Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

VẤN ĐỀ VUI KHỔ TRONG ĐẠO PHẬT

     Trong bài thuyết pháp đầu tiên trong vườn Lộc Uyển, đức Phật Thích Ca giảng giải giáo lý Tứ Đế và có đề cập đến vấn đề khổ cùng phương pháp diệt khổ.
      Danh từ  "Dukkham ariyasaccam” thường được các nhà học giả dịch là "khổ đế", là  "chân lý về sự khổ” thành ngữ mọi người cứ an trí rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn đau khổ.
      Lối phiên dịch ấy không được chính xác lắm và đã làm cho nhiều người hiểu lầm. Bởi vì chỉ nhận chữ "dukkha”với cái nghĩa hẹp của nó như thế, nên lắm kẻ cho đạo Phật là bi quan yếm thế.
      Thực ra, đạo Phật không phải bi quan cũng không phải lạc quan. Đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách quan, thực tại. Đạo Phật không ru người trong một giấc mơ thiên đường ảo tưởng, cũng không làm cho con người ảo tưởng khổ đau. Đạo Phật với một thái độ thật khách quan, chỉ rõ chân tướng của vạn vật, của cuộc đời, và dạy vẽ con đường đi đến thanh tịnh, an lạc giải thoát.
Đành rằng chữ dukkha (chữ bali) có nghĩa là khổ đau, cơ cực, trái lại với chữ suhha có nghĩa là hạnh phúc, thoả mãn. Nhưng chữ Dukkha trong bài thuyết pháp đầu tiên có một nghĩa rộng hơn nghĩa ấy nhiều. Về điểm này, đại đức W.Rahula, vốn là một văn khoa tiến sĩ đã viết: Chữ Dukha trong Tứ diệu đế còn có những nghĩa: không thường còn, không hoàn toàn, không có bản ngã, hư ngụy và đối kháng nhau. Vậy ta rất khó tìm một chữ nào để dịch được chữ Dukhacho hết nghĩa. Và thà rằng đừng dịch còn hơn là dịch nó bằng tiếng khổ làm người ta hiểu lầm"
     Người ta hiểu lầm như thế nào?
    Người ta hiểu lầm rằng đạo Phật phủ nhận tất cả những gì mà người đời gọi là lạc thú, và chủ trương rằng tất cả đều là đau khổ. Hãy nghe những người nương vào câu ''đời là biển khổ'' để mà than thở.
Biển khổ mênh mông sóng ngụt trời,
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,
         Xem lại, cùng trong biển thảm thôi.
     Những kẻ từng gặp đau khổ nhiều thì viết như vậy đã đành. Thậm chí có một số người muốn giảng giải giáo lý đạo Phật mà cũng vụng dại, có ý gò bó, uốn nắn để cho rằng ''tất cả đều là khổ''. Họ bảo uống nước dừa ngọt là vui ư? Không, bởi vì ta phải leo lên cây dừa mệt nhọc. Và như thế là khổ. Lối lập luận ấy không vững tí nào. Ai cấm ta lập luận ngược lại: ''Leo lên cây dừa là mệt nhọc ư?.  Không, bởi vì leo lên như thế để được uống nước dừa mát và ngọt".
Sự gò ép của những kẻ kia chắc hẳn chỉ là muốn cố chứng minh"đời là biển khổ".
Trong pháp tướng duy thức học, đạo Phật chủ trương có ba loại "thọ”sau đây:
      1   - Khổ thọ (những cảm giác đau khổ)
      2   - Lạc thọ (những cảm giác khói lạc)
      3 - Xả thọ (những cảm giác không khổ không vui)
      Vậy có lý do nào bảo rằng tất cả những cảm giác của ta đều cho ta (khổ thọ)? Có phải là một sự gò ép hay không?
      Đạo Phật không phủ nhận những cái vui (lạc thọ) của cuộc đời, và trái lại còn công nhận nhiều hình thức của cái vui vật chất hay tinh thần, quy định cho giới tại gia và cả cho giới xuất gia nữa. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ (khổ thọ) đều nằm gọn trong Dukkha cả. Dù cho con người có đạt đến những trạng thái thiền định cao siêu khoái lạc ở tận ''không vô biên xứ thiên'' hay  "thức vô biên xứ thiên”đi nữa thì nhữmg cái lạc thọ siêu thoát ấy cũng vẫn còn nằm trong Dukkha như thường, bởi vì con người chưa thoát được tam giới vô thường và hư giả.
Vậy bản ý của đức Phật khi dạy giáo  lý Tứ diệu đế không phải là mong cho con người trốn tránh khổ thọ để đi tìm lạc thọ. Khổ thọ và lạc thọ đều nằm trong Dukkha. Giải thoát là giải thoát khỏi cái Dukkha ấy. Chứ không phải trốn khổ tìm vui một cách quá tầm thường.
Dukkha cũng có thể gọi là khổ, nếu ta hiểu chữ khổ không phải là khổ thọ. Và giải thoát cũng có thể gọi là vui, nếu ta hiểu chữ vui không phải là lạc thọ.
Ta lấy một câu chuyện làm thí dụ cho dễ hiểu: Hai con gà đang cãi nhau về vui và khổ ở trong lồng. Chúng đàm luận về cái ngon, dở của lúa, ngô mà người ta đem tới cho chúng ăn và cho rằng ăn ngô là vui, ăn thóc là khổ... nhưng chúng không biết rằng chúng sẽ bị đem đi làm thịt.
      Cái vui và cái khổ chúng đang bàn chỉ là thứ "vui khổ trong lồng", một thứ vui khổ giả tạo,  không đáng gọi là vui khổ. Vì sao? Chúng  nó sắp bị làm thịt, nên "vui khổ”là những cái mỏng manh chốc lát ở trong lồng thì có ý nghĩa gì? Vậy cái khổ mà chúng phải tránh, không thể chỉ là cái khổ nhỏ nhặt kia, mà là một cái khổ to lớn: cái khổ bị nhốt trong lồng và sắp đem đi làm thịt. Cái khổ này cũng giống như Dukkha vậy, nghĩa là bao gồm những khổ thọ và lạc thọ  giả ảo, nhất thời, xây dựng trên vô thường, vô ngã. Cái vui chân thật hai con gà phải tìm đến không phải là cái vui nhỏ nhặt trong lồng, mà là cái vui to lớn: cái vui được sổ lồng và khỏi bị đem đi làm thịt. Cái vui được sổ lồng này cũng như cái vui giải thoát vậy.
Vấn đề khổ vui của con người cũng thế. Những khổ thọ và lạc thọ đều xây dựng trên cái vô thường vô ngã, cho nên đều gọi là Dukkha, đạo Phật chủ trương giải thoát Dukkha. Giải thoát Dukkha tức là tìm đến cái vui hoàn toàn, cái vui không bao giờ sợ tan biến vì vô thường, cái vui khác hẳn những lạc thọ mong manh.
      Đã có một quan niệm như thế về Dukkha bây giờ ta mới tạm dùng chữ khổ thay cho chữ Dukkha, và xét về chữ khổ, chữ khổ gồm có những nghĩa vô thường vô ngã, hư nguỵ và hổ tương đối kháng, chữ khổ bao gồm khổ thọ và lạc thọ.
         Khổ (Dukkha) có ba tình trạng sau đây:
        1- Khổ khổ (dukkha dukkha)
        2- Hoại  khổ (Viparinama dukkha)
        3- Hành khổ (sankhara)
        Tất cả các khổ thọ của kiếp sống như: sinh, già, bệnh, chết, ghét nhau mà bị gần nhau, yêu nhau mà bị xa nhau, ưa muốn mà không được toại nguyện.... tóm lại những đau khổ về thể xác và tâm linh đều liệt vào loại khổ khổ.
Những cảm giác lạc thọ của đời sống không thể nào còn mãi được, vì thế đều rất vô thường. Trước sau cũng tan mất. Khi chúng tan mất thì phát sinh một khổ thọ. Vậy sự chuyển biến diệt hoại này; nguyên do của khổ khổ, cũng nằm trong Dukkha và được liệt vào hạng hoại khổ.
      Hình trạng thứ ba là hành khổ, quan hệ hơn nhiều. Ở đây, trước tiên ta phải tìm hiểu thế nào là một "chúng sanh", một “cá nhân", hay một "cái ta". Theo đạo Phật "cái ta”ấy vốn là sự tổng hợp của năm uẩn Phật dạy: "Tóm lại ngủ uẩn là khổ".
      Cần phải hiểu rằng ngũ uẩn và khổ không phải là hai vật khác nhau. Chính ngũ uẩn là Dukkha vậy. Uẩn có nghĩa là những yếu tố gọi là tứ đại chủng và những chuyển hoá vật do bốn yếu tố ấy tạo thành, bốn yếu tố ấy là:
      - Yếu tố cứng.  -Yếu tố lưu động.-Yếu tố năng lực.-Yếu tố chuyển động
      Trong đại tạng Trung Hoa người ta gọi tạm là địa, thuỷ, hoả, phong.
      Trong những chuyển hoá vật của tứ đại chủng, ta thấy có ngũ căn(năm cảm quan) ngũ trần(đối tượng của năm cảm quan) ấy. Tóm lại, tất cả vật chất đều nằm trong sắc uẩn.
        Uẩn thứ hai là cảm giác, gọi là thọ uẩn. Thọ uẩn là những cảm giác vui (khoái lạc) khổ (đau khổ) và không vui không khổ (xả thọ), phát sinh do sự tiếp xúc giữa cảm quan và ngoại cảnh.
       Uẩn thứ ba là tri giác, gọi là tưởng uẩn. Tưởng uẩn là những tri giác của con người khi giác quan và ý thức tiếp xúc ngoại cảnh.
       Uẩn thứ tư là sự suy tư tác động tâm lý gọi là hành uẩn. Đó là những hoạt động tâm lý của con người, có thể là thiện, là ác, có thể tạo nên nghiệp nhân nghiệp quả. Ví dụ như sự giận dữ, sự tham muốn, sự kiêu căng, sự tin tưởng, sự quyết định... Có tất cả 51 "hành”như vậy, mà duy thức học gọi là "tâm sở"
Uẩn thứ năm là tác dụng nhận biết tri thức gọi là thức uẩn. Thức uẩn là tác dụng phân biệt, hiểu biết, chấp ngã duy trì ảnh tượng, kinh nghiệm, và duy trì sinh mạng.
Giải nghĩa về ngũ uẩn như thế là giải nghĩa một cách sơ lược. Vậy thì cái "ta”được cấu tạo do năm uẩn ấy. Năm uẩn đều vô thường, chuyển biến, sinh diệt biến dị trong từng giây phút. Vạn vật nối tiếp nhau để sinh diệt, không có thực thể. Vậy không có gì đáng gọi là "Ta”trường tại và bất biến cả.
Ai cũng công nhận rằng trong năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức không có uẩn nào được gọi là "Ta”cả. Nhưng khi năm uẩn ấy, gồm có hai phần vật chất "sắc pháp”và tinh thần "tâm pháp”tương quan, tương duyên tác động hoà hợp lẫn nhau thành một cá thể sinh lý tâm lý, ta liền có ý tưởng về một cái "ta”trường tồn và  bất biến. Vậy một ý tưởng về cái ta trường tồn và bất biến ấy chẳng qua chỉ là một sự mê lầm cố chấp mà duy thức học gọi là "ngã si”và "ngã kiến".
Năm uẩn kia chính là bản thân của Dukkha, của khổ và ở đây ngũ uẩn được gọi là hành khổ (Dukkha: ngũ uẩn vô ngã)
Lời giải thích về khổ đế này chẳng khác gì lối biện giải về giáo lý vô thường vô ngã. Lý vô thường vô ngã là một lý rất thực, đúng với những xét nghiệm của mọi người. Không phải vì thấy vạn vật là vô thường vô ngã mà tất cả những người Phật tử đều sinh ra buồn rầu chán nản. Trái lại, một Phật tử có được nhận thức và chứng nghiệm được lý vô thường vô ngã, là một người sung sướng nhất đời. Người ấy sẽ nhìn cuộc đời với một cặp mắt bình tĩnh, an lạc. Sự thành hoại, sinh diệt của vạn vật không lay chuyển được tâm hồn người, không làm cho người phải đau khổ, lo lắng, bồn chồn, băn khoăn, thắc mắc. Đức Phật và các vị đệ tử chứng ngộ thường có một nét mặt trầm tĩnh, tươi vui an lạc. Nụ cười bất diệt của các pho tượng ngày xưa cũng nói lên được những cái vui an nhiên giải thoát ấy.
Trên phương diện nhân sinh, đạo Phật không dạy người chỉ rời bỏ khổ thọ mà đi tìm lạc thọ, nhất là thứ lạc thọ do dục vọng gây nên. Cũng không phải đạo Phật chủ trương rằng lạc thọ cũng chỉ là khổ thọ. Đạo Phật chỉ đạy con người diệt trừ những nguyên nhân gây nên khổ thọ. Những khoái lạc dục vọng là nguyên nhân gây nên khổ thọ.
Diệt dục vọng, thêm từ bi để làm vơi bớt đau khổ cả kiếp sống. Nhưng mục đích cao cả của đạo Phật là phải được giải thoát. Nghĩa là chứng nghiệm được lý vô thường vô ngã, thoát ra ngoài những ràng buộc lung lạc của sự vật đang thành hoại biến dị và nhìn những thành hoại ấy với một tâm trạng an lạc hồn nhiên.

{]{

VẤN ĐỀ VUI KHỔ TRONG ĐẠO PHẬT Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ