Trong
một bài trước, chúng ta thấy rằng đạo Phật chủ trương một cái biết rộng rãi,
thấu triệt và cao tột (vô thượng chánh biến tri giác). Cái biết này căn cứ trên
những thực nghiệm tâm linh trên sự giải thoát giác ngộ của một vị Phật đã siêu
xuất vô minh và sanh tử luân hồi. Cái biết ấy là cái biết về chân tướng của vạn
hữu, cái biết về bộ mặt thực của mọi hiện tượng (bản lai diện mục).
Chân
tướng ấy, bộ mặt thật ấy, được gọi là chân như, là bản thể, là Phật. Nói tóm
lại là chân lý. Vấn đề chân lý trong đạo Phật được quan niệm như thế nào?
Đạo
Phật chủ trương rằng tri thức con người có thể đạt đến chân lý, với điều kiện
là con người phải chuyển cái tri thức hiện thời thành tri thức Bát Nhã. Tri
thức của chúng sanh có một khả năng kém cỏi, vì đã bị bao nhiêu mê ám che lấp
(vô minh). Nay có thể chuyển thức (tri thức) thành trí (Bát Nhã) và với khả
năng này con người mới trực nhận được bản thể.
Duy
thức học có thể phân biệt ba loại hiểu biết mà tri thức con người có được.
1- Sự hiểu biết bằng hiện lượng
Lượng
tức là sự phân biệt so đo, hiểu biết hiện lượng là cái biết trực tiếp những sự
vật trong thời gian hiện tại và không gian hiện tại. Sự hiểu biềt này không cần
trãi qua một không gian suy luận. Tôi thấy trước mặt tôi một quyển từ điển. Cái
thấy ấy là hiện lượng, khả năng nhận xét trực tiếp chớ không cần suy nghĩ. Có
thể tạm xem như là một lối trực giác được. Nhưng có trường hợp hiện lượng đúng
và có trường hợp hiện lượng sai. Thấy sợi dây cho nó là sợi dây, đó là ''chân
hiện lượng'' (hiện lượng đúng).
Thấy sợi dây hoảng hốt cho là con rắn,
ấy là ''tợ hiện lượng'' (hiện lượng sai). Tợ nghĩa là tương tợ như đúng, nhưng
kỳ thực là sai lầm.
2-Sự hiểu biết bằng tỷ lượng
Tỷ ở
đây có nghĩa là so sánh suy luận, đối chiếu. Nếu tôi hỏi ''chiều mai có thể mưa
không?'' thì hiện lượng của tôi không thể trả lời được. Vì nó có thể biết được
việc trong hiện thời và hiện xứ. Chiều mai tức là việc xảy ra trong một thời
gian khác, vậy phải nhờ đến một khả năng suy luận khác, khả năng ấy là tỷ -
lượng. Cũng như tôi hỏi: ''có gì trong lòng trái đất không?'' thì hiện lượng
của tôi cũng không thể trả lời được,vì việc ở đây không phải là việc hiện xứ,
không thể nhận biết được nếu không có tác dụng suy luận. Vì thế phải cần dùng
tỷ- lượng.
Sau bức
tường kia có gì mà khói lên? Tỷ lượng trả lời rằng có lửa. Bởi vì nó suy luận “Có
khói tức là phải có lửa”. Nếu sau bức tường có một đống lửa thật thì gọi là
chân tỷ-lượng (tỷ lượng đúng), còn nếu sau bức tường có một vật khác không phải
lửa nhưng cũng có thể làm nguyên nhân cho khói (như một chiếc xe hơi rồ máy
chẳng hạn) thì gọi là ''tợ tỷ lượng'' (tỷ lượng sai).
Hiện
lượng tuy chỉ cần nhận thức những sự vật ở hiện thời và hiện xứ nhưng vẫn cứ bị sai lầm luôn luôn. Tỷ
lượng vì phải suy đạt đến những cái ở thời gian khác và ở địa phương khác cho
nên lại dễ bị lầm hơn nữa. Do đó, sự suy tư trắc đạt của tỷ lượng thường dẫn ta
đi xa sự thực một cách đáng sợ. Các nghi vấn lớn lao về cuộc đời, về bản thể,
đã không giải quyết nhờ hiện lượng, thì cố nhiên phải nhờ tỷ lượng. Nhưng tỷ
lượng thường dẫn ta đến những biên giới siêu hình xa lắc và thường biến ảo
không lường. Ngọc Hoàng, Thượng Đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Táo Quân, Phạm Thiên...
đều là những sản phẩm của tỷ lượng. Trong phạm vi thực nghiệm tỷ lượng còn tỏ
ra lắm lúc sai lầm, huống hồ là khi đã vượt ra ngoài thực nghiệm. Đôi cánh tự
do và táo bạo của tỷ lượng đưa ta đi cùng khắp, nhưng khi trở về chỉ đem lại
những giả thuyết khó tin khó nhận. Thế nên trong rất nhiều trường hợp tỷ lượng
trở thành tợ tỷ lượng, và con người không thể nương vào đấy để đi tìm chân lý.
Vậy thì
do đâu mà tri thức của chúng sanh không thể tìm đến chân lý? Chính là do ở tợ
hiện lượng và tợ tỷ lượng. Nhưng tại sao tri thức của chúng sanh không thuần là
chân hiện lượng, chân tỷ lượng mà lại có xen vào là tợ hiện lượng và tợ tỷ
lượng.
Đạo
Phật chủ trương: vì có một yếu tố mê mờ, đã gây nên những thứ ''tợ'' đó. Thứ mê
mờ si ám kia được gọi là vô minh.
Các bậc giác ngộ là những người phá
trừ được vô minh, tiêu diệt được tợ hiện lượng và tợ tỷ lượng, phát triển đến
cùng cực chân hiện lượng và chân tỷ lượng. Hai khả năng sau này, sau khi vô minh đã trừ diệt, có thể đạt đến
trạng thái sáng suốt cao nhất của nó là Bát Nhã Trí để có thể trực nhận được
chân lý vạn hữu.
Các bậc giác ngộ, sau khi chứng đạt
chân lý, liền nghĩ đến việc giảng giải cho người chưa chứng đạt. Nhưng chân lý
tuyệt đối không thể dùng một khí cụ tầm thường kém cỏi là ngôn ngữ để có thể
thuyên giải, thuyết minh. Thế cho nên dù các bậc giác ngộ có thuyên giải, thì
cũng chỉ thuyên giải được ảnh tượng của chân lý và phương pháp đạt đến chân lý,
chứ không thể thuyên giải bản thân của chân lý được.
Ảnh
tượng của chân lý chỉ là một phương tiện để chỉ bày chân lý chứ không phải là
chân lý. Chúng sanh phải nương vào ảnh tượng ấy để tìm dần đến chân lý, bằng
học tập bằng thực hành. Tuy chưa phải là bản thân chân lý, nhưng ảnh tượng kia
cũng đã vượt khỏi những hình bóng tưởng tượng trắc đạt sai lầm, những vọng
tưởng điên đảo về chân lý của tợ tỷ-lượng.
Vì thế
chân lý không nằm trong kinh điển, và kinh điển chỉ là phương tiện chỉ bày chân
lý, cho nên đức Phật có dạy:
Chân lý
là mặt trăng. Giáo lý của ta là ngón tay chỉ mặt trăng. Đừng lầm ngón tay là
mặt trăng vậy. Nếu y theo kinh điển để giải nghĩa, để tìm chân lý trong những
giòng chữ, thì đó chính là chỉ biết nhìn ngón tay mà chưa biết nhìn mặt trăng.
Nhưng rời bỏ những kinh điển đi thì rơi vào những điên đảo vọng tưởng của tợ tỷ
lượng. Thế nên một vị tổ sư đã nói:''Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan, ly
kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết'' nghĩa là:'' Chấp chặt nơi văn tự mà giải
nghĩa, thì oan cho các đức Phật ba đời, mà rời bỏ kinh điển thì lại lạc vào
những tà thuyết của ma vương''.
Vậy
ngoài hai loại hiểu biết là hiện lượng và tỷ lượng, ta còn có một loại hiểu
biết thứ ba nữa là thánh giáo lượng.
3- Sự hiểu biết bằng thánh giáo lượng.
Sự hiểu
biết có được là nhờ căn cứ trên lời dạy của các bậc giác ngộ. Đó chính là những
''ngón tay chỉ mặt trăng'' nhờ đấy mà kẻ phàm phu có được những phương
tiện để trở thành bậc thánh nhân giác
ngộ.
Nhưng đối với những lời thánh giáo này
ta cũng phải giữ với một thái độ dè dặt khi tìm hiểu. Vì chưa thấu đạt trực
tiếp, nên ta chưa biết một cách ''thực nghiệm'' rằng chân lý ấy có thực là một
chân lý không, hay chẳng qua chỉ là một tợ tỷ lượng khác. Ở đây, phải có đức
tin. Nhưng đức tin cũng phải do những nhận xét, những chứng nghiệm sơ bộ mới
được xây dựng vững vàng.
Ví như trong khi con người đang
cố chấp vạn vật là thường, có bản ngã mà nghe Phật dạy một chân lý gồm có chủ
trương vô thường vô ngã thì con người phải kiểm sót lại xem có thực rằng vạn vật là vô thường vô ngã
hay chăng. Nếu thực thì đó có thể là một trong những căn bản cho đức tin vậy. Ta
lấy thêm một thí dụ trong câu chuyện giả đặt sau đây.
Một vùng kia, người ta mắt bệnh truyền nhiễm,
chết rất nhiều. Một bác sĩ đến nghiên cứu chữa bệnh và trị lành được nhiều
người chứng bệnh dần dần bớt hoành hành trong vùng đó. Một bác nhà quê đến thăm
bác sĩ. Bác sĩ vốn là một nhà vi trùng học đại tài, bảo bác nhà quê của chúng
ta rằng có những sinh vật nhỏ hết sức, đến nổi mắt trần không thể thấy được,
những sinh vật ấy phá hoại cơ thể con
người và gây ra nhiều bệnh truyền nhiễm rất nguy hại như bệnh lao, bệnh
dịch bệnh đậu mùa... Khó tin quá, bác nhà quê lắc đầu. Tin sao được khi mình
chưa nghe ai nói đến một ''chân lý ấy kỳ quái như thế bao giờ. Nếu tin ngay thì
là mê tín đấy, dù là đúng, mà không tin không làm sao thấy được sự thực - thấy
vi trùng.
Kỳ thực, bác sĩ vốn là nhà có thực học,
sự thực kia ''vi trùng làm bệnh'' ông thấy rất rõ ràng, nhưng chẳng biết làm
sao cho bác nhà quê tin. Ông bằng cắt nghĩa một cách tàm tạm (phương tiện) rằng
những con ''vi trùng'' ấy nó có cái móc câu, hay là cái phết. Nhưng ''sự thực''
của nhà bác học nói ra đối với bác nhà quê là ''siêu hình'' quá khó tin quá.
Con trùng gì mà như cái móc câu, như cái phết? Con trùng gì mà không thấy được?
Không trông thấy được mà biết như cái phết như cái móc câu?
Trước kia, bác nhà quê cho rằng bệnh là
do ma quỷ, la sát làm hại, ''ma quỷ, la sát'' chính là vọng tưởng điên đảo, là
sản phẩm của tợ tỷ lượng. Nay ''vi trùng móc câu'' là thánh giáo lượng. Bác nhà
quê có thể tin được chân lý ''vi trùng móc câu'' này chăng?
Ban đầu thì nghi. Nhưng sau xét nghiệm
lại, bác thấy có những điểm sự thực làm bác có thể tin được:Trước khi bác sĩ
đến, người ta đã cúng cấp, trừ tà trừ quỷ nhiều, người ta đã cúng như thế, sao
bệnh không bớt hoành hành? Sao bác sĩ chích thuốc cho ai thì người ấy khỏi? Bác
sĩ học giỏi hơn, thông thái hơn mình, ai chối cãi được điều ấy? Nếu không biết
rõ, nếu phỏng đoán mù mờ thì cái chân lý ''vi trùng móc câu'' kia làm sao có
thể làm nền tảng cho một thứ thuốc hay được? Hơn nữa, được nghe lời giảng giải
của bác sĩ về vi trùng, về kính hiển vi, bác nhà quê đã thấy hợp lý lắm rồi. Vì
thế, bác nhà quê tin.
Nhưng tin chưa đủ. Phải ''thấy'' được
mới nghe. Bởi vì nếu có tin, thì chỉ tưởng tượng được ''nó'' mà thôi. Nhưng làm
sao mà tưởng tượng? Bác nhà quê quyết nhìn ''chân lý vi trùng''. Bấy giờ là một
sự nhận thức trực tiếp. Và ống kính kia quả là Bác Nhã trí, là ''Vô thượng
chính biến tri giác''vậy.
Bác nhà quê không thoả mãn với lời mô
tả của bác sĩ, muốn được thấy”vi trùng"một cách trực tiếp. Bác biết rằng
tưởng tượng theo lời miêu tả của bác sĩ tuy không có sai như khi bác vọng tưởng
quỷ quái la sát nữa, nhưng cũng vẫn chưa đúng hẳn. Vậy thì người học Phật cũng
không thoả mãn với những ngón tay chỉ mặt trăng, những bóng dáng đó đã vượt xa
vọng tưởng của tợ tỷ lượng.
Người học Phật cần có đủ năng lực trí tuệ
để học hiểu. Để nhận thấy những điểm đúng và chân lý của thánh giáo lượng, để
tin và bắt tay vào cuộc thực nghiệm lớn lao hàng kiếp, cuộc thực nghiệm mà Thái
tử Tất Đạt Đa đã hoàn thành rực rỡ dưới cội bồ đề.
{—]–{