Giải thoát nghĩa là cởi mở những
dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
Niết bàn của đạo Phật không phải
là một cõi thiên đàng như nhiều người lầm tưởng. Người ta cho rằng tu học là để
được giải thoát ra khỏi cuộc đời này, và khi chết được đưa vào một thế giới đẹp
đẽ, đầy đủ những lạc thú, không sợ một khổ đau nào xâm chiếm. Thế giới đẹp đẽ
ấy gọi là cực lạc hay niết bàn.
Thật
không có gì lầm lạc hơn nữa.
Đạo Phật chủ trương vạn vật vô
thường và vô ngã và vì thế, không bao giờ công nhận có một sự tồn tại của một
thế giới dù thế giới ấy là thế giới cực lạc.
Cuộc sống là gì? Là một dòng biến
chuyển. Vì có biến chuyển nên có sinh,
diệt, thành, hoại: mà có sinh diệt thành hoại nên có thời
gian. Ý niệm về thời gian không thể nào tách khỏi ý niệm biến chuyển: nếu không
có biến chuyển thì sẽ không có sự sống.
Ta hãy tưởng tượng thời gian
ngừng hẳn lại, vạn vật im lìm, bất biến bất động... Không thể nào có sự sống
được. Sự tồn tại im lìm này là một cái chết hoàn toàn. Giả sử Niết Bàn là một
cuộc sống đi nữa, thì cuộc sống này hẳn không phải là cuộc sống hạnh phúc,vì đã
là một cuộc sống tất nhiên phải là một dòng, biến chuyển, mà đã có biến chuyển
là có thành hoại, có sinh diệt, có đau khổ.
Nếu Niết Bàn không phải là cảnh
giới, một cuộc sống, thì là gì?
Về vấn đề này, lắm nhà học giả
nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn, đã vội vàng kết luận rằng Niết Bàn là một
trạng thái diệt hoại, hư vô. Nói như thế, tuy họ tỏ ra đã hiểu Niết Bàn không
phải là một cảnh giới cực lạc, nhưng họ cũng lại tỏ ra rằng họ cũng chưa hiểu
Niết Bàn là gì? Bảo Niết Bàn là một hoại diệt hư vô, lại bảo rằng Niết Bàn là
một”trạng thái”thì có nghe được không? “Trạng thái là gì? tạm cho là trạng
thái. Nhưng tình trạng của cái gì? Có phải là của một cá vật nào đó không? Nếu
thế cái trạng thái này cũng luôn luôn chuyển biến, vì không có cá vật nào mà
không chuyển biến. Còn nếu là sự diệt hoại, sự hư vô, thì làm gì có trạng thái
mà gọi là trạng thái diệt hoại, hư vô.
Cho nên bảo Niết Bàn là một trạng
thái thì không đúng. Chữ Niết Bàn vốn là do tiếng Phạn Nirvana, có thể dịch ra
là diệt độ là giải thoát. Cần có một câu giải thích để khỏi hiểu lầm. Diệt độ
không có nghĩa là một sự tiêu diệt hoàn toàn thành hư vô như các học giả phương
Tây lầm tưởng. Diệt đây có nghĩa là sự chấm dứt của dòng nhân quả nghiệp báo. Độ có nghĩa là qua khỏi dòng mê
mờ để lên bờ giác ngộ giải thoát. Đạo Phật chủ trương rằng sự sống của một chúng
sanh là một dòng biến chuyển liên tục theo đà nhân quả tiếp nối của ngũ uẩn.
Động cơ của dòng sống ấy là ham muốn, là dục vọng. Còn ham muốn là còn dục
vọng, còn sự sống còn luân hồi sanh tử,
cũng như còn dầu còn bất thì đèn còn cháy vậy. Khi dục vọng tiêu diệt dòng biến
chuyển liên tục của ngũ uẩn sẽ dừng lại và hết sinh diệt. Lúc bấy giờ Niết Bàn
hiển hiện. Niết Bàn là sự hiển hiện của bản thể mầu nhiệm, hoặc nói cho khác
hơn, là sự thể nhập vào bản thể vô biên trong
sáng của một chúng sanh giải thoát.
Niết Bàn có hai thứ Niết Bàn hữu
dư y và Niết Bàn vô dư y.
Một chúng sanh giải thoát, song
còn thân mạng và còn hoàn cảnh tồn tại: sinh hoạt với thân mạng ấy và hoàn cảnh
ấy mà vẫn an nhiên giải thoát, vẫn không bị sự lung lạc, lôi kéo theo đà lo sợ
đau buồn. Như thế là Niết Bàn hữu dư y. Khi thân mạng và hoàn cảnh hết tồn tại,
thì sự thể nhập bản thể được thực hiện: đấy là vô dư y Niết Bàn, không có sanh
tử, không có đau khổ vì vô dư y Niết Bàn không phải là một cuộc sống có sinh
diệt. Vô Dư y Niết Bàn là một bản thể thường còn, bất sinh bất diệt của vạn
loại hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn ngữ để hình dung, tri thức để
quan niệm.
Tuy nhiên từ Niết Bàn vô dư y có
thể hiện ra diệu dụng mầu nhiệm hóa thân của các đức Phật, các vị Bồ Tát đều là
những biến hiện “tuỳ duyên”của các bậc giải thoát an trú trong vô dư y Niết
Bàn. Ở quả vị Phật có hai loại trí tuệ: một loaị là vô phân biệt trí cùng với
bản thể chân như an trú, không phân biệt đối tượng và chủ thể, một loại là sai
biệt trí có khả năng hiện biến nhiệm mầu của bản thể thường trú, tức là thế
giới hiện tượng. Nhận thức như thế để hoá độ, để hoàn thành bản nguyện độ sanh.
Thế giới hiện tượng là thế giới
diệu dụng biến hoá của thế giới bản thể. Nhưng vì vô minh che lấp, chúng sanh
nhìn thế giới ấy như một thế giới khổ đau, đen tối vì đã đem ác nghiệp của mình
để hoà hợp vào đó, hoặc nói khác hơn, vì đã có một nhận thức sai lạc lấn áp
phần chủ quan đen tối. Mang một cặp kính
ác nghiệp chúng sanh nhìn thế giới hiện tượng mầu nhiệm kia thành một
thế giới đau thương và với ác nghiệp mình, lăn lộn trong thế giới đau thương
rất "chủ quan”ấy.
Các vị chứng ngộ xưa kia đã từng
ca ngợi trăng nước muôn hoa là những biểu hiện của bản thể, là vì họ đã lột bỏ
được cặp kính vô minh đó, và kinh Pháp Hoa cũng dạy rằng: chim kêu hoa nở là
hiện tượng mầu nhiệm của bản thể, của "pháp thân”bất diệt.
Chư
pháp tùng bổn lai
Thường
tự tịch diệt tướng
Xuân
đáo bách hoa khai,
Hoàng
oanh đề liễu thượng
Dịch
Các
hiện tượng xưa nay,
Bản
tính thường vắng lặng.
Xuân
đến trăm hoa mừng,
Oanh
vàng ca liễu thắm.
Vậy bản thể của các hiện tượng
vốn là chân như sáng suốt, không sinh diệt là Niết Bàn. Vậy Niết Bàn là qua bờ
bên kia, là giải thoát, là chấm dứt sinh tử. Nhưng chỉ là chấm dứt sự sinh tử
mà chủ thể sinh tử là bị động. Một chúng
sanh giải thoát có Niết Bàn, có thể an nhiên trong sinh hoạt sinh tử mà vẫn
không thấy có sanh tử khổ đau, vẫn có trong tay một khả năng mầu nhiệm, tự do
sinh diệt, tự do an trụ, tự do Niết Bàn. Khả năng ấy đạo Phật gọi là tuỳ duyên
hoá độ, là khả năng "tự tại", một trong bốn đức của Niết Bàn:
Thường-lạc-ngã-tịnh, tự tại là ngã vậy.
Ở đây cũng cần giải thích chữ
Phật.
Phật là gì? Là bậc có khả năng
viên mãn để có thể giác ngộ cho mình và cho người. Các vị Bồ Tát cũng có khả
năng ấy nhưng chưa được viên mãn như Phật, nên chưa có thể gọi là "giác
hạnh viên mãn".
Phật là một hoá hiện viên mãn
nhất, tốt đẹp nhất, và xứng đáng nhất cho bản thể sáng suốt. Vì là một hoá
hiện, một biểu hiện nên"các đức Phật ", đều là những hoá thân của
Phật, chứ chưa hẳn là Phật. Hoá thân (như cá nhân đức Thích Ca) thì có sinh có
diệt, chứ pháp thân tức là Phật, thì luôn bất diệt bất sinh. Cũng như các lớp
sóng có lên có xuống, có thành có hoại, chứ bản thể của các lớp sóng là nước
thì chẳng lên xuống thành vỡ bao giờ.
Vậy một chúng sanh thành Phật tức
là thể nhập vào bản thể vô biên, hoàn toàn sáng suốt. Và từ bản thể sáng suốt
ấy, từ Niết Bàn ấy, có thể hoàn toàn tự do để hoá thân, sinh hoạt trôi nổi
trong sự sinh tử biến hoại của thế giới hiện tượng mà vẫn an nhiên giải thoát,
không bao giờ bị lôi cuốn theo nghiệp lực như vô lượng chúng sinh. Đến đây ta
mới hiểu được câu kinh mầu nhiệm mà mọi người đều truyền tụng "Niết Bàn
tức là sinh tử, sinh tử tức là Niết Bàn". Quả thực Niết Bàn không tồn tại
ngoài sinh tử, và chính trong sinh tử các đức Phật đã tìm thấy Niết Bàn.
Để chấm dứt bài này ta hãy đọc
đoạn thâm thuý sau đây trong kinh Phạm Võng: “Chân tướng của mọi hiện tượng là
bất sinh bất diệt, không thường cũng không đoạn, không sinh tử, không Niết Bàn.
Kẻ ngu si sợ hư không mà muốn đi trốn thì dù bỏ hư không mà chạy cũng không
thoát được hư không. Kẻ đi tìm hư không thì dù chạy khắp đông tây nam bắc cũng
không tìm được hư không. Những kẻ ấy chỉ biết cái danh của hư không mà không
biết cái thực trong hư không.
Nay có kẻ muốn tìm Niết Bàn,
thường qua lại trong Niết Bàn mà không biết đó là Niết Bàn, chỉ thấy toàn là
sinh tử phiền não: kẻ ấy chỉ biết cái danh của Niết Bàn mà không biết cái thực
của Niết Bàn vậy".
Cho nên, ta không thể bảo Niết
Bàn có ngoài sinh tử, cũng không thể bảo rằng giải thoát tức là lìa bỏ cõi đời
hiện tại, con người phải tìm ra Niết Bàn: con người vẫn có thể giải thoát mà
không rời thế gian sinh diệt.
{—]–{