn cho được.

          Nói tóm lại,  Tịnh Độ Duy Tâm là Chơn Tâm của chúng sanh chứ không có gì lạ. Vì lẽ ấy, chứng được Duy Tâm Tịnh Độ là chứng được Chơn Tâm, chứng được Chơn Tâm là chứng được Niết Bàn. Thế là Niết Bàn đồng nghĩa với Duy Tâm Tịnh Độ.

          Niệm Phật Tam Muội là Kiến Tánh :

          Pháp niệm Phật rộng lớn, bao trùm tất cả giáo lý, tất cả phương tiện, các hạnh nguyện Bồ tát. Người tu Tịnh Độ nên biết trong lòng có hai thứ niệm : Một là niệm Phật, hai là niệm chúng sanh.

          Thế nào là niệm Phật ?

          Là tưởng nhớ đến Phật, cho đến tưởng nhớ đến các Pháp thanh tịnh, các Pháp trí tuệ, các pháp giải thoát, các pháp giác ngộ… cũng gọi là niệm Phật nữa… Tại sao vậy ? Bởi vì Phật là sáng suốt, là thanh tịnh, là giải thoát, là giác ngộ- Thế nên biết rằng : Tưởng niệm các Pháp ấy cũng gọi là niệm Phật.

          Thế nào là Niệm Chúng sanh ?

          Là tưởng đến các pháp tham, sân, si, Tà kiến, Ngã chấp. Kiêu mạn, Chấp thường, Chấp đoạn, Thương ghét, vui buồn… là niệm chúng sanh. Nếu hàng ngày luôn niệm Phật thì các chúng sanh trong lòng mình hấp thọ sự niệm tưởng ấy bèn được siêu độ lấy mình, hoặc dùng Tánh Phật độ Tánh chúng sanh. Niệm Phật được như vậy gọi là Minh Tâm Kiến Tánh.

          Thế nào là niệm Phật Tam Muội ?

          Tam muội nguyên là tiếng Phạn, người Tàu dịch là Chánh Định, Chánh Trí, Chánh Thọ. Người niệm Phật được nhất tâm thì tự nhiên an trụ vào Chánh Định, các Căn đều thanh tịnh. Cái Chánh Định này tự nhiên phát sanh, cũng như nước hết đục trở nên trong, chẳng phải bắt ép, chẳng phải gắng gượng, chẳng phải mong cầu. Do cái năng lực Chánh Định ấy lại nảy sanh ra Chánh Trí và Chánh Thọ, gọi là niệm Phật Tam Muội.

          Thế nào là Chánh Định ?

          Người niệm Phật lâu ngày, Tâm Tánh thanh tịnh, đối với các pháp không còn trụ chấp phan duyên nữa. Như thế, tuy không học Lý Trung Đạo mà thành Trung Đạo, nên biết rằng nghĩa Chánh Định ở đây có phần siêu việt trên các pháp đối đãi ( bởi không còn trụ hai bên biên kiến ) chớ chẳng phải ngồi lẳng lặng để cho vọng niệm không sanh, tạp tưởng không khởi mà gọi là Chánh Định. Có nhiều người chỉ tịch định trong lúc ngồi công phu quán tưởng, hoặc trong lúc ngồi Niệm Phật rồi cho mình đã được Chánh Định. Cái đó là Tịnh Định trong nhứt thời, nếu hết ngồi công phu là hết Định thì cái Định ấy đâu có công dụng trong chỗ nhựt dụng thường hành? Định như vậy không khác nào như bột xà bông, nếu đem ra gió thì phải tan rã còn dùng được việc gì ?

          Chánh Định lọc sạch Vô Minh, dầu gặp sóng gió thất tình lục dục cũng không lay động, không còn nhiễm ô trần thế,  tức là hoàn toàn thanh tịnh vậy.

          Thế nào là Chánh Trí ?

          Chánh trí là cái tri kiến chơn chánh, cái Trí này là Tri Kiến Phật. Hễ có Chánh Trí rồi thì không còn thấy có ta, có người, không còn thấy có nhơn, có pháp. Do chỗ không chấp Ngã, chấp Nhơn, chấp Pháp ấy mà thành tựu cái Pháp “ Vô  Sở Trụ”. Thành tựu pháp  “ Vô Sở Trụ ” tức là thành tựu Trung Đạo Trí vậy.

          Chúng ta nên biết rằng : Chánh Trí cũng có nghĩa là Trí Huệ Bát Nhã. Thế thì có Chánh Định mới có Chánh Trí, tức là nhơn Định mà phát Huệ. Mà Trí Huệ là Giác, Giác là Phật vậy. Hễ Trí Huệ nhỏ thì Pháp Thân nhỏ, còn Trí Huệ lớn thì Pháp Thân lớn. Pháp Thân nhỏ thì chứng Hữu Dư Niết Bàn của hàng tiểu quả Thanh Văn còn sót lại cái khổ quả biến dịch sanh tử. Còn Pháp Thân lớn thì chứng quả Vô Dư Niết Bàn không còn khổ quả biến dịch sanh tử. Nếu Pháp Thân càng lớn hơn nữa thì chứng được Vô Trụ Xứ Niết Bàn, là Niết Bàn của hàng Bồ Tát có lòng Đại Bi rộng lớn, quyết độ mình độ người đồng trọn thành Phật đạo. Bực này ở đâu cũng là Niết Bàn, không ưa cũng không chán chỗ nào nên gọi là Vô Trụ Xứ Niết Bàn. Các hàng Bồ Tát này tiến lên đi sâu vào Trung Đạo Diệu Trí, chứng được Chơn Như Tam Muội, hoàn toàn Minh Tâm Kiến Tánh thành Phật, gọi là Tánh Minh Niết bàn hay Đại Bát Niết Bàn.

          Chánh Thọ là thế nào ?

          Tức là Tâm chẳng tán loạn gọi là Chánh, dung nạp lấy một Pháp một Niệm mà thôi thì gọi là Thọ. Người nhập pháp Chánh Thọ thì thân thể không lay động tâm trí cũng yên tĩnh, các tư tưởng trong tâm đều dừng nghỉ, các sở duyên lo lắng thảy đều quên, chỉ chăm chú vào một mục đích duy nhất mà thôi. Trên quán Hạnh, bước phương tiện đầu tiên tác ý duyên cảnh gọi là Tư Duy. Khi pháp quán tưởng đã thành, tâm được tự tại khế hợp với Chân Cảnh gọi là Chánh Thọ.

                     ( Minh Chánh ) Trích  Tự Tánh Thanh Tịnh Thiền

{]{

CÔNG ĐỨC NIỆM  PHẬT

          Quả vị trong chín phẩm không ngoài hai tâm : Định tâm và chuyên tâm. Người tu theo định tâm thực hành theo định quán trong 16 phép quán sẽ được thượng phẩm thượng sanh,  người tu theo tâm chỉ niệm danh hiệu Phật, các thiện đồng về, hồi hướng phát nguyện  được vào hạ phẩm.

          Có người lấy bảy món báu trong thiên hạ cúng dường chư Phật, Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn, được phước rất nhiều, nhưng không bằng khuyên người niệm Phật được một tiếng, phước đó còn hơn phước cúng dường. Thật ra, dùng tài vật để bố thí giúp cho người khác khỏi đói nghèo trong một đời, dùng thực phẩm bố thí, giúp cho người nuôi mạng sống được vài năm, dùng pháp thí làm cho người khác thoát khỏi sanh tử, công đức rất lớn đâu có gì sánh bằng.

          Đem tiền của bố thì như ngọn đèn chỉ sáng một nhà, còn pháp thí như mặt trời soi sáng khắp thế gian. Biết chánh pháp mà không khuyên người khác tu, nhiều kiếp sẽ rơi vào ngục tối. Biết niệm Phật  và luôn khuyên người niệm Phật, dạy người khác niệm Phật, đời này chính thật là Di Đà. Giăng khắp mây lành, hết lời răn nhắc, đem lòng bi nguyện, kết hết tịnh duyên, vớt hết kẻ trầm luân trong biển ái, đem kẻ luân hồi ra khỏi sông mê. Tất cả đồng về Cực lạc, tra ơn sâu cho Phật.

{]{

 

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHÂN QUẢ VÀ THUYẾT ĐỊNH MỆNH CỦA NHO GIA.

          Nhân quả, luân hồi nghiệp báo là thuyết của nhà Phật thường hay đề cập đến.  Nhân quả, luân hồi:  Nhân là từ chữ nhân duyên mà ra, còn quả là kết quả. Ví như trồng cây, sau cây lớn lên sinh ra trái, trồng cây là nhân mà trái là quả , Ăn thì no, uống nước thì đỡ khát. Vậy thì, ăn uống là nhân, còn no và đỡ khát là quả. Ở đời, không một vật gì tự nhiên mà có. Như cái ghế ta dùng ở đây, phải do gỗ và nhân công mới thành. Nếu không có gỗ và nhân công thì làm gì có ghế ta ngồi ?  Như thế gỗ và công thợ là nhân sanh ra cái ghế, và cái ghế là quả của công thợ và gỗ. Nếu nhận xét kỹ thì đủ biết vật gì cũng vậy, có nhân tức có quả, có quả tức có nhân. Và nhân nào thì sinh ra quả ấy… Nhưng ta cũng nên tự hỏi thêm rằng : Vì sao lại có những sự việc về thân thể, tinh thần, trình độ trí thức rất khác nhau giữa những con người trong đời sống như thế ?  Theo lý nhân quả chúng ta trả lời câu hỏi ấy rất dễ. Sự sai khác ấy là những quả của các nhân đã tạo ra từ trước, hoặc những năm trước, hoặc những đời trước. Sự kiện nhân quả tiếp tục : Nhân tạo từ đời trước dẫn đến quả nơi đời sau ấy, làm thành sự luân hồi của chúng sanh. Luân hồi nghĩa đen là bánh xe chạy tròn. Chúng sanh cũng thế: Cứ sanh ra nơi kiếp này, chết đi, lại sanh ra nơi kiếp khác, theo nhân đã tạo mà nhận lấy quả tương ứng.

          Còn giải thích về nghiệp báo : “Nghiệp báo là nhân quả trong đường luân hồi. Nghiệp là những hoạt động do thân thể, do lời nói, do ý nghĩ. Và cái kết quả đáp ứng lại những hoạt động ấy gọi là Nghiệp báo. Không phải hoạt động não cũng có báo. Những hành động vô ký như đi, đứng, nằm, ngồi v.v… không làm hại cũng không làm lợi cho ai thì không có nghiệp báo… Chính những nghiệp thiện, nghiệp ác đã tổng hợp lại tạo thánh cái quả dị thục của một đời, tức là cái nghiệp báo dẫn dắt con người đi thọ sinh trong sáu nẻo luân hồi…”

          Nói đến thuyết Nhân quả, thì chỉ rõ chỗ khác nhau giữa nhân quả và  Định Mệnh.  “ Trong ảnh hưởng phức tạp của tất cả sự vật làm cho  một sự vật xuất hiện và chuyển biến, đạo Phật đã rút ra một quy luật bản nhiên là luật Nhân quả. Luật Nhân quả là một luật rất sinh động, không phải luôn luôn đơn giản như trồng lúa , thì được lúa. Lại chính việc trồng lúa được lúa cũng không đơn giản lắm, vì phải có đất, có nước, có phân, chăm sóc, hạt giống, phải kể đến thời tiết thuận nghịch, đến kỹ thuật cày, cấy v.v… thì mới chắc được lúa và được nhiều lúa. Vì thế Nhân quả và Định mệnh khác nhau rất nhiều. Định mệnh thì việc gì cũng đã định trước hết rồi, không làm sao tránh khỏi được. Còn Nhân quả thì chẳng những có nhân quá khứ sinh ra quả hiện tại, mà lại còn có nhân hiện tại sinh ra quả hiện tại- trong đó có cả ảnh hưởng của hoàn cảnh, ảnh hưởng của tư tưởng, hành động bản thân…

          Như vậy, từ nhân đến quả phải trải qua duyên mới có quả, cho nên nói nhân quả là nói gọn, mà phải nói cho đủ là Nhân-Duyên-Quả. Có nhân mà thiếu duyên thì quả không thành. Khác biệt giữa thuyết Định mệnh và thuyết nhân quả là: Trong nhân quả “Duyên” đóng vai trò quan trọng, nếu thiếu duyên thì không thể thành quả. Ví như hạt giống để trong bồ thì không bao giờ sanh ra quả.  Còn thuyết Định mệnh thì nói mọi sự việc đã chuẩn bị sẵn từ trước rồi, cho nên đời sau sinh ra là đã thành, không cần duyên, không có duyên. Thuyết này trái với khoa học, khoa học phát triển cũng dựa trên thuyết nhân quả mà phát minh ra nhiều công nghệ và kỹ thuật v.v.. Lại thuyết Định mệnh giống như thuyết của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho rằng mọi sự mọi vật đều do Chúa tạo chứ không nói Nhân hay quả. Thuyết thiên Chúa lại cũng không phù hợp với khoa học. Người ta hỏi ngược lại, Chúa sinh ra con người và vạn vật, vậy ai sinh ra Chúa? Không có câu trả lời.

           Qua ba thuyết Nhân quả, Định mệnh và Thiên Chúa, ta thấy thuyết Nhân quả có thể hiểu được, giải thích được, khoa học chứng minh được. Còn thuyết Định mệnh, thuyết Ý Chúa thì không giải thích được, chỉ có nhắm mắt mà tin thôi. Thả đời mình xuôi theo số phận, như bèo trôi theo dòng nước không tự mình tách ra khỏi dòng nước chảy, cuối cùng ra ngoài biển cả mênh mông không bao giờ thấy được bờ là vậy. Tin vào định mệnh, số mệnh, ý Chúa phó mặc đời mình cho người khác định đoạt. Còn tin nhân quả tự mình định đoạt, tự mình có thể thoát ra ngoài dòng chảy của cuộc đời, vươn lên từ chỗ thấp đến chỗ cao, từ nơi tăm tối ra ngoài ánh sáng là vậy. Thuyết nhân quả là một thuyết nhân văn và khoa học là vậy. Nhưng mà đa số con người lại tin vào số mệnh, định mệnh và ý chúa, và các thần linh, hơn là tin vào  Nhân quả.

{]{

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THAM THIỀN CỦA PHẬT GIÁO

          Tham thiền tu định là pháp môn tu trì quan trọng của Phật giáo là con đường xưa nay các tôn phái lớn của Phật giáo đều thực hành . Thiền phạn Ngữ là thiền na, Pali gọi  Jhana- Hán dịch là tĩnh lự, (tịnh tâm suy xét ) gột sạch tất cả tạp niệm.

          Thiền có mặt khắp mọi nơi xưa nay hệt như nhau. Thiền chính là tâm của chúng ta. Cái tâm này là cái chỉ cho “chân tâm” trái tim chân thật trú ẩn đáy sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Chân tâm này siêu vượt hết thảy sự tồn tại hữu hình, lại lộ bày trong vũ trụ vạn hữu, cho dù cuộc sống hằng ngày trông giống như rất đỗi bình thường, nhưng khắp nơi tràn ngập thiền cơ. Tham thiền cầu đạo, quan trọng là ở chỗ giác ngộ chân tâm bản tính. Phương pháp tọa thiền là phương pháp quan trọng đối với người mới nhập đạo, người bắt đầu học đạo thì phải ngồi thiền, ngồi thiền phải điều hòa năm việc : Điều hòa ăn uống, điều hòa ngủ nghỉ, điều hòa thân thể, điều hòa hơi thở và điều hòa tâm.

          Về điều hòa thân có 7 việc : 1/ Hai chân đan chéo nhau ( thế kiết già ), ngồi xếp bằng gác một chân lên bắp vế chân kia ( thế bàn già ).   2/ Sống lưng thẳng đứng, không dựa vào vách tường.  3/ Tay kiết ấn, đặt dưới rún . 4/Hai bả vai ngang bằng, thả lỏng tự nhiên, 5/ Đầu mặt ngay ngắn, hàm dưới thu vào bên trong . 6/ Hai  môi khép lại, lưỡi chạm nhẹ vào hàm răng trên.  7/ Hai mắt khép lại, quán chiếu thân tâm.

Thế kiết già gọi là  “ bàn tọa ”, lại chia làm đơn  bàn và song bàn. Những người mới học nếu không thể song bàn, thì có thể đơn bàn, hoặc ngồi đan chéo hai chân vào nhau,  hoặc có thể ngồi trên ghế (giường ) đặt hai chân trên mặt đất, tư thế áo quần ngay ngắn.

          Và điều hòa hơi thở, hơi thở ( tức ) chính là thở ra hít vào, thông thường hít thở có bốn hiện tượng gió, hít vào thở ra  ( có âm thanh ) . thở ( nghẹt không thông ),  hơi ( ra vào khò khè ). Hơi thở ( không thanh,  không ứ, không ồ  ) ,( không có âm thanh, không nghẹt, không khò khè ).  Ba hiện tượng trước đều là tướng của hơi thở chưa điều hòa, không nên ngồi thiền, chỉ có hơi thở nhẹ nhàng, thỏa mái cõi lòng mới có thể vững vàng an ổn.

Điều hòa hơi thở là phương pháp nhập môn của tu định. Phương pháp điều hòa hơi thở có sổ tức và tùy tức ( đếm hơi thở và theo dõi hơi thở ). Sổ tức là một trong “ ngũ đình tâm quán”. Sổ tức có năm công đức như giảm bớt giấc ngủ, là nền tảng của tu định, đối trị tâm tán loạn có công đức nhất. Nó và bất tịnh quán được cho là “nhị cam lộ môn”.

Sổ tức cũng là một trong nhân tướng (cái tướng nguyên nhân của vạn pháp ) của “ lục diệu pháp môn”. Lục diệu pháp môn tức là sáu loại diệu pháp của tu định, gồm : sổ, tùy, chỉ, quán, hoàn và tịnh. Trong pháp môn của tất cả tập định, an-na-bát-na (anapana ) thiền pháp là căn bản nhất, đồng thời cũng là vững chắc, an toàn nhất. Thiền pháp an-na-bát-na tức là thông qua việc tu trì lục diêu môn, khiến tâm dừng lại ở một cảnh giới ( nhất cảnh ), sau đó nương định theo vào chánh lý quán sát thực tướng các pháp,  theo đó đoạn hoặc chứng chơn ( đoạn trừ tất cả phiền não tham sân si, chứng ngộ chân lý vũ trụ nhân sinh ). Đức Phật xưa kia ngồi xếp bằng ngay ngắn dưới gốc cây bồ đề ( bodhi druma ), bắt đầu nội quán an-bát ( an-na-bát-na), cuối cùng được vạn hạnh mở mang, đối trị được ác ma và thành đạo, sau đó cũng lấy thiền pháp an-bát dạy bảo cho mọi người, là phương tiện chủ yếu của pháp môn.

 Về phương diện điều hòa tâm, Kinh Di giáo Phật nói : “ Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”. Nghĩa là nếu có thể khống chế tâm vào một chỗ, thì không có việc gì không làm được. Điều tâm chính là đem tạp niệm vọng tưởng, tâm tán loạn chuyên chú vào một chỗ, khiến vọng tâm dừng lại mà bước vào thanh tịnh, minh giác, quên cảnh của ta, đây cũng là mục đích căn bản của tọa thiền.

Điều tâm là phương pháp quan trọng của tu định. Bình thường mới tham thiền thường sẽ xuất hiện hai trạng thái tâm lý, một là hôn trầm ( hôn mê muốn ngủ ). Hai là trạo cử ( dao động, xao xuyến, vội vàng bất an ), điều tâm ngoài việc phải điều phục tâm tán loạn, không để phóng dật, còn phải làm cho những trạng thái khác nhau của tâm đạt đến an ổn thích hợp, ví như lúc hôn trầm thì quán tâm ở đỉnh mũi hoặc mí tóc, khởi lên chánh niệm ( những ý nghỉ chân chính ) khiến tâm ý tập trung; lúc trạo cử thì quán tâm ở đan điền ( vùng dưới rún), khiến tâm nông nổi chìm xuống.

Ngoài ra cũng có thể quán tưởng các tướng tốt của  Đức Phật, hoặc là niệm Phật,  trì chú; hoặc là tham thoại đầu, công án v.v… chỉ cần phù hợp với phương thức tu thiền ( thiền tư/ thiền định / thiền quán ) của giới đức, định đức, tuệ đức. Tùy vào căn cơ của mình mà chọn một pháp tu thích hợp.

Nói chung mục đích chủ yếu của thiền tu là ở chỗ tu tâm đạt được định, theo đó ( nhờ có định ) mà khai phát trí tuệ. Tập thiền tu định không thể chóng thành, không thể vượt qua thứ bậc. Kinh nói “ y giới tu định, y định phát huệ”. Đây là học trình ( chương trình học ) rõ ràng đúng đắn không được xem nhẹ. Nhất là quá trình tu học từ sơ học nhiếp ( nắm/ giữ ) tâm, đến chánh định thành tựu, cần chú trọng dưỡng thành thiền định cơ bản, cũng là dựa vào chín tâm trụ mà luận Du Già –sư-địa nói, hoặc dựa vào tám đoạn kinh hành mà luận Biện Trung Biên nói để mà tu tập, sẽ từ từ diệt  trừ những sai lầm như vọng niệm,  tán loạn, trạo cử, hôn trầm, khiến tâm an trú ở cảnh sở duyên, dần dà thì tâm không trầm ( sa sầm) không trạo  ( xao động ), thăng bằng cân đối, an trú tùy vào sự vận động tự nhiên các pháp. Đây chính là tâm trụ thứ chín cao nhất trong Dục giới, có tên là “ Đẳng trì tâm” giữ tâm ở thể thăng bằng, tên gọi khác là định.

Từ “ Đẳng trì” mà tiến vào Xa-ma-tha ( Samatha), cũng tức là “vị đáo định” ( chưa được định ) trong Sắc giới. thời kỳ cần  phải tu Tứ thiền Bát định… Phật giáo đặc biệt chú trọng tu học về văn tư huệ. Văn huệ, tư huệ, tu huệ là học trình thứ lớp trí huệ và năng lực tu học  pháp Phật. Người thiền hành sau khi tu được căn bản  thiền định chín loại tâm trụ thì phải thêm bước nữa, dốc sức vào việc nghiên cứu những lời dạy trong kinh điển, đạt được những thành tựu “ pháp trụ trí”  của văn tuệ và tư tuệ, mới có thể chứng đắc thánh quả “ Niết bàn trí “ của tu huệ.

Thiền, là cần chúng ta không trụ sanh tử, cũng không trụ Niết bàn ( Nirvana ).  Không trụ ở sanh tử, là muốn chúng ta dùng trí tuệ của Bát nhã ( Prajna ) vượt qua sanh tử luân hồi; Không trụ vào Niết bàn , là muốn chúng ta lấy tâm từ bi phục vụ quần chúng, cứu độ chúng sanh. Vì thế, tập thiền hẳn không nên xem nhẹ việc giữ tịnh giới, tu từ bi. Có thể giữ gìn giới thân tâm thanh tịnh (trong sạch ), tập định sẽ dễ dàng thành tựu; có tâm từ bi, trong lòng thường khởi lên tâm thương cảm, thì sẽ không đọa vào thiền cảnh khô mộc.

Chọn lựa môi trường (điều kiện) tọa thiền cũng là yếu tố vô cùng quan trọng. Ví dụ, không nên ngồi thiền ở những nơi ẩm ướt hoặc nóng nực, không khí phải lưu thông, độ sáng tối cần vừa phải, không ngồi ở dưới dầu ( nguồn ) gió, đệm ( bồ đoàn / tọa cụ ) không nên quá mềm mại hoặc quá cứng…Người mới học giả sử còn ở giai đoạn điều hòa thân, để thích nghi dần, trong một ngày nên “ ngồi  thiền nhiều lần với thời gian ngắn”. Tọa thiền có thể bố trí vào buổi sáng lúc mới thức dậy, ban đêm trước khi đi ngủ, hoặc vào những ngày nghỉ lễ lúc nghỉ ngơi, đồng thời nên tránh ăn uống quá no, thân thể mệt mỏi rã rời, hoặc ngồi thiền sau khi vận động mạnh. Thêm nữa, người mới học tốt nhất nên thường xuyên đến chùa viện tu chung với đại chúng, đợi sau khi hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản, hẵng ở nhà tu một mình.

Ở nhà tu thiền nên có nhân duyên trợ đạo ( hỗ trợ tu hành ) đầy đủ, như : gần gũi thiện tri thức, bồi dưỡng từ bi, dừng ác làm thiện, không bấu víu vào ngoại duyên ( đến từ bên ngoài ), khéo điều tiết việc ăn uống, khéo điều tiết việc ngủ nghỉ, trừ bỏ trạo hối cái ( năm thứ phiền não che đậy tâm tánh, không cho pháp thiện nẩy sinh: Tham, sân, thụy miên, trạo hối , nghi pháp ). Lòng tin kiên định, lễ Phật sám hối, phát khởi Bồ đề tâm mỗi ngày… Trong quá trình tập thiền, nếu gặp phải nghiệp chướng hiện tiền, cần phải khởi tâm sám hối hành vi đó, cũng như hành thiện pháp công đức, bồi dưỡng hạt giống thiện, điều càng quan trọng hơn cả là, trong tư tưởng phải nghe nhiều huân tập vô thường và giáo nghĩa Phật pháp duyên khởi tính không; lập thời khóa biểu cố định khi ngồi thiền, phải thường xem thân tâm của tự ngã ngay tại bây giờ như là đối tượng thiền quán, tiến hành thể sát (quan sát, theo dõi và thể nghiệm ) đối với vấn đề vô thường, vô ngã, một khi phát hiện ra trí tuệ Bát nhã thì nghiệp chủng khô héo, nghiệp chướng tự diệt vong. Đặc biệt tốt nhất có thể tự lập ra biểu tu thiền và biểu ưu khuyết điểm, mỗi ngày tự mình yêu cầu, đồng thời xem tọa thiền như là khóa học thông lệ. Nếu có thể nương vào phương pháp tọa thiền đúng đắn, bền chí luyện tập, với một khoảng thời gian dài, sẽ có một ngày tọa xuất yên tĩnh, khinh an ( ung dung an tường ), hỷ duyệt ( vui vẻ) tự nhiên có thể thu được lợi ích của tọa thiền, kiến lập lòng tin của tọa thiền.

Tinh Vân- Nhã Tuệ dịch- trích Nguyệt san Giác ngộ số 263-02-2018

{]{

CHÁNH TU VÀ TRỢ TU

          Khi tu tập phải phân biệt chánh phụ, ví như bỏ ác là chánh, làm lành là phụ. Nếu bỏ chánh chạy theo phụ mãi thì không đạt được mục đích giải thoát. Cho nên phải phân biệt chánh phụ rõ ràng. Trên sự tu tập cần có thời khóa sao cho phù hợp với quy trình. “ phụ hỗ trợ cho chánh”. Nếu chúng ta dùng hết thời gian cho việc phụ. Như phục vụ cho việc ăn uống, ngủ nghỉ, công quả v.v.. coi như đó là việc tu, nhưng tu đâu không thấy, chỉ thấy lan man theo phước thiện, công quả, ăn uống. Cứ chạy theo công việc không có ý để dừng, không có việc cũng tìm ra cho có việc để làm, làm sao cho hợp với vọng tâm của mình thì mới vừa ý.

          Cho nên phải phân biệt chánh phụ rõ ràng, việc phụ hỗ trợ cho việc chánh, thì việc tu hành mới mau tiến bộ, nếu không thì mọi thứ chỉ trên hình thức. Phụ ngày càng phát, chánh ngày càng mất, tu hành nhiều năm mà không làm chủ được vọng tâm, thị phi hơn thua được mất vẫn lừng lẫy, là do không hàng phục được vọng tâm.  Định không có nên không dừng được tập nghiệp và tập khí của mình. Tuệ không đủ nên không thể phân biệt được việc gì chánh, việc gì phụ, việc gì nên làm, việc gì không nên làm, nhận giả làm thật. Định không đủ nên không thể soi thấu được thực tướng các pháp để không dính mắc.

          Muốn có định thì phải buộc tâm nơi một đối tượng, như để tâm nơi sống mũi, hay giữa rún, hoặc hơi thở vô ra, hoặc theo dõi câu kinh, hoặc cột tâm nơi câu Phật hiệu v.v..Khi  đã định thì tâm không tán loạn. Buộc tâm không buông lung như xích con vượn.  Nếu không phân biệt được chánh phụ, thì cứ chạy theo thói đời mà đi, quanh năm suốt tháng loay hoay trong các việc làm sao ăn cho ngon, ngủ cho tròn giấc, thân không bịnh tật, lao động cho có thành tích v.v...lững thững lang thang qua một kiếp người.

          Lấy  “một niệm” để niệm phiền não, là nguồn gốc của sanh tử. Lấy “ một niệm” để niệm Phật hiệu thì diệt được phiền não là cách duy nhất để thoát sanh liễu tử, điều đó không có gì khó và lạ.

          Niệm Phật không nhất thiết tham niệm cho nhiều, mà là cốt yếu niệm làm sao để cho tâm không loạn. Vì thế thái độ của người tu là phải có lòng tin kiên cố và tận lực tinh tấn. bất kể thịt da khô héo cũng không lùi.

          Năm xứ giải thoát : Lắng nghe chánh pháp, Tư duy chánh pháp, giảng dạy chánh pháp,  đọc tụng chánh pháp và thiền tập.  Chúng ta có thể thực tập trong các trường hợp trên giúp tâm trở nên an định, dần bớt tán tâm.

          Do đa sanh tập khí thâm, nên ngộ rồi mà vẫn chưa thể nhập, cho nên cần phải có quá trình thanh lọc tập khí. Ngộ là nhân chứng nhập là quả.

{]{

 

 

CÕI ĐẠO PHƯƠNG ĐÔNG TRƯỚC TINH THÂN DUY LÝ PHƯƠNG TÂY

                             Huỳnh Ngọc Chiến

          Đất nước Trung Quốc với nền văn hóa vĩ đại tồn tại liên tục mấy ngàn năm, vẫn luôn là một trong những cái nôi minh triết của nhân loại, dù trên thế giới hiện nay, hai chữ Trung Quốc thường bị đồng hóa với những hình ảnh không được mấy tốt đẹp, như tham vọng trong chính trị, lừa đảo trong sản xuất, dối trá trong kinh doanh,  dung tục trong ứng xử. Những điển tích thơ mộng trong thi ca, triết học ngày xưa như Lý Trích Tiên ôm trăng chết theo dòng nước. Bá Nha đập đàn bên mộ Chung Tử Kỳ v.v... chỉ còn là hình ảnh nhạt phai của một thời vang bóng.

Thời Tiên Tần là giai đoạn cực thịnh của triết học Trung Quốc với cuộc đại biến động đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Cục diện “Bách gia tranh minh  thời bấy giờ đã mở ra những chân trời tư tưởng vô cùng phong phú và đa dạng, không chỉ cho lịch sử triết học Trung Quốc về sau, mà còn cho cả nền triết học nhân loại. Nếu triết gia Mỹ Alfred North Whitehead đánh giá truyền thống triết học châu Âu chỉ là “  Một loạt các chú thích cho triết học Plato ”. thì ta cũng có thể nói triết học Trung Quốc sau thời Tiên Tần là “ một loạt chú thích”cho kho tàng tư tưởng vô cùng phong phú được khai nguồn từ  Xuân Thu- Chiến Quốc……

Tiêu đề bài này nói đến : cõi đạo phương Đông trước tinh thần duy lý phương Tây. Chúng ta thử nhìn từ góc độ của những người sống trong truyền thống triết học phương Đông.

Bộ triết học sử này ra đời vào giai đoạn phương Đông phải đối mặt với sự tàn phá khốc liệt của những thế lực quân sự phương Tây trong công cuộc thực dân bành trướng, trong thời gian kéo dài hàng thế kỷ. Theo bàn chân của những đoàn quân viễn chinh xâm lược, nền văn hóa phương Tây lan dần đến phương Đông , hình thành nên sự giao thoa văn hóa vĩ đại có thể nói là vô tiền truyệt hậu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Cuộc giao thoa này mang ý nghĩa khác hẳn cuộc giao thoa giữa hai nền văn hóa Ấn - Trung, khi Phật giáo từ Ấn Độ được truyền vào Trung Thổ. Vì cuộc giao thoa Ấn –Trung đó đã giúp Trung Quốc khai mở thêm những phần ẩn tàng trong cõi tư tưởng ban sơ để làm nảy sinh nào là Hoa Nghiêm tông,  Thiền tông v.v.. nào là tinh thần đạo học của Tống Nho, với những nhà tư tưởng lớn trùng điệp này sinh như Trí Khải, Cát Tạng, Chu Đôn Di, Lục Tượng Sơn, Vương Dương Minh..v.v…Cuộc giao thoa đó giống như cuộc hội ngộ giữa Nguyễn Du  với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm  tài nhân, để Tố Như có cơ duyên phát tiết anh hoa mà tựu thành tuyệt tác truyện Kiều.

Còn cuộc giao thoa văn hóa giữa phương Đông với phương Tây từ khoảng đầu thế kỷ thứ 19 lại hoàn toàn khác hẳn. Toàn thể cõi đạo vô ngôn phương Đông- ở đây tôi muốn nhấn mạnh đến nền văn hóa Trung Quốc, vốn luôn Lãng đãng cùng “ cánh bướm Trang Châu” với những phương trời tư tưởng “ huyền chi hựu huyền” “ sắc tức thị không, không tức thị sắc” tựa hồ đã chịu một cơn chấn động dị thường, khi đối mặt trước cung điện duy lý đồ sộ của phương Tây với những hệ thống khái niệm cực kỳ phong phú. Sự ưu việt không thể chối cãi của nền  khoa học kỹ nghệ Âu Châu trên phạm vi toàn cầu đã tạo ra một thông lộ thênh thang để cho cơn hồng thủy tư tưởng phương Tây tràn vào và nhấn chìm hầu như toàn bộ não trạng của chúng ta vào đại dương duy lý. Các bậc thức giả  phương Đông dường như thấy choáng ngợp khi dối mặt với những hệ thống tư tưởng mới mẻ đó, nên họ lúng túng trong quá trình tiếp cận, xem chúng như là cái gì quá ưu việt, tân kỳ.

Đặc trưng văn hóa Trung Quốc là nó có sức đồng hóa rất mạnh. Bất kỳ dân tộc ngoại lai nào dùng vũ lực xâm lược Trung Nguyên, không chóng thì chầy đều bị nền văn hóa phong kiến đó đồng hóa. Những vó ngựa của đoàn quân thiện chiến của Mông Cổ đã từng giẫm nát cả một phần bản đồ thế giới để kiến tạo nên một đế quốc mênh mông, nhưng sau khi chinh phục Trung Quốc để lập ra triều Nguyên thì những vó ngựa sắt kiêu hãnh đó dễ dàng bị khuất phục bởi những ngọn bút lông mềm mại, để cả một đế chế hùng cường với những thảo nguyên bát ngát nhanh chóng  tan biên trong nghiên mực của nền văn minh Hoa Hạ. Mấy trăm năm sau, khi người Mãn chiếm xong Trung Quốc để lập nên đế chế Đại Thanh thì cũng bị đồng hóa dần với nền văn hóa bản địa để cho ra đời bộ bách khoa khổng lồ trong lịch sử phong kiến Trung Quốc là Tứ Khố Toàn Thư dưới đời Càn Long, với hơn 800 triệu chữ. Sức thâu hóa mãnh liệt đó giống như “ Hấp tinh đại pháp” của Nhâm Ngã Hành, luôn có khả năng hấp thu nội lực của kẻ địch để biến thành nội lực của bản thân mình. Nhưng khi đối đầu với tinh thần duy lý của phương Tây thì nền văn hóa Trung Quốc gần như tan hoang tinh thể, nó không những mất đi khả năng đồng hóa vốn có, mà bản thân bị tê liệt và biến tướng “ Hấp tinh đại pháp ” tựa hồ như trúng phải “ Hàn băng chân khí” cực kỳ bá đạo của Tả Lãnh Thiền !

Người ta nôn nóng muốn phá hủy hết những giá trị cũ để mở rộng cửa và mở rộng lòng đón nhận những làn gió phương Tây thổi đến như một làn sinh khí mới, nhằm mong muốn vươn lên tầm cao của thời đại từ phương Đông già cỗi ! Những giá trị cũ bị  phá bỏ không thương tiếc. Vì vạn thế sư biểu Khổng Tử bị hạ bệ, Nho giáo bị lên án như một vật chướng ngại, ngăn cản con đường tiến hóa của lịch sử. Những hệ thống tư tưởng sáng sủa của phương Tây với những khái niệm rõ ràng, minh bạch hấp dẫn những não trạng phương Đông vốn chỉ quen với lối suy diễn ỡm ờ “vô khả, vô bất khả”, “ngã thuyết…. tức phi…. Thị danh…”  Ngay các bậc thiên tài thượng trí như Đại sư  Vivekananda mà ban đầu còn choáng ngợp trước phương Tây, huống gì người khác. Chỉ sau khi qua Âu Mỹ diễn thuyết một thời gian, ông mới quay về Ấn Độ, kêu gọi người dân quay về lại với truyền thống tâm linh dân tộc.

Trong khi hầu hết các thức giả phương Đông đều quay lưng với những giá trị phương Đông để vội vã suy tôn những hệ tư tưởng phương Tây thì chính một triết gia lỗi lạc phương Tây là Heidegger lại chỉ ra hiểm họa của “ Hàng băng chân khí” đó. Ta thử đọc một đoạn thức giả Nhật Bản với triết gia Heidegger về ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.

 Người Nhật :  Người ta đã thấy sự thống trị không thể phủ nhận của lý trí Âu châu các ông được khẳng định qua sự thành công của tính duy lý, mà sự tiến bộ kỷ thuật đang phơi bày ra trước mắt từng phút, từng giờ.

 Heiddegger : Sự mù quáng đó lớn mạnh đến mức người ta không còn khả năng thấy được tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn. Dường như tiến trình đó khiến cho mọi cội nguồn đều trở nên khô cạn.

 Tôi muốn dùng lời đối thoại này làm điểm quy chiếu nhỏ khi đọc cuốn sách này, để cùng bạn đọc có dịp suy ngẫm xem về “ tiến trình Âu hóa con người và trái đất đã gây tổn hại đến những điều tinh yếu ở tận cội nguồn” đang diễn ra trên toàn cõi địa cầu trong lĩnh vực tư tưởng, mà Trung Quốc chính là nơi chúng ta có thể cảm nhận rõ nhất, khi nó là quốc gia đầu tiên của châu Á biến thành vùng đất cho sự hoàn tất của tư tưởng phương Tây.

Được du nhập vào từ phương Tây, hết triết thuyết này đến triết thuyết nọ thay nhau chế ngự cõi tư tưởng phương Đông. Rồi đến lượt phép biện chứng đăng quang như một đỉnh cao trong triết học. Nó mê hoặc giới trí thức ở thời kỳ đầu thế kỷ 20, được xem như là câu thần chú “ Vừng ơi, mở cửa ra” để giải quyết mọi bế tắc trong triết học, và mở ra những chân trời bao la cho tư tưởng. Nhưng thực tế lịch sử chứng minh rốt cuộc phép biện chứng, dù duy tâm hay duy vật , cũng chỉ là một hệ thống phương Tây khác. Chúng hoàn toàn không thể giải quyết rốt ráo những vấn đề của tư tưởng và xã hội. Trong quá trình phát triển của lịch sử triết học, không bao giờ có một hệ thống triết học nào phát sinh từ lý tính mà có thể mang giá trị bền vững, dù nó được chống đỡ bất kỳ một thế lực nào. Bởi bản chất của lý tính là mâu thuẫn và xung đột, nên cái trò triết học và sau phủ định triết học trước vẫn mãi mãi diễn ra trong quá trình phát triển lịch sử đúng theo quy luật “ Trường giang hậu lãng thôi tiền lãng”. Trên dòng sông luôn trôi chảy, con sóng sau sẽ xô ngã con sóng trước. Điều đó hoàn toàn thuận với tự nhiên. Phép biện chứng, dù là duy tâm hay duy vật, cũng chỉ là sản phẩm của ngôn ngữ và lý trí, do nhân duyên hòa hợp mà thành, nên cũng như mọi loại triết học duy lý khác, nó cũng chỉ là con sóng nối tiếp bao con sóng trên dòng sông lịch sử, dù ta có cố công thổi phồng giá trị của nó bằng bao nhiêu ngôn từ đẹp đẽ. Nếu có hệ thống triết học nào đó được loài người xem là chân lý thì hẳn đã không còn những cuộc tranh luận về triết học kéo dài hơn mấy ngàn năm, và có lẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng của loài người.

Phùng Hữu Lan cho rằng tác dụng của triết học có hai mặt :

Một mặt thì rèn luyện và phát triển năng lực tư duy lý luận của con người, mặt khác thì nâng cao và giúp cảnh giới tinh thần con người thêm phong phú.

Nhưng tôi cho rằng một triết học là sản phẩm của lý trí thì dù sâu sắc hay có tính thuyết phục đến đâu cũng khó lòng nâng cao được cảnh giới tinh thần, nghĩa là đem lại cho con người một “ vùng đất an thân lập mệnh”, theo cách nói trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, để con người có thể sống an nhiên tự tại trong đó. Mà giúp con người tìm ra một “ vùng đất an thân lập mệnh ”  cũng có nghĩa là giúp con người có đủ tâm lực để bình yên đối mặt với cái chết, như một con người bình thường với thân phận sinh tử phù du theo nghĩa  “ Eetre- pour-la mort “ của Heiddgger, chứ không cần phải là một anh hùng hy sinh cho lý tưởng cao siêu. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi ta có cơ duyên vượt qua được lý tính để vươn lên cảnh giới tâm linh. Đó là bước đầu để ta đi vào cõi đạo phương Đông. Chỉ khi nào tiếp xúc được với mạch nguồn tâm linh đó thì tâm thức ta mới được mở khai, cảnh giới tinh thần ta mới thực sự được nâng cao để ta nhìn nhận ra những giá trị chân chính của cuộc sống, và của cả cái chết. Ngay cả những kẻ thời trai trẻ xông xáo trong đấu trường của lý trí, chỉ tin duy nhất vào khoa học, hăm hở dùng lý trí để xoay chuyển càn khôn, đem lý luận để vạch nên lịch sử thì cũng khó lòng thoát được cảm thức hoang mang khi đối với những vấn đề phi lý trong cuộc sống, mà ta không sao lý giải nổi, hoặc đến lúc cuối đời khi đối mặt với hư vô.

Nhà nghiên cứu T.V Murti liễu tri được sự bế tắc của nền văn minh duy lý châu Âu đang làm khốn quẫn toàn thế giới trong mạng lưới tư duy, nên đã theo chân Đại luận sư Nagarjuna dùng Thiên kiếm Prajnaparamita và Tuyệt đao  Sunyata để luận phá mọi hệ thống lý luận phương Tây, rồi khẳng định :

Đặc điểm của các hệ thống triết học phương Tây là mang tính tư biện, với rất ít ngoại lệ. Là một món đồ chơi thuần túy của trí tưởng tượng, chúng không dẫn đến sự tu tập tâm linh, và cũng không thể song hành với bất kỳ một phương thức sống nào. ( T.V Murti, Tánh Không: Cốt tủy triết học Phật giáo, trang 57, Huỳnh Ngọc Chiến dịch, Nxb, Hồng Đức, 213 ).

Biện chứng pháp của Hegel là một sản phẩm xa hoa phù phiếm, chứ hoàn toàn vô giá trị về phương diện tâm linh ( như trên, tr 399 ).

Những thứ “ chủ nghĩa ” , những thứ “ ism” trong hệ thống khái niệm của phương Tây, những phép biện chứng, hiện tượng luận, thông diễn học, hậu hiện đại, v.v… vẫn có những giá trị riêng của nó đối với não trạng phương Tây. Nhưng dùng chúng làm hệ quy chiếu để nhìn vào cổ lục phương Đông thì ta khó lòng lắng nghe ra được “huyền ngoại chi âm”, hay tư tưởng “ đắc ngư vong thuyên” để cảm nhận vô ngôn trong ngôn ngữ.

 Điều nghịch lý là trong khi ở phương Tây, nhiều triết gia đã quay về phương Đông để tìm cầu chân lý giữa sự bế tắc của tư tưởng, thì ở phương Đông kịch lịch nảy sinh ra các loại triết gia nỗ lực tôn vinh những giá trị phương Tây- những giá trị mà chính các bậc thức giả phương Tây cũng nghi ngờ. Một người Đức- bạn của triết gia người Mỹ là William Barrett- kể lại rằng một hôm ông đến thăm Heidegger và thấy triết gia này đang đọc tác phẩm của Suzuki, ông ta hỏi thì Heidegger trả lời :

Nếu tôi hiểu đúng được tác giả này thì đó là những gì tôi đang cố gắng trình bày trong tất cả tác phẩm của mình từ trước đến giờ.

Thiệt là “ Tạo vật hà như đồng tử hý” Thơ của Tô Đông Pha :  Cuộc đời sao mà giống như trò đùa của trẻ con ! … (bỏ một đoạn )

Trên thực tiễn, lịch sử tư tưởng nhân loại đã minh chứng cho chúng ta thấy trong triết học không hề có một hệ tư tưởng nào mang giá trị vĩnh cữu, trong cõi tư tưởng không thể có duy nhất một con đường. Cho rằng chỉ có mình mới nắm được chân lý,  chỉ có tư tưởng của mình mới là duy nhất đúng, đồng với ta thì cho là phải, nghịch với ta cho là trái, điều dó cũng ấu trĩ như một đứa trẻ vốc một ngụm nước biển trong tay và bi bô đó là nước cả đại dương. Nhiều con đường khác nhau vẫn dẫn về cùng một chốn duy nhất. Nếu tác phẩm này của Phùng Hữu Lan bạn đọc mở thêm ra một con đường mới trong cõi tư tưởng thì các bạn càng thể hội thêm lời của Đức Khổng Tử: “ Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự”.

( Bài này anh Huỳnh Ngọc Chiến , cảm nhận  khi đọc bộ Trung Quốc Triết học sử Tân biên của Phùng Hữu Lan ).

{]{

Phần bình luận :

 Qua bài cảm nhận của anh Huỳnh Ngọc Chiến” Cõi đạo phương Đông trước tinh thần duy lý phương Tây ” trên đây cho ta thấy rằng,  Phật giáo Ấn Độ  giao thoa với văn hóa Trung Quốc, đã không xóa bỏ nền văn hóa Trung Quốc mà nó hòa nhập với văn hóa bản địa, đã làm giàu thêm văn hóa Trung Quốc không những ngôn từ ( đã tạo thêm Trung Quốc trên 5000 từ mới ) mà còn phát huy ra rất nhiều nhân tài, hiền triết kiệt xuất nổi tiến trong giới Phật giáo Trung Quốc . Như Thiền, tông, Tịnh độ tông, Duy thức tông v.v  cùng với nhiều đại sư danh tiếng như Trí Khải, Huệ Viễn, Huyền Trang v.v... cũng như ở thế tục các danh Nho. Và cũng nâng cao giá trị văn học của Nho gia càng thêm phong phú và thâm sâu hơn. Đã tạo nên Trung Quốc một nét văn hóa đặc thù, có tính thuyết phục đối với các nền văn hóa khác trên toàn thế giới. Có thể nói văn hóa Trung Quốc có một loại chữ viết đặc thù có một không hai so với các loại chữ viết của các dân tộc khác. Loại chữ viết này đã ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa các nước lân cận Trung Quốc , như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ  v.v..

 ( Đặc trưng văn hóa Trung Quốc là nó có sức đồng hóa rất mạnh. Bất kỳ dân tộc ngoại lai nào dùng vũ lực xâm lược Trung Nguyên, không chóng thì chầy đều bị nền văn hóa phong kiến đó đồng hóa. Những vó ngựa của đoàn quân thiện chiến của Mông Cổ đã từng giẫm nát cả một phần bản đồ thế giới để kiến tạo nên một đế quốc mênh mông, nhưng sau khi chinh phục Trung Quốc để lập ra triều Nguyên thì những vó ngựa sắt kiêu hãnh đó dễ dàng bị khuất phục bởi những ngọn bút lông mềm mại, để cả một đế chế hùng cường với những thảo nguyên bát ngát nhanh chóng  tan biến trong nghiên mực của nền văn minh Hoa Hạ).

Với bề rộng và bề sâu của nền văn hóa Trung Quốc như thế, nhưng phải đối mặt với nền văn hóa phương Tây, để rồi biến thành văn hóa cổ xưa trở thành một văn hóa có xác không hồn. Văn hóa phương Tây du nhập vào Trung Quốc xóa sạch những gì mọi người dân Trung Quốc cho là thượng đẳng, cao quý, nay trở thành phế thãi. Như tôn xưng Đức Khổng Tử là vạn thế sư biểu, với đạo đức luân lý làm người như là Tam cương, ngũ thường, công dung ngôn hạnh. Nay người Trung quốc lại cho những những điều lệ đạo đức ấy làm cản trở sự phát triển của xã hội hiện nay. Vì thế họ ra sức phá bỏ tận gốc không thương tiếc.

Các nhà học giả Trung Quốc quay lưng với nền văn hóa truyền thống của mình, và cực lực xiển dương tôn sùng văn hóa phương Tây. Ngược lại các học giả phương Tây chán ngán và bế tắc với tư tưởng truyền thống của họ. Họ lại quay lại tìm về tư tưởng phương Đông để giải quyết những bế tắc trong nền tư tưởng của họ. Trong đó có nền văn hóa Phật giáo đã đáp ứng nhu cầu và đem lại sự bình yên hạnh phúc cho tâm hồn họ.

Đúng như lời phát biểu của nhà Bác học Vật Lý Albert Einsten (1879-1955 ) giải Nobel 1921. Ông nói rằng :  Tôn giáo tương lai sẽ là tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức, đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thế gồm mọi phương diện trên, trong cái nhất thể đầy ý nghĩa, Phật giáo sẽ đáp ứng đủ điều kiện đó.

Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với mọi nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo.  Phật giáo không cần xét lại những quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học.

Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao gồm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học.

Tôi là một người không tôn giáo. Nhưng nếu có tôn giáo thì tôi phải là một Phật tử. Vì những gì tôi hiểu biết bây giờ, thì mấy ngàn năm qua kinh Phật đã nói hết rồi.

Những lời Phật dạy suốt trong 49 năm tại thế để lại cho nhân loại một nền văn hóa độc nhất vô nhị sống mãi với thời gian không gian, trên mọi lãnh vực, khoa học, chính trị, kinh tế, học thuật v.v.. Khoa học dù có phát triển đến đỉnh cao đến đâu cũng không thể giải quyết được những khúc mắt nội tâm của con người . Không thể giải quyết những thù hận, đau buồn trong tâm con người, mà chỉ làm tăng thêm thì có chứ giảm đi thì không hề. Và đằng sau cửa tử bên kia thế giới tâm linh của con người khoa học hoàn toàn bề tắc. Vậy nơi đây chúng ta thấy giá trị của lời Phật dạy cao quý như thế nào.

Thay lời kết

Đất nước Trung quốc với nền văn hóa vĩ đại tồn tại liên tục mấy ngàn năm, vẫn luôn là một trong những cái nôi minh triết của nhân loại, dù trên thế giới hiện nay, hai chữ Trung Quốc thường bị đồng hóa với những hình ảnh không được mấy tốt đẹp, như tham vọng trong chính trị, lừa đảo trong sản xuất, dối trá trong kinh doanh,  dung tục trong ứng xử. Những điển tích thơ mộng trong thi ca, triết học ngày xưa như Lý Trích Tiên ôm trăng chết theo dòng nước. Bá Nha đập đàn bên mộ Chung Tử Kỳ v.v... chỉ còn là hình ảnh nhạt phai của một thời vang bóng.

{]{

LỜI DẪN SỚ ĐIỆP CÔNG VĂN

Văn hóa Việt Nam nói chung và Văn hóa Phật giáo Việt Nam nói riêng đều ảnh hưởng gần như 90 % văn hóa Trung Quốc. Những từ những chữ chúng ta dùng hằng ngày trong văn bản, trong kinh điển, trong giao tiếp đều mang nặng từ Hán Việt. Thế nào là Hán Việt, Hán là chữ Hán, chữ của dân tộc Hán Trung Quốc ngày xưa, Trung Quốc cũng như Việt Nam có nhiều dân tộc, trong đó có nhóm dân tộc Hán thông minh hơn chế tác ra thứ chữ viết và đọc, nay còn lưu lại nên gọi là chữ Hán, còn gọi là chữ Nho. Việt là Việt Nam. Chữ của người Hán còn âm đọc là của người Việt nên gọi là Hán Việt. Vì thế một chữ mà người Trung Quốc phát âm khác Việt Nam phát âm khác, nên khi người Việt Nam đọc bản văn chữ Hán người Trung Quốc nghe không biết gì cả, nhưng họ đọc chữ thì họ hiểu cái nghĩa.

          Hằng ngày chúng ta giao tiếp dùng rất nhiều từ Hán Việt như : sĩ, nông, công, thương, công an, ủy ban, thương mại, tài chính, kế toán, ngân hàng  v.v... muốn hiểu hết các từ này phải có người giải thích, còn lại ta hiểu na ná đại khái chứ chưa hiểu hết. Còn đi vào kinh điển lại càng khó hiểu hơn, nếu một chữ không hiểu được nghĩa của nó thì đọc câu văn đó không biết nói gì, chỉ đọc phần âm thôi.

          Người ta nói “ thực bất tri kỳ vị ” ăn mà không cảm nhận được mùi vị thì cũng như không ăn. Cũng vậy đọc một câu văn mà không hiểu nghĩa thì cũng giống như vậy. Giống như cái vá múc canh, vá ngâm mình trong nồi canh mà không biết canh ngon hay canh dỡ, mặn hay lạc.  Vì thế từ khi học Phật chúng ta vướng vào chữ nghĩa đọc mà không hiểu là chuyện thường. Kinh Phật còn có nghĩa đen nghĩa bóng càng khó hơn nữa. Nếu không biết nghĩa của chữ Hán trong câu kinh thì đọc không cảm nhận được năng lượng của kinh và không phát huy được nội lực của mình. Chính vì thế khi chúng tôi gặp được cuốn Công Văn Sớ Điệp của tác giả Nguyên Tâm tôi trích ra một số bài sớ mà trong giới tu sĩ thường hay đi cúng kỳ an, kỳ siêu đọc mãi không biết bao nhiêu lần, nhận không biết bao nhiêu tiền của người ta cúng, mà trong khi mình đọc không hiểu gì cả. Đây là điều thiếu sót chưa ai để ý đến, nếu có biết thì hỏi ai giúp cho việc này.  Điều chúng  tôi đã từ lâu đau đáu cái việc này, đọc mà không hiểu mà cứ đọc như vậy mình có giả dối không, thực ra bước chân vô chùa nếu may nắm được đi học cũng không tránh khỏi việc này. Trong trường không có môn học về nghi lễ, nên không ai giải thích ý nghĩa về nghi lễ nên cũng phải mù tịt.

          Với ý niệm như trên chúng tôi trích ra một số bài sớ dịch nghĩa của tập Công Văn Sớ Điệp của Nguyên Tâm để quý vị trụ trì, quý vị hay chuyên về Công Văn Sớ Điệp có thêm kiến thức hiểu biết cả chữ lẫn nghĩa, sẽ tạo thêm năng lượng và động lực trong công việc hoằng pháp lợi sanh bằng con đường nghi lễ. Khi có sự hiểu biết người tụng đọc sẽ có năng lượng chuyển hóa nội tâm mình  và kết nối với  tâm linh người chết họ được hóa giải siêu thoát.

Đưa đến âm dương lưỡng lợi Phật pháp trường tồn nhân dân an lạc, đất nước thái bình.

                                         Thích Thiện Phương

{]{

         

 

ĐEM VIỆC NHỎ SO VIỆC LỚN

          Giả sử có một người vô cớ nói xấu mình một câu, ta có giận không ? Một lời nói xấu tuy nhỏ, nhưng nghe người ta nói xấu mình là đã sinh sân giận, bực tức buồn phiền.  Lại có một người vô cớ khen mình một câu, mình nghe có vui không? Một lời khen tuy nhỏ, nhưng nghe liền vui. Thật ra lời khen hay chê quá nhỏ, không có đủ lợi ích hay tai hại gì mà để vui hay để buồn. Nếu biết được như thế, tâm mình đã  thanh tịnh từ lâu rồi, đâu đến nỗi tới ngày hôm nay vẫn còn nhiều cấu trược ?

          Nên biết người học Phật thấy có thấy không, chỗ nào cũng chấp, mỗi niệm đều tham. Muốn dứt tham trước, ban đầu  từ một đồng tiền khen chê đều quyết dứt bỏ. Nghĩ tất cả đều không phải là của ta có, do đó chê không sinh lòng sân, khen không sinh lòng ưa thích. Như thế lần đến có trăm ngàn tiền, muôn ức tiền, cho đến thân thể, tay chân, xương tủy, vợ con tài sản, cho đến tâm thức trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nghiệp báo sanh tử, Bồ đề, Niết bàn. Tất cả đều như đồng tiền khen chê, tự nhiên tập quán hữu lậu tiêu mất, chướng duyên không còn, tâm liền thanh tịnh, thành tựu đạo quả. Y theo đó mà tu hành, đừng sanh nghi ngại. Đó là phương pháp mầu nhiệm từ ít đến nhiều, xem nhiều thành ít, tự nhiên tham sân si đều mất.

          Chúng ta vì lo thân mình nên bị nhiều ràng buộc, niệm đầu khó được thanh tịnh. Có một phương pháp làm cho được thanh tịnh, là tất cả  phải có ý niệm lìa bỏ Ta bà, cầu sanh Cực lạc, hết lòng mong cầu về Tịnh độ thấy Phật Di Đà, bỏ hết lòng đua chen danh lợi, chắc chắn sẽ khỏi cảnh trần lao mà quay về nẻo giác.

          Trong Tịnh độ Pháp ngữ, Ngài U Khê nói : “ Lòng ái không nặng không sanh Ta bà,  Niệm không nhất tâm không sanh về Cực lạc ”. Nếu người ở cõi Ta bà lòng ái không nhẹ, khi lâm chung cái ái ấy sẽ lôi kéo chúng ta vào con đường tình ái. Còn người niệm không chuyên nhất khi lâm chung sẽ chuyển thành nhiều niệm không thể sinh về Cực lạc. Ái là sự lưu luyến mến yêu, từ cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu, công danh, phú quý, văn chương, thi phú, ruộng vườn, nhà cửa, xe cộ v.v.. Có một vật không thể quên đó là Ái . Nhất niệm trái ngược với ái , còn một chút ái ở trong lòng là niệm không chuyên nhất. Nếu niệm không chuyên nhất, sẽ không sanh về Cực lạc. Vì thế sự quan trọng làm cho lòng tham ái nhẹ đi. Vì muốn diệt lòng tham ái cần phải có nhất niệm, vì nhất niệm là phương pháp cốt yếu để làm lòng tham ái nhẹ dần rồi đến dứt hẳn .

          Sóng ái trùng trùng, sóng dập dùi biển khổ mênh mông, điệp điệp trùng trùng gió nhồi sóng dập. Nghiệp trần thăm thẳm mù khơi. Tình trường chôn biết bao đời trầm luân khổ ải. Sắc dục không phải làn sóng dữ, nhưng dễ dàng nhận chìm bao khách anh hùng. Sự sum họp hoặc chia lìa của cuộc đời chỉ là huyễn kịch trên sân khấu, như đàn chim ngủ tạm chung trên cây một đêm, đến sáng ra rồi đường ai nấy dông ruổi. Chúng ta khi vô thường đến, tất cả vợ chồng con cái mỗi người đều theo nghiệp đã tạo mà đi, dù cho lưu luyến khóc than, nghiệp ai đã tạo đều tự nhận lấy. Không ai chịu thế cho mình.

          Bể ái ngàn trùng mau tát cạn

          Thuyền ân muôn trượng dễ khơi vơi

          Kìa kìa Cực lạc là đâu tá

          Cực là đây chín rõ mười.

{]{

Vẻ đẹp đại dương mang nhiều bí ẩn. Tất cả dòng sông sẽ chảy về biển lớn, vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông.

- Vẻ đẹp của cánh đồng mang rất nhiều bài học. Tất cả lúa non đều vươn thẳng lên trời, nhưng lúa càng chín thì cúi đầu.

- Vẻ đẹp của thành công mang nhiều thất bại, vì vậy mà kẻ kém cỏi thường thể hiện bằng âm thanh, còn người thành công tỏa sáng trong im lặng.

          Chỉ khi nào con thật sự biết hạ mình, biết cúi đầu, biết im lặng để bỏ được cái Ta và cái của Ta, chính lúc đó tự thân con sẽ là biển lớn, là đồng lúa chín, là người thành công.

          Con nhớ nhé, ta dùng ba từ “ Biết” để nhấn mạnh. “Biết” Biết  lúc biết thời ( khôn cũng chết, dại cũng chết, biết không chết ). Nghĩa là đúng chuyện chứ không phải ngây dại mà hạ mình, cúi đầu im lặng trước cái xấu ác nghe con. ( Biết : Thời gian, không gian và sự việc )

SÁM HỐI VÃNG SANH

                   Trước Phật đài con xin sám hối

                   Phát nguyện này cầu nguyện vãng sanh

                   Nay con gieo chút căn lành

                   Cần lo giải thoát tu hành tinh chuyên

                   Nguyện con Tịnh độ hữu duyên

                   Tỏ rõ Cực lạc hiện tiền phóng quang

                   Một là tội chướng tiêu tan

                   Dứt tâm phiền não về đàn Quang minh

                   Hai là lễ Phật tụng kinh

                   Chuyên lòng niệm Phật cầu sinh Lạc thành

                   Ba là bồi đắp căn lành

                   Sân si dứt hết gieo cành liên hoa

                   Bốn là sám hối Thích Ca

                   Độ con ra khỏi Ta bà về Tây

                   Năm là lạy đức Như Lai

                   Di Đà thọ ký liên đài nêu danh

                   Sáu là phát nguyện chí thành

                   Nguyện con biết trước vãng sanh ngày về

                   Bảy là giữ đạo Bồ đề

                   Đặng qua An dưỡng hầu kề Lạc bang

                   Tám là nguyện dứt nghiệp oan

                   Kết duyên Tịnh độ sen vàng nở hoa

                   Chín là niệm Phật hằng sa

                   Dắt dìu đệ tử thẳng qua Lạc thành

                   Mười là phát nguyện vãng sanh

                   Nguyện con thêm lớn căn lành Tây phương

                   Chúng con sám hối cúng dường

                   Nguyện cho bá tánh Tây phương mau về ./.

 

LÒNG BIẾT ƠN

                   Lòng biết ơn này dâng  Đức Phật

                   Người cho con chân lý nhiệm mầu

                   Từ ngàn xưa mãi mãi về sau

                   Để con sống một đời an lạc

                   - Lòng biết ơn này dâng Cha Mẹ

                   Đã nuôi con với trọn thương yêu

                   Chăm lo con những sớm những chiều

                   Để con sống cuộc đời êm ấm

                   - Lòng biết ơn này dâng  Sư Trưởng

                   Đã cho con huệ mạng tình thương

                   Giúp cho con hiểu diệu lý chơn thường

                   Để tinh tấn trên  đường giác ngộ

                   - Với mọi người chung trong cuộc sống

                   Đã cho con mãnh áo miếng cơm

                   Biết bao nhiêu vẻ đẹp hương thơm

                   Nên trong trái tim đầy ân nghĩa.

                   -Con nguyện sẽ sống vì tất cả

                   Lòng từ bi xin trải muôn nơi

                   Đôi tay này cố gắng không lơi

                   Cho nhân thế bình an hạnh phúc.

{]{

VỤ ÁN CHA ĂN TRỘM NHÀ CỦA CON

          Vào thời vua Minh Mạng, có hai cha con kia, nhà ở gần nhau. Cha thì nghèo, mà con thì rất giàu. Đêm khuya nọ, cha lén sang nhà con xúc trộm gạo, con thức giấc tưởng là kẻ trộm, vội vác gậy đánh ở đằng sau lưng, khổ thay, cha ngã lăn ra chết, lúc đó con mới nhận biết là cha mình. Các tòa án, Làng, Xã, Huyện đều xử là “Ngộ sát” ( giết lầm ). Vụ án được xét cho là ổn, và gởi tường trình về kinh đô Huế.

Khi vua Minh Mạng duyệt đến vụ án này, người bỏ ra cả một đêm đọc đi xem lại, và cuối cùng vua bác bỏ bản án này, buộc phải xử lại và truyền lệnh tử hình người con. Vua Minh Mạng phân tích rằng :  “ không phải chỉ xét việc giết người, mà phải xét việc ăn trộm. Tại sao người cha phải đi ăn trộm ? Lại là ăn trộm của con mình ? Một  người con giàu có, mà để cho cha mình đói khổ đến nỗi đêm hôm sang nhà con ăn trộm gạo, thế thì người con đó là gì ?  Có đáng là con không ? Tội bất hiếu, như thế thật đáng phải chết. Trước khi đã giết lầm cha bằng gậy, thì đứa con để cha chết nhục và chết đói”.

Ngày nay không phải thiếu những người con như thế trong câu chuyện trên. Nhiều người con đã tự lập, họ có thể mua sắm biết bao tài sản, nhưng dành một ít để chăm lo cha mẹ lúc tuổi già thì cứ mãi tính tới tính lui. Khi cha mẹ nằm một chỗ, hoặc bệnh tật, có những đứa con mang tiền bạc, thức ăn đến cha mẹ, như là một hành vi bố thí cho kẻ bần cùng.

Những gì chúng ta làm cho cha mẹ, chúng ta cứ tưởng là nhiều lắm, dường như chưa bao giờ chúng ta hiểu thấu được những gì cha mẹ đã làm cho chúng ta.

          Cha mẹ ngày càng già yếu

          Cho con trẻ khôn thêm

          Thế mà ta lại quên

          Để cha buồn mẹ tủi

          Một mai người khuất núi

          Thương tiếc cũng như không

          Chữ hiếu chưa làm xong

          Đừng nói điều nhân nghĩa .

                                        Sưu tầm

                             {]{

 

LÀM THẾ NÀO SỐNG AN CHẾT SIÊU

          Con người có hai mặt Sống và Chết. Khi còn sống, tâm lý chung ai cũng mong muốn được bình an. Sau khi chết ai cũng muốn được siêu thoát. Vậy làm thế nào để khi còn sống được bình an sau khi chết được siêu thoát ?

          Theo lời Phật dạy, để thực hiện được sống an chết siêu. Gói gọn chỉ có ba điều :

          1/ Là không làm các việc ác

          2/ Nên làm các việc lành

          3/ Là giữ tâm cho thanh tịnh.

          Ba điều này là phương pháp đưa đến sống an chết siêu, được ẩn chứa trong tinh thần tự lợi, lợi tha. Không làm các việc ác là tự lợi. Siêng làm các việc lành là lợi tha. Khi còn sống giữ tâm thanh tịnh là nhân tố để sau khi chết được siêu.

          Ba điều này bất cứ ai cũng làm được, không luận người có tín ngưỡng tôn giáo hay không tôn giáo đều có thể làm được và sẽ làm được.  Ngay cả các loài súc sanh như : Gà, Ngỗng, Sáo, Heo, Bò  đã từng làm được.  Bằng chứng rằng : Khi còn sinh tiền Hòa Thượng Hư Vân Ngài đã từng quy y cho các con vật, như gà, ngỗng, vịt, bò v.v… Sau khi quy y cho chúng nó rồi, Ngài khuyên chúng niệm Phật. Sau khi quy y và cảm nhận lời khai thị của Hòa thượng, chúng nó chuyên niệm danh hiệu Phật, bỏ tánh hung hăng, ăn chay, không ăn côn trùng và thức ăn cá thịt. Không ăn thức ăn người ta không cho. Đứng chết tự tại lúc xả bỏ thân mạng.

          Chứng tỏ rằng : “Tâm Phật không đâu không từ bi”. Lời dạy của Phật không chỉ dành riêng cho con người, không chỉ dành cho người trí mà cho cả người độn căn hạ trí. Cho tất cả các loài chúng sanh, chúng sanh nào có duyên gặp được Phật pháp. Thì được hóa độ, có thực hành thì có kết quả, ngay trong hiện đời này, chứ không phải đời đời sau hay kiếp sau.

{]{

 

NHẬT KÝ CỦA BỐ

          Giờ nghỉ học,  Thầy giáo kể cho lớp học một câu chuyện rằng :

           Có một con tàu du lịch gặp nạn trên biển. Trên thuyền có một đôi vợ chồng khó khăn mới lên trước mũi thuyền cứu hộ, trên thuyền cứu hộ chỉ còn thừa duy nhất một chỗ ngồi. Lúc này người đàn ông để vợ mình ở lại, còn bản thân mình, nhảy xuống thuyền cứu hộ.

Người phụ nữ đứng trên thuyền sắp chìm, hét lên với người đàn ông một câu ……

Thầy giáo kể đến đây dừng câu chuyện, và hỏi  lớp học trò rằng : Các em đoán xem người phụ nữ ấy nói câu gì với chồng, khi người đàn ông đó nhảy xuống thuyền cứu hộ, còn mình ở lại.

Tất cả học sinh trong lớp đều phẫn nộ nói rằng :

Em hận anh,  em đã nhìn lầm anh rồi… Lúc này thầy giáo chú ý đến một cậu học sinh ngồi mãi vẫn không trả lời, Thầy giáo liền hỏi cậu học trò, cậu học trò nói :

- Thầy ơi !  em nghĩ người phụ nữ đó sẽ nói: “ Nhớ chăm sóc cho tốt con của chúng ta anh nhé !”.

Thầy giáo ngạc nhiên hỏi :

- Em nghe qua câu chuyện này rồi à ?

Cậu học sinh lắc đầu :  Dạ chưa ạ !   Nhưng mẹ em trước khi mất cũng nói với ba em như vậy .

- Thầy giáo xúc động: trả lời rất đúng.

Người đàn ông được cứu sống và đã trở về quê hương, một mình nuôi con gái trưởng thành. Nhiều năm sau anh ta mắc bệnh và qua đời, người con gái lúc sắp xếp kỷ vật của ba, phát hiện ra cuốn nhật ký của Bố. Hóa ra, lúc mẹ và bố ngồi trên chiếc thuyền ấy, người mẹ đã mắc bệnh nan y. Trong giây phút quyết định, người chồng đã giành lấy cơ hội sống duy nhất về phần mình.

Trong nhật ký ông viết rằng : “Anh ước gì, anh và em có thể cùng nhau chìm xuống đáy biển, nhưng anh không thể. Vì con gái chúng ta, anh chỉ có thể để em một mình ngủ một giấc ngủ dài dưới đáy đại dương sâu thẳm,  Anh xin lỗi em ”.

Kể xong câu chuyên, phòng học trở nên im lặng. Các em học sinh đã hiểu được ý nghĩa của câu chuyện này.  Thiện và ác trên thế gian này có lúc lắm mối rối bời, khó lòng phân biệt. Bởi vậy, đừng nên dễ dàng nhận định người khác.

Người thích chủ động thanh toán tiền, không phải bởi vì người ta dư giả. Mà là người ta xem trọng tình bạn hơn tiền bạc.  Trong công việc, người nguyện nhận nhiều việc về mình, không phải bởi vì người ta ngốc. Mà là người ta hiểu được ý nghĩa của trách nhiệm.  Sau khi cãi nhau, người xin lỗi trước, không phải bởi vì người ta sai. Mà là người ta trân trọng người bên cạnh mình. Người tình nguyện giúp đỡ người khác, không phải vì nợ người đó cái gì, mà là người ta xem người đó là bạn./.

GIÁO LÝ TẬP 23 Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét