Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

VẤN ĐỀ GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
Niết bàn của đạo Phật không phải là một cõi thiên đàng như nhiều người lầm tưởng. Người ta cho rằng tu học là để được giải thoát ra khỏi cuộc đời này, và khi chết được đưa vào một thế giới đẹp đẽ, đầy đủ những lạc thú, không sợ một khổ đau nào xâm chiếm. Thế giới đẹp đẽ ấy gọi là cực lạc hay niết bàn.
Thật không có gì lầm lạc hơn nữa.
Đạo Phật chủ trương vạn vật vô thường và vô ngã và vì thế, không bao giờ công nhận có một sự tồn tại của một thế giới dù thế giới ấy là thế giới cực lạc.
Cuộc sống là gì? Là một dòng biến chuyển. Vì có biến chuyển nên có sinh,  diệt,  thành,  hoại: mà có sinh diệt thành hoại nên có thời gian. Ý niệm về thời gian không thể nào tách khỏi ý niệm biến chuyển: nếu không có biến chuyển thì sẽ không có sự sống.
Ta hãy tưởng tượng thời gian ngừng hẳn lại, vạn vật im lìm, bất biến bất động... Không thể nào có sự sống được. Sự tồn tại im lìm này là một cái chết hoàn toàn. Giả sử Niết Bàn là một cuộc sống đi nữa, thì cuộc sống này hẳn không phải là cuộc sống hạnh phúc,vì đã là một cuộc sống tất nhiên phải là một dòng, biến chuyển, mà đã có biến chuyển là có thành hoại, có sinh diệt, có đau khổ.
Nếu Niết Bàn không phải là cảnh giới, một cuộc sống, thì là gì?
Về vấn đề này, lắm nhà học giả nghiên cứu chưa đến nơi đến chốn, đã vội vàng kết luận rằng Niết Bàn là một trạng thái diệt hoại, hư vô. Nói như thế, tuy họ tỏ ra đã hiểu Niết Bàn không phải là một cảnh giới cực lạc, nhưng họ cũng lại tỏ ra rằng họ cũng chưa hiểu Niết Bàn là gì? Bảo Niết Bàn là một hoại diệt hư vô, lại bảo rằng Niết Bàn là một”trạng thái”thì có nghe được không? “Trạng thái là gì? tạm cho là trạng thái. Nhưng tình trạng của cái gì? Có phải là của một cá vật nào đó không? Nếu thế cái trạng thái này cũng luôn luôn chuyển biến, vì không có cá vật nào mà không chuyển biến. Còn nếu là sự diệt hoại, sự hư vô, thì làm gì có trạng thái mà gọi là trạng thái diệt hoại, hư vô.
Cho nên bảo Niết Bàn là một trạng thái thì không đúng. Chữ Niết Bàn vốn là do tiếng Phạn Nirvana, có thể dịch ra là diệt độ là giải thoát. Cần có một câu giải thích để khỏi hiểu lầm. Diệt độ không có nghĩa là một sự tiêu diệt hoàn toàn thành hư vô như các học giả phương Tây lầm tưởng. Diệt đây có nghĩa là sự chấm dứt của dòng nhân quả  nghiệp báo. Độ có nghĩa là qua khỏi dòng mê mờ để lên bờ giác ngộ giải thoát. Đạo Phật chủ trương rằng sự sống của một chúng sanh là một dòng biến chuyển liên tục theo đà nhân quả tiếp nối của ngũ uẩn. Động cơ của dòng sống ấy là ham muốn, là dục vọng. Còn ham muốn là còn dục vọng, còn sự  sống còn luân hồi sanh tử, cũng như còn dầu còn bất thì đèn còn cháy vậy. Khi dục vọng tiêu diệt dòng biến chuyển liên tục của ngũ uẩn sẽ dừng lại và hết sinh diệt. Lúc bấy giờ Niết Bàn hiển hiện. Niết Bàn là sự hiển hiện của bản thể mầu nhiệm, hoặc nói cho khác hơn, là sự  thể nhập vào bản thể vô biên trong sáng của một chúng sanh giải thoát.
Niết Bàn có hai thứ Niết Bàn hữu dư y và Niết Bàn vô dư y.
Một chúng sanh giải thoát, song còn thân mạng và còn hoàn cảnh tồn tại: sinh hoạt với thân mạng ấy và hoàn cảnh ấy mà vẫn an nhiên giải thoát, vẫn không bị sự lung lạc, lôi kéo theo đà lo sợ đau buồn. Như thế là Niết Bàn hữu dư y. Khi thân mạng và hoàn cảnh hết tồn tại, thì sự thể nhập bản thể được thực hiện: đấy là vô dư y Niết Bàn, không có sanh tử, không có đau khổ vì vô dư y Niết Bàn không phải là một cuộc sống có sinh diệt. Vô Dư y Niết Bàn là một bản thể thường còn, bất sinh bất diệt của vạn loại hữu tình và vô tình, không thể dùng ngôn ngữ để hình dung, tri thức để quan niệm.
Tuy nhiên từ Niết Bàn vô dư y có thể hiện ra diệu dụng mầu nhiệm hóa thân của các đức Phật, các vị Bồ Tát đều là những biến hiện “tuỳ duyên”của các bậc giải thoát an trú trong vô dư y Niết Bàn. Ở quả vị Phật có hai loại trí tuệ: một loaị là vô phân biệt trí cùng với bản thể chân như an trú, không phân biệt đối tượng và chủ thể, một loại là sai biệt trí có khả năng hiện biến nhiệm mầu của bản thể thường trú, tức là thế giới hiện tượng. Nhận thức như thế để hoá độ, để hoàn thành bản nguyện độ sanh.
Thế giới hiện tượng là thế giới diệu dụng biến hoá của thế giới bản thể. Nhưng vì vô minh che lấp, chúng sanh nhìn thế giới ấy như một thế giới khổ đau, đen tối vì đã đem ác nghiệp của mình để hoà hợp vào đó, hoặc nói khác hơn, vì đã có một nhận thức sai lạc lấn áp phần chủ quan đen tối. Mang một cặp kính  ác nghiệp chúng sanh nhìn thế giới hiện tượng mầu nhiệm kia thành một thế giới đau thương và với ác nghiệp mình, lăn lộn trong thế giới đau thương rất "chủ quan”ấy.
Các vị chứng ngộ xưa kia đã từng ca ngợi trăng nước muôn hoa là những biểu hiện của bản thể, là vì họ đã lột bỏ được cặp kính vô minh đó, và kinh Pháp Hoa cũng dạy rằng: chim kêu hoa nở là hiện tượng mầu nhiệm của bản thể, của "pháp thân”bất diệt.
Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai,
Hoàng oanh đề liễu thượng
       Dịch     
Các hiện tượng xưa nay,
Bản tính thường vắng lặng.
Xuân đến trăm hoa mừng,
Oanh vàng ca liễu thắm.
Vậy bản thể của các hiện tượng vốn là chân như sáng suốt, không sinh diệt là Niết Bàn. Vậy Niết Bàn là qua bờ bên kia, là giải thoát, là chấm dứt sinh tử. Nhưng chỉ là chấm dứt sự sinh tử mà chủ thể sinh tử là bị động.  Một chúng sanh giải thoát có Niết Bàn, có thể an nhiên trong sinh hoạt sinh tử mà vẫn không thấy có sanh tử khổ đau, vẫn có trong tay một khả năng mầu nhiệm, tự do sinh diệt, tự do an trụ, tự do Niết Bàn. Khả năng ấy đạo Phật gọi là tuỳ duyên hoá độ, là khả năng "tự tại", một trong bốn đức của Niết Bàn: Thường-lạc-ngã-tịnh, tự tại là ngã vậy.
Ở đây cũng cần giải thích chữ Phật.
Phật là gì? Là bậc có khả năng viên mãn để có thể giác ngộ cho mình và cho người. Các vị Bồ Tát cũng có khả năng ấy nhưng chưa được viên mãn như Phật, nên chưa có thể gọi là "giác hạnh viên mãn".
Phật là một hoá hiện viên mãn nhất, tốt đẹp nhất, và xứng đáng nhất cho bản thể sáng suốt. Vì là một hoá hiện, một biểu hiện nên"các đức Phật ", đều là những hoá thân của Phật, chứ chưa hẳn là Phật. Hoá thân (như cá nhân đức Thích Ca) thì có sinh có diệt, chứ pháp thân tức là Phật, thì luôn bất diệt bất sinh. Cũng như các lớp sóng có lên có xuống, có thành có hoại, chứ bản thể của các lớp sóng là nước thì chẳng lên xuống thành vỡ bao giờ.
Vậy một chúng sanh thành Phật tức là thể nhập vào bản thể vô biên, hoàn toàn sáng suốt. Và từ bản thể sáng suốt ấy, từ Niết Bàn ấy, có thể hoàn toàn tự do để hoá thân, sinh hoạt trôi nổi trong sự sinh tử biến hoại của thế giới hiện tượng mà vẫn an nhiên giải thoát, không bao giờ bị lôi cuốn theo nghiệp lực như vô lượng chúng sinh. Đến đây ta mới hiểu được câu kinh mầu nhiệm mà mọi người đều truyền tụng "Niết Bàn tức là sinh tử, sinh tử tức là Niết Bàn". Quả thực Niết Bàn không tồn tại ngoài sinh tử, và chính trong sinh tử các đức Phật đã tìm thấy Niết Bàn.
Để chấm dứt bài này ta hãy đọc đoạn thâm thuý sau đây trong kinh Phạm Võng: “Chân tướng của mọi hiện tượng là bất sinh bất diệt, không thường cũng không đoạn, không sinh tử, không Niết Bàn. Kẻ ngu si sợ hư không mà muốn đi trốn thì dù bỏ hư không mà chạy cũng không thoát được hư không. Kẻ đi tìm hư không thì dù chạy khắp đông tây nam bắc cũng không tìm được hư không. Những kẻ ấy chỉ biết cái danh của hư không mà không biết cái thực trong hư không.
Nay có kẻ muốn tìm Niết Bàn, thường qua lại trong Niết Bàn mà không biết đó là Niết Bàn, chỉ thấy toàn là sinh tử phiền não: kẻ ấy chỉ biết cái danh của Niết Bàn mà không biết cái thực của Niết Bàn vậy".
Cho nên, ta không thể bảo Niết Bàn có ngoài sinh tử, cũng không thể bảo rằng giải thoát tức là lìa bỏ cõi đời hiện tại, con người phải tìm ra Niết Bàn: con người vẫn có thể giải thoát mà không rời thế gian sinh diệt.

{]{

VẤN ĐỀ GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ