Đức
Phật ra đời thuyết pháp độ sanh trải qua 49 năm, những lời dạy của Ngài được
kết tập lại thành 3 tạng kinh điển. Nhưng chung quy trọng tâm giáo lý cũng chỉ
là 4 Đế, tức là sự thật về Khổ (Khổ đế) sự thật về nguyên nhân đưa đến Khổ (Tập
đế) sự thật về sự diệt Khổ (Diệt đế) và sự thật về con đường đưa đến diệt Khổ
(Đạo đế), rồi từ Tứ Diệu đế đó, Đức Phật đưa ra gồm nhiều khía cạnh, tuỳ căn cơ
chúng sanh mà lại có nhiều phương pháp tu tập, như Tứ chánh cần,Tứ như ý túc,
Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, 12 nhân duyên, quán vô thường, Vô ngã, Bất
tịnh quán, và Bát Chánh đạo v.v... pháp môn tuy nhiều nhưng tất cả đều được bao
gồm trong 3 môn học (Tam vô lậu học) tức Giới Học, Định Học và Tuệ Học, thường
gọi chung là Giới Định Tuệ. Vậy ba môn học này cũng là tên gọi khác của 3 tạng
Kinh Luật, Luận mà thôi.
Lời dạy của Phật tuy nhiều nhưng tóm lược
trong 3 môn Giới, Định, Tuệ. Là đệ tử Phật và đi đúng con đường Phật dạy thì
không thể thiếu sự thực tập và học hỏi trong ba môn học này, nếu người nào tu
theo Phật mà thiếu một trong ba môn nói trên thì không phải là người tu học đi
trên con đường chánh đạo mà là tà đạo. Như vậy cho ta thấy ba môn học này được
bàn bạc trong ba Tạng kinh điển dưới nhiều hình thức, nó đóng vai trò quan
trọng trong việc tu tập hành trì của người Phật tử,nó giúp con người thăng hoa
trong cuộc sống tâm linh.
Nội
dung lời dạy của Đức Phật được tóm tắt trong bài kệ như sau
Chư ác mạc tác : Không làm mọi điều ác
Chúng thiện phụng hành : Thành tựu các hạnh lành
Tự tịnh
kỳ ý : Giữ tâm ý trong sạch
Thị chư Phật giáo. : Chính lời Phật dạy
Có
thể nói bài kệ trên đã bao gồm ba môn học Giới, Định, Tuệ. Khi mọi điều ác của
ba nghiệp được chấm dứt, không còn khởi lên nữa thì đó là ý nghĩa của Giới,và
điều thiện phát sanh sau khi loại bỏ điều ác, thân tâm dần trong sạch, xa rời
phiền não. Đó là ý nghĩa của Định. Chặng cuối của nền giáo lý nêu lên là Tuệ.
Vì Tuệ có khả năng đoạn trừ các tham ái, chấp thủ vi tế đột phá mọi chướng ngại của hành giả
trong khi tu tập, nhờ đó hành giả mới có thể chứng được Tam minh, đạt đến giải
thoát giác ngộ.
GIỚI: Định nghĩa:
Giới có nghĩa là răn dè, không cho vi phạm, còn có nghĩa là thanh lương
giải thoát v.v... Vì từ ý nghĩa đó, giới cấm làm ngăn chặn các ác pháp nảy
sinh, và tăng trưởng thiện pháp, nên còn gọi là giới luật. Bất cứ một tổ chức
nào cũng đều có quy luật của tổ chức đó, ngay cả loài động vật cũng có quy luật
của nó. Huống nữa là con đường tu đạo để đưa đến giải thoát thì lẽ tất nhiên
phải có giớí luật. Mục đích của luật
nhằm giúp con người đoạn tận khổ đau và đưa đến giải thoát giác ngộ. Tuỳ theo
hoàn cảnh và trình độ Đức Phật chế ra nhiều loại giới. Giới người xuất gia,
Sadi, Sa di ni, 5 giới, 10 giới, 8 giới tuỳ theo đó mà hành trì. Công năng và
lợi ích của việc trì giới là “Phòng phi chỉ ác” (ngăn chặn các điều sai trái và
đình chỉ các điều ác). Chính nhờ hành trì các giới điều mà người Phật tử được
thanh tịnh ba nghiệp.
Chính
tầm quan trọng và vô cùng lớn lao và quyết định của giới mà Đức Phật khi sắp
nhập Niết Bàn đã tha thiết nhắn nhủ các Tỳ Kheo phải giữ giới và Ngài ví sự tồn
vong của giới luật là sự tồn vong của Phật Pháp vậy.
ĐỊNH: Định
nghĩa: Chữ định nguyên ngữ là Samadhi.
Tàu dịch Tam Ma Địa. Đó là sự tập trung, chú tâm có lợi ích. Là sự xoay quanh
của Tâm và Tam Sở một cách đều đặn và chánh đáng vào một đối tượng duy nhất.
Đấy là trạng thái Tâm và Tâm Sở ở trong tình trạng quân bình, chánh đáng và đặt
hết vào một đối tượng duy nhất, không phân tán hay xao lãng. Trong quá trình tu
tập theo giáo lý Phật giáo. Định được diễn tả ở cấp độ thứ hai sau giới. Vì nhờ
có sự tuân thủ nghiêm ngặt của giới nên hành quả đạt được sự tập trung tức
Định. Các giới điều như một bức tường kiên cố ngăn chặn các ác pháp mà nhất là
đối với sự tán loạn, phóng túng của tâm mình “Nhơn giới sinh định, nhơn định
phát huệ”. Đây là hệ quả tất yếu khi hành giả thật sự đóng kín các cửa ngõ của
các căn, không cho các căn tiếp xúc với các trần bên ngoài. Đó là con đường trở
về “biện tâm” thật sự bằng các pháp môn hộ trì các căn, chú tâm tỉnh giác,
chánh niệm tỉnh giác v.v...
TUỆ: Định
nghĩa: Tuệ tức là trí tuệ, là đức tính cao nhất và là chặn cuối của tiến trình “Tam
vô lậu học”. Theo ý nghĩa của Phật giáo. Trí tuệ là sự quán tưởng một cách chân
chính như thật có phương pháp về các pháp. Trí tuệ có đặc tính thấu nhập vào
bản chất vạn pháp. Biểu hiện của nó là không bị mê mờ. Thiền định là nguyên
nhân trực tiếp của nó.
Chúng
ta cũng cần phân biệt đặc tính riêng của trí tuệ. Trí có tính quyết định đối
với sự lý các pháp. Tuệ có tính phân biệt rõ ràng đối với sự lý các pháp. Tuy
vậy, Trí và Tuệ đều cùng một thể, nên có
khi nói trí, có khi nói Tuệ mà nghĩa cũng như nhau. Lại Trí Tuệ được gọi bằng
nhiều tên gọi khác nhau như quán nhẫn, Kiến, Quang, Minh, Giác v.v... cho đến
chánh kiến, chánh tư duy, Trạch pháp v.v..trong 37 phẩm trợ đạo.
Như
vậy, nhân gần đưa đến giác ngộ là trí
tuệ. Nhờ có trí tuệ mới nhận thức được như thật các pháp là vô thường, khổ,
không vô ngã. Những hành trì kiên cố từ bao đời nay ngăn chặn chúng sanh không
thể đạt đến giải thoát giác ngộ như tham ái, chấp thủ,vô minh đều sụp đổ hoàn
toàn nhờ sức công phá mảnh liệt của trí tuệ vô lậu này vậy.
Vậy
trí tuệ là chặng cuối của tiến trình tu tập Tâm
và đóng vai trò quyết định tối hậu, vì rằng chỉ sức mạnh của trí tuệ vô
lậu mới có thể phá vỡ và đốt cháy mọi chấp thủ lậu hoặc vi tế.
Tóm
lại: Giới, Định, Tuệ được gọi là ba môn học vì bất cứ những ai hành trì theo
lời dạy của Đức Phật đều phải học tập và tu trì theo ba môn này.Tầm quan trọng
của nó rất lớn và giữ phần quyết định cho việc giải thoát giác ngộ.
Trong
ba môn Giới, Định, Tuệ đều đan chặt vào nhau và hỗ tương cho nhau. Trong Giới
có Định, trong Định có Tuệ, và tất nhiên
trong Tuệ phải có Giới và Định. Ta có thể ví dụ Giới- Định- Tụê như cái vạc ba
chân. Nếu có một trong ba chân hỏng thì cái vạc không thể nào đứng vững được.
Cũng vậy, người tu tập theo Phật giáo, nếu có Định và Tuệ mà không giữ
giới thì Định, Tuệ ấy là Tà Định, Tà Tuệ
của ngoại đạo mà thôi. Nếu không trú vững trên đất giới thì chắc chắn Định và
Tuệ không thể nảy mầm được. Cho nên Kinh Lăng Nghiêm nói rằng: “Dầu có người tu
hành mà đắc Định, đắc Tuệ mà không có giới luật thì cũng ma đạo mà thôi”
Vai
trò quan trọng của mối liên hệ mật thiết trong ba môn học nói trên, cho ta thấy
rằng không thể nào tách rời hay coi trọng bất cứ một môn học nào cả. Giới- Định-
Tuệ là pháp môn mà Đức Phật đã tu tập và thực chứng dưới cội Bồ Đề, cho nên
người tu phải luôn kết hợp chặt chẽ ba môn học đó. Không được loại bỏ một đề
tài nào, vì như vậy đích điểm tối hậu là giải thoát, an lạc sẽ không bao giờ
đạt đến được.
MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁT CHÁNH ĐẠO VÀ BA MÔN HỌC GIỚI, ĐỊNH, HUỆ
Bát chánh đạo là pháp tu học căn bản, và
bao gồm tất cả hệ thống giáo lý của sự tu tập. Hay nói Bát Chánh Đạo là cách
nói rộng ra của Giới Định Tuệ mà thôi.
Hay nói cách khác trong Bát Chánh Đạo có hàm chứa Giới Định Tuệ và ngược lại
Giới Định Tuệ bao gồm Bát Chánh Đạo. Trong cái này đã hàm chứa cái kia và trong
cái kia đã chứa cái nọ. Đó là khái niệm tương quan tương nhiếp trong triết lý
duyên sinh của Phật. Như vậy theo khái niệm này thì mỗi một chi phần của Bát
Chánh Đạo đều có sự hiện diện của Giới Định Tuệ. Hơn nữa trong mỗi môn học đều
tồn tại trọn vẹn 8 chi phần.
Trong
thực tế, ngay như trong Chánh Kiến là chi phần đầu tiên của Bát Chánh Đạo,
thuộc Tuệ học nhưng nó cũng luôn có sự hỗ trợ của Giới và Định học. Vì nếu
không có hai môn học này trợ lực thì chánh kiến ấy không thể tồn tại lâu dài.
Kết quả tất yếu là nó trở thành tà kiến và cả một chuỗi mắc xích trong Bát Chánh Đạo đều tan
rã, cho đến chi cuối cùng là chánh định cũng vậy. Nếu khi đã đạt đến chánh định
mà không có Giới và Tuệ hỗ tương đi kèm thì hành giả không thể chứng Chánh trí
và Chánh giải thoát được. Như vậy mối quan hệ giữa Bát Chánh Đạo với Giới,
Định, Tuệ là mối quan hệ bất khả phân.
Tuy
nhiên ở đây ta cũng cần đề cập các chi phần nào của Bát chánh đạo có liên hệ
nhiều nhất đến từng môn học một.
1-
Giới <=> chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
2-
Định <=> Chánh tinh tấn,
Chánh niệm.
3-
Tuệ <=> Chánh kiến, Chánh tư duy.
Có
một điều chúng ta cần chú ý rằng trong Bát Chánh Đạo chi đầu tiên là chánh
kiến, chánh tư duy (tuệ học) như vậy nếu xét theo ba môn học được nêu Giới rồi
đến Định và Tuệ là chặng cuối. Vậy có gì trái ngược và mâu thuẩn trong lời dạy
của Phật chăng?
Đức
Phật tuỳ căn cơ mà thuyết pháp, tuỳ thực tế tâm lý của chúng sanh mà trị bệnh,
chúng sanh tà kiến, điên đảo, vọng tưởng tạo biết bao nhiêu nghiệp nhân xấu xa.
Điều đầu tiên, Đức Phật muốn chữa trị những sai lầm đó thì Ngài cần chỉ cho họ
thấy đúng đắn về những vọng kiến và chánh tư duy (tuệ) đóng vai trò quyết định
đầu tiên nhằm phá vỡ và thiêu cháy mọi sai lầm và đưa thành quả vào trật tự đạo
đức của chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng (giới) sự an lạc và định tĩnh từ đó
sinh khởi để nhập vào lộ trình tự chứng rồi dẫn đến ba chi phần chánh tinh tấn,
chánh niệm, chánh định. Và lại một lần nữa tuệ góp phần chủ yếu trong việc phá
vỡ bức tường vô minh chấp thủ vi tế trong khi đạt đến các cảnh giới thiền định.
Chính những chấp thủ vi tế ấy trói buộc tâm thức hành giả cứ quanh quẩn mãi mà
không thể thoát ra được. Cho nên trí tuệ trong giai đoạn này có công năng giúp
hành giả đạt đến giải thoát tri kiến, an trú trong cảnh giới Định mà khi ấy mọi
thọ tưởng đều diệt tận, gọi là diệt thọ tưởng định.
Trên
cơ sở những phân tích trên, cho ta thấy rằng lời Đức Phật dạy không mâu thuẫn
mà có tính cách khoa học và lôgíc biện chứng. Mối quan hệ giữa Bát Chánh đạo và Giới, Định, Tuệ là mối quan hệ trùng trùng nhân quả, tương quan mật
thiết với nhau như một vòng tròn khép kín. Tu tập Bát Chánh đạo là tu tập Giới,
Định, Tuệ và ngược lại. Vì thế nếu cho rằng 8 chi phần trong lộ trình ấy, hay
ba môn học phải được tu tập và thực hành cái này sang cái khác, theo một thứ tự
nhất định thì quả thật hoàn toàn sai lầm. Chúng ta cần phỉ được phát triển như
đồng bộ, đồng thời với nhau, càng nhiều càng tốt, tuỳ khả năng từng người.
*** *** ***
0 nhận xét:
Đăng nhận xét