Chủ Nhật, 8 tháng 10, 2017

NHÂN QUẢ- LUÂN HỒI

Lời   Đầu

Đạo Phật không nói chuyện trên trời, mà là nói chuyện con người. Mục tiêu của độc thần giáo là phụng sự Chúa. Còn mục tiêu của đạo Phật là phụng sự chúng sanh. Giáo lý của Phật là cái gì có thể nắm bắt được và thực chứng. Do dó, chương trình giáo dục Tăng Ni, Phật tử là chương trình cấp bách và hàng đầu.
     Nhìn vào đạo Phật ta thấy ngay đạo Phật không phải là tôn giáo mà là hệ thống giáo dục chứ không phải hệ thống tín ngưỡng. Vì danh từ: “Phật Giáo" nghĩa là lời Phật dạy (teacher Boddha), giáo đây có nghĩa là giáo dục (teaching), chứ không phải chữ tôn giáo được dịch từ tiếng Anh là: Religion, theo nghĩa từ tôn giáo Religion có nghĩa là tín ngưỡng, tôn sùng một đấng thần linh nào đó.  Điều này cho ta thấy, Phật không hề, và không bao giờ bắt mọi người phải tin theo Ngài, phải tuân phục theo Ngài, mà Ngài nói: Ta chỉ là người dẫn đường (đạo sư) mà thôi, các người phải tự mình thắp đuốc lên mà đi v.v...
     Đức Phật đã lên án đạo Bà La Môn, là lấy sự cúng kiếng, cầu nguyện làm mục đích, Phật đã phê phán tu sĩ Bà La Môn như vậy. Nhưng đạo Phật càng về sau, nhất là thời mạt pháp bị biến dạng, bởi nhiều lý do là ít người tu chứng, pha trộn những tập tục thế gian và ảnh hưởng tín ngưỡng ngoại giáo, nên Phật giáo mang màu sắc tôn giáo nhiều hơn là hệ thống giáo dục và thực hành tu chứng.
     Cái bệnh thời đại là xây dựng kiên cố và đấu tranh kiên cố.  Nơi nào có Phật giáo phần đông đều  xây dựng cơ sở cao to nguy nga  hơn là  giáo dục và tu tập, và nẩy sinh ra nhiều tông nhiều phái, nhiều giáo hội để rồi kích bác lẫn nhau, làm cho tiềm lực của phật giáo mất đi tính chất thiêng liêng cố hữu của nó. Nằm trong hoàn cảnh giai đoạn này muốn tu cho đạt là chuyện không phải dễ.      
     Cư sĩ là thành phần đông nhất, phải được chú ý nhiều hơn, quan tâm hơn vì người tại gia là thành phần đem đạo vào đời, người tại gia học hiểu giáo lý họ sẽ là người đem giáo lý ứng dụng vào cuộc sống hằng ngày nó sẽ ảnh hưởng đến gia đình, xã hội mọi người sống chung, có ảnh hưởng tốt, không những khiến cho phật giáo ăn sâu vào lòng người mà còn làm cho xã hội được yên ổn. Chúng ta chỉ khuyến khích người cư sĩ, lễ Phật cúng chùa để được phước và niệm Phật để được vãng sanh. Nhưng hai cái này phước và vãng sanh khiến mọi người đức tin yếu và sức hiểu biết không có làm sao thấy hoặc cảm nhận được, người ngoài đứng nhìn vào làm sao tin nổi. Cho nên đạo Phật được gọi là đạo Trí tín chứ không phải đạo mê tín bằng sự phó thác đời mình cho đấng thiêng liêng mà không cần học hỏi tìm hiểu và hành trì.
     Để gợi ý đôi lời cho tập tài liệu học tập 3, của Đạo tràng Bát Quan Trai, mong rằng các học viên hiểu ý quên lời, bỏ qua cho những chổ thiếu sót chưa nhận ra được.Góp ý bổ sung cho tập tài liệu được hoàn mãn và nghiêm túc hơn.

NHÂN QUẢ LUÂN HỒI

  1- Mở đề:

Có một số người bảo: “Nhà Phật nói luân hồi nhân quả để ru ngủ con người trong giấc mơ mê tín”. Chúng ta khảo sát câu nói đó có đúng như thế không? Là người Phật tử chúng ta cần phải làm sáng tỏ vấn đề này. Bởi thuyết luân hồi là một thuyết quan trọng trong các giáo lý nhà Phật. Đạo Phật là đạo giác ngộ, truyền bá những lẽ thực của mình giác ngộ được cho chúng sanh biết là nhiệm vụ của Đức Phật. Chúng ta là những người nối bước theo sau Phật, cần phải hiểu rõ, nghiên cứu tường tận và có trách nhiệm giải bày cho mọi người được hiểu, khỏi sanh nghi ngờ là điều cần yếu không thể thiếu được. Lý luân hồi là một cơ cấu hệ trọng trong Phật pháp, bao gồm cả Nhơn quả - Nghiệp báo, là căn bản đạo đức của người tu Phật. Không thông lý luân hồi, người tu Phật khó bề tu tiến được, do đó chúng ta cần phải tìm hiểu thấu đáo.
Mỗi tôn giáo đều có một giáo lý riêng, để giải thích sự sống, giáo lý ấy có khi hoàn toàn dựa trên đức tin thuần tuý, có khi dựa trên sự tưởng tượng hoang đường, có khi dựa trên lòng mơ ước tha thiết của loài người.
Riêng về đạo Phật, giáo lý về sự sống đặt căn bản trên lý trí và thực nghiệm, giáo lý ấy mệnh danh là NHÂN QUẢ- LUÂN HỒI.
Luật nhân quả không xa lạ gì đối với những ai có một chút nhận xét và suy luận, luật nhân quả lại rất gần gũi với khoa học. Nhờ  tin chắc ở luật nhân quả mà nhà khoa học khám phá ra rất nhiều điều huyền bí của vũ trụ và phát minh được những cái kỳ lạ cho cõi đời. Dựa trên luật nhân quả mà các nhà khoa học, bác học làm cho nhân loại từ cuộc sống thô sơ, cơ cực đưa đến cuộc sống sung túc tiện nghi. Dựa trên luật nhân quả mà các nhà y học tìm ra những phương pháp trị bệnh cho nhân loại mau hồi phục một cách hữu hiệu. Nhưng những nhà khoa học, bác học, y học chỉ áp dụng luật nhân quả trong phạm vi vật chất. Đức Phật đi xã hơn chứng minh luật nhân quả cả trong phạm vi tinh thần.
Các nhà khoa học chỉ áp dụng luật nhân quả trong một thời gian nhất định. Đức Phật đi xa hơn nữa đã chứng minh luật nhân quả trong suốt thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Luật nhân quả chứng minh thời gian vô hạn định và trong phạm vi tinh thần ấy, Đức Phật gọi bằng một cái tên riêng là “luân hồi”. Nói một cách khác luân hồi là nhân quả liên tục trong phạm vi tinh thần. Đã tin nhân quả tất nhiên không thể phủ nhận luân hồi. Vì thế, ngày nay trên thế giới, không phải chỉ có tín đồ Phật giáo mới tin lý nhân quả luân hồi, mà các nhà thông thái Âu Mỹ cũng lãnh nạp giáo lý ấy. Trong các báo chí và sách vở ở khắp năm châu vấn đề nhân quả luân hồi đã được đem ra nghiên cứu một cách đúng đắn và chân thành      

2- ĐỊNH NGHĨA:

 Luân hồi là xoay vần, cứ mãi đảo lên lộn xuống xoay vần trong khuôn khổ cố định. Mọi sự đổi thay biến chuyển không đứng yên ở một vị trí nào. Hằng xê dịch biến thiên từ trạng thái này sang trạng thái khác,  từ hình tướng này sang hình tướng khác. Tất cả sự biến thiên đều tuỳ duyên thăng trầm không nhất định là luân hồi.
Nhân quả:  Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả.  Nhân là hạt giống, quả là trái. Như vậy có gieo giống thì có quả sau này, gọi là nhân quả.
   - Luân hồi là sự thật, qua định nghĩa trên ta thấy luân hồi là một triết lý thực tiễn không còn gì phải nghi ngờ. Bởi vì con người và vũ trụ hiện tại đều nằm chung trong một định luật biến thiên.
a) Quả đất luân hồi: Nhờ khoa học phát minh cho chúng ta biết quả địa cầu chúng ta đang ở xoay quanh một cái trục trong không gian. Do sự xoay tròn này, phía nào của quả đất hướng về mặt trời thì sáng, phía bị khuất thì tối. Từ đó con người mới đặt ra thời gian. Sự xoay tròn này là một sự luân chuyển, hay gọi là luân hổi. Quả đất xoay khiến cho có ngày đêm và 24 tiếng đồng hồ nhịp nhàng theo chiều quay  của trái đất, lại có chia xuân, hạ, thu, đông do sự xê dịch gần xa  mặt trời. Từ sự xoay tròn của trái đất, nảy sinh ra thời gian. Thời gian và trái đất luân hồi, quả đất là chỗ tựa nương để sống còn của vạn vật và con người, bản thân nó đã luân hồi thì những vật tựa nương vào nó làm sao tránh khỏi luân hồi. Thế thì cả vũ trụ lẫn vạn vật cùng toàn thể chúng sanh đều là luân hồi. Đó là một sự căn cứ trên khoa  học chứ không phải chuyện huyền thoại mơ hồ.
     b) Vạn vật luân hồi: Mọi vật trên quả địa cầu dều cùng chung luân hồi. Về sinh vật từ cái cây, ngọn cỏ đều do hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, ra trái rồi sinh hạt, đảo đi lộn lại mãi không cùng. Các loài động vật thì từ trứng nở thành con, con lại sanh trứng hoặc từ bào thai thành hình. Khi trưởng thành lại có bào thai, lẫn quẫn lanh quanh không cùng. Đó là sự luân hồi trong sự tiếp nối. Đến ngay bản thân sự vật cũng bị luân hồi. Chúng sanh trưởng thành là do đất, nước, gió, lửa. Khi tan hoại cũng trở về đất, nước, gió, lửa. Tụ lại tan ra theo duyên biến chuyển không cùng. Bản thân đất, nước, gió, lửa vẫn bị luân hồi. Như khi ta múc một thau nước để ngoài trời nắng từ mai đến chiều thau nước ấy cạn dần. Như vậy nước đi đâu? Nước không đi đâu, nước cũng chẳng mất, chẳng qua nước là thể lỏng do nắng nóng bốc lên thành thể hơi,  hơi theo gió bàng bạc trong hư không, nào có định xứ. Thể hơi gặp lạnh, đông lại rơi xuống thành nước. Nước bốc lại thành hơi, cứ thế mãi luân hồi không cùng. Cho đến gió, lửa, đất cũng thế, tuỳ duyên  từ hình thái này đổi sang hình thái khác, thay đổi, đổi thay không có ngày cùng. Tìm chỗ bắt đầu và chung cục của chúng không thể dược. Hình tướng trạng thái, luôn luôn đổi thay, sự thật vẫn không bao giờ mất, từ một hình tướng thô đổi thành một trạng thái tế, với cái nhìn thô thiển người ta bảo là mất, thực sự nào có mất, chỉ là biến thái.
c) Con người luân hồi: Nói đến con người tạm chia làm hai phần, vật chất và tinh thần, như bóng đèn và điện,- ngọn đèn phát huy được ánh sáng phải có đủ hai điều kiện hỗ tương nhau, có bóng đèn mà không có điện trở thành vô ích, có điện mà không có bóng đèn cũng vô nghĩa. Sự hỗ tương giữa điện và bóng đèn không thể tách rời, không thể đặt giá trị thiên trọng, không thể xem như chủ khách, cần phải thấy sự tương quan bất khả phân ly. Tinh thần và vật chất của con người cũng thế, mọi sự phân chia khinh trọng đều sai ý nghĩa chơn thật của nó. Vì muốn thấy sự luân hồi tường tận, chúng ta tạm nhìn con người ở hai mặt để nhận xét.
d-Vật chất luân hồi:  Phần vật chất nơi con người nhà Phật chia tổng quát bốn phần: đất, nước, gió, lửa. Những loại cứng trong thân con người như da, thịt, gân, xương, tóc, răng, móng thuộc về đất. Các loại ướt như máu mủ, mồ hôi đàm dãi, nước miếng, nước mắt, nước mũi thuộc về nước. Hít không khí vào cho phổi hô  hấp, quả tim đập, các mạch máu chảy mọi thứ động thuộc về gió. Nhiệt độ con người làm cho thức ăn tiêu hoá, máu không đông đặc, ấm áp toàn thân thuộc về lửa- bốn thứ này thiếu một là con người chết ngay- đây chúng ta phân tích sự luân hồi từng thứ.
e- Đất luân hồi:  Thâu nhận tế bào mới, đào thải tế bào cũ, thay mới đổi cũ, không lúc nào dừng, ấy là luân hồi, cho đến thân này sống nhờ ăn những thức ăn có chất bột(đất) khi chết nó tan hoại trở thành đất. Khi sống mượn những chất đất bồi dưỡng, lúc chết trả lại cho đất. Hợp lại tan ra, tan ra hợp lại, đó là một sự luân hồi.
g- Nước luân hồi:  Máu từ quả tim chảy khắp các mạch rồi chảy trở về quả tim, chảy ra trở về, trở về chảy ra, sự tuần hoàn như thế gọi là luân hồi. Cho đến khi sống mượn nước để bồi bổ chất ướt trong thân, lúc chết chảy ra trở về lòng đất. Sự mượn trả mà không bao giờ mất ấy là luân hồi.
h- Lửa luân hồi: Do những thức ăn có chất nóng nuôi dưỡng phần lửa trong thân. Lửa dùng sưởi ấm toàn thân, thiêu đốt vật thực, lại do vật thực bồi bổ chất lửa, cứ tiêu dùng bồi bổ, bồi bổ tiêu dùng, đảo đi lộn lại là luân hồi. Khi tiêu dùng mà không bồi bổ kịp, lửa từ từ tắt con người chết. Lửa ấy trở về với thiên nhiên, tuỳ  duyên chuyển biến trong không gian mà chưa bao giờ mất là luân hồi.
y- Gió luân hồi: Hít không khí vô, thở ra không khí, hít vô thở ra cả đời như vậy gọi là luân hồi. Nhờ cái động của thở hít không khí mà các cơ quan trong toàn thân hoạt động, các cơ quan hoạt động là thân sống. Đến khi thở không khí ra mà không hít lại, liền ngưng hoạt động tức là thân chết. Thế nên sự sống của thân này đích thực do luân hồi của gió, gió ngừng luân hồi thì thân phải hoại diệt.
Tóm lại: Tứ đại tụ họp quân bình nhau, là con người khoẻ mạnh, nếu thiếu quân bình thì ốm đau, phân tán thì tử vong. Trong khi tứ đại tụ họp, trong thân này luôn luôn biến chuyển tuần hoàn, không được ngăn trệ ứ đọng. Vừa bị ngăn trệ ứ đọng là thân này nguy ngập. Sự biến chuyển tuần hoàn của tứ đại, trong thân con người gọi chung là vật chất luân hồi, sở dĩ nó luân hồi vì biến chuyển mà không mất hẳn.
k- Tinh thần luân hồi: (Tâm sở luân hồi) Phần tinh thần của chúng ta luôn luôn thay đổi bất thường, không bao giờ đứng yên một vị trí, những thứ buồn vui thương ghét, yêu giận lành dữ, phải quấy... Thường thay mặt đổi mày, như trên sân khấu, có khi chúng ta hiền lành như Phật, có lúc giận dữ như cọp đói. Nhiều lúc vui vẻ yêu thương, lắm lúc bực bội thù (nghịch) địch, những tâm trạng đổi thay không lường được, chính tự thân chúng ta cũng không ước đoán nổi tâm trạng của mình  xảy ra những cái gì. Sự buồn vui thương ghét, đổi thay thăng giáng nơi nội tâm của chúng ta gọi là luân hồi.
Nói chung, nơi con người chúng ta có hai phần vật chất và tinh thần đều là tướng trạng luân hồi. Sự luân hồi của chúng ta là sự hoạt động sống của chúng ta. Biết rõ vật chất tinh thần chỉ đổi thay hình tướng trạng thái, chứ không một vật nào mất. Nếu thấy mất chẳng qua do cái nhìn nông cạn mà kết luận.
Thực thể quả nó là “biến thiên mà bất diệt”. Thấy chỗ tận cùng ấy, mới khỏi nghi ngờ. Về lý luân hồi, sự luân hồi ngay trong thân hiện tại này là hiện tại luân hồi, sự tụ lại tan ra, tan ra tụ lại của thân con người là luân hồi từ đời này sang đời khác.
Mọi sự tụ tán đều tuỳ duyên khiến hình tướng trạng thái đổi khác. Ví dụ: nước do duyên nóng bốc thành hơi, gặp duyên lạnh cô đọng thành khói. Sự biến thái này đều do duyên quyết định. Duyên quyết định do sự luân hồi của con người là gì? Là Nghiệp: - Nghiệp là động cơ chính yếu trong cuộc luân hồi của con người.
Do sự chi phối của nghiệp lực, nghiệp lực con người có thể bị đoạ lạc hay được thăng tiến, trở nên thấp hèn hay cao thượng - sự chuyển hướng của hành động là sự chuyển hướng bản chất của con người, thay đổi xu hướng đoạ lạc, thành xu hướng  siêu việt, đưa con người từ chỗ thấp hèn đến chỗ cao thượng.- Vì vậy quan niệm về bản chất và biểu hiện của Nghiệp trong giáo pháp của Phật không giống như các quan điểm về triết lý hành động thế gian. 
- Động cơ luân hồi:  Nghiệp là hành động tự thân tâm con người tạo thành, khi thành nghiệp rồi nó thúc đẩy dẫn dắt con người đến chỗ thành quả của nó. Chính nó là động cơ quan yếu đẩy mãi trong vòng luân hồi không dừng của tất cả chúng sanh - Cơ quan tạo nghiệp có ba thứ: thân, miệng và ý- nói đến nghiệp là nói đến sự toàn quyền quyết định nơi mỗi người chúng ta không ai tạo nghiệp thế cho chúng ta, cũng không có ai có thể thay thế nghiệp của chúng ta.- Chính chúng ta là chủ nhân tạo nghiệp, cũng chính là chủ nhân thọ báo.- Trọng trách của mọi khổ vui hiện tại và mai sau đều do chúng ta quyết định - Chủ trương nghiệp là chủ trương dành lại toàn quyền cho con người, chúng ta là ông chủ nhân của chúng ta, hiện tại và tương lai. Không phải một đấng Thượng Đế hay một tha nhân nào khác tạo thành, một cuộc sống an vui hay đau khổ cho chúng ta, mà do chính thân, miệng, ý của chúng ta trong quá khứ cũng như hiện tại gây nên, chúng ta thừa nhận nghiệp do mình tạo ra, đã lước hết mọi quyền năng của đấng thiên liêng, của định mệnh, của tướng số và cả rủi may. Nghiệp là hành động của thói quen, nên có thể chuyển đổi, chỉ cần nổ lực và bền chí - nghiệp có Nghiệp Thiện Nghiệp Ác.
      Nghiệp ác: là những hành động làm cho con người khổ và mình khổ, hoặc ở hiện tại hoặc ở vị lai. Hành động này do ba cơ quan tạo nên bởi thân khẩu ý.
    -Thân làm ác: Để cho thân buông lung, thích hành động giết sinh mạng người hoặc thích trộm cướp tài sản của người, hoặc đắm say dâm dật. Trái phép là nghiệp ác của thân vì hành động này làm cho người khổ và mình khổ, nếu hiện tại chưa đến thì vị lai cũng chịu.
    - Miệng làm ác: Miệng ưa nói lời dối trá, lời độc ác, lời thêu dệt là nghiệp ác của miệng. Vì những lời nói này khiến người nghi ngờ bực tức đau khổ mang tai hoạ nên hiện tại hoặc vị lai mình cũng phải chịu lấy hậu quả đau khổ ấy.
     Ý làm ác:  Si mê tham lam nóng giận là Nghiệp ác của ý, miệng nói ác. Bản thân nó thì chưa làm hại được ai, song do nó khiến thân sát phạt người, miệng chửi bới nguyền rủa người. Thân, miệng mà không cộng với tham, sân, si thì tự nó không có lỗi lầm gì. Thế nên tuy nói ba cơ quan tạo nghiệp mà ý là cơ quan hệ trọng hơn cả, nó là chủ động hai cơ quan kia.
     Thân làm lành:  Thân không giết hại người, không cướp tài sản người, không dâm dật phi pháp, là nghiệp thiện của thân. Tại sao không làm ba việc ấy là thiện? Bởi vì con ngời quý báu nhất là sinh mạng, chúng ta không hại sinh mạng họ thì họ đến với chúng ta một cách an ổn, không sợ sệt. Thứ yếu là tài sản con người, tự thấy tài sản là huyết mạch của họ, chúng ta nhất quyết không trộm cướp thì họ đến với chúng ta cũng như ta đến với họ đều được an vui không hồi hộp lo âu về mất của. Hạnh phúc của gia đình là vợ chồng hoà thuận tin yêu trinh bạch với nhau. Nếu vợ hay chồng có tình ý riêng tư với ai là gia đình mất hạnh phúc, chúng ta giữ gìn không theo sự dâm dật phi pháp, đến với gia đình ai họ đều an ổn vui vẻ không nghi ngờ sợ sệt. Gìn giữ  ba điều này chúng ta đã ban sự an ổn vui tươi cho bao nhiêu người rồi, cũng chính là đem sự an ổn vui tươi cho gia đình chúng ta.
    - Miệng làm lành: Miệng không nói dối, không nói lời ác độc, không nói ly gián, không nói thêu dệt là miệng làm lành, vì sao? Bởi vì nói dối trá khiến người nghi ngờ mất lòng tin, đã không tin nhau làm gì có thương mến. Thế nên nói dối là căn bản khiến con người mất hết tình thương. Nói độc ác khiến người nghe phẩn nộ bực dọc đau buồn,  nói ly gián làm cho thân thuộc họ phải chia lìa tạo thành cái khổ ái biệt ly. Nói thêu dệt là tô điểm không đúng chân lý, khiến người không tìm ra lẻ thật. Chúng ta quyết định giữ gìn miệng không nói bốn điều trên là tạo được tình thân giữ mình và người đem, lại cho mọi người sự an ổn bảo vệ tinh thần của người, giúp cho người dễ nhận ra lẽ thật. Thế là chúng ta đã tạo điều kiện tốt đẹp cho xã hội.
    - Ý làm lành: ý không tham sân si là ý làm nghiệp lành, chúng ta thường thấy mọi sự bất bình và đổ vỡ đều phát nguồn từ tham sân si. Nếu chúng ta không để tham sân si dẫn dắt hoành  hành thì cả cuộc đời chúng ta được an ổn, cũng là nguồn an ổn cho mọi người.
     Ba thứ này gọi là tam độc, vì nó gây đau khổ cho mình và người, không thể lường được. Người nào kiềm cương giữ thắng được nó, thì bảo đảm được một đời sống an lạc, cũng bảo vệ được an ninh trật tự cho mọi người. Ngược lại kẻ nào buông cương thả thắng nó sẽ lôi đời họ vào hố sâu nguy hiểm, cũng gây hoạ hại cho mọi người không ít. Thế nên không cho tham sân si nổi dậy là gìn giữ sự an ổn vẹn toàn cho mình và mọi người.

3) KHẢ  NĂNG  CỦA  NGHIỆP:

Nghiệp là cái không có hình tướng, mà có khả năng đáng kể, ví như gió, tuy không có hình tướng mà nó thổi đất nước đều lung lay.- Nghiệp cũng thế, bình thường chúng ta không thấy nó, mà nó lôi chúng ta đi khắp nẻo luân hồi, sở dĩ nó có khả năng mạnh mẽ như vậy là do tập quán lâu ngày.- Như người tập hút thuốc, buổi đầu khói thuốc cảm thấy khó chịu nhưng tập lâu ngày thành ghiền, khi ghiền rồi với giá nào cũng phải tìm cho có nó. Cái ghiền ấy không có hình tướng, nhưng nó điều khiển con người một cách mãnh liệt, quả thực không ai biết tướng mạo của nó, nhưng khi nó đòi hỏi người ta phải chạy ngược chạy xuôi tìm cho ra thuốc để hút. Cho đến bệnh ghiền rượu cũng vậy, nó có khả năng còn mạnh hơn từ những hớp rượu cay xé mồm tập mãi thành quen rồi đưa đến bịnh ghiền, khi đã ghiền rồi không có rượu khiến người ta phải ụa, phải mữa, oằn oại mệt nhọc, quả thật bệnh ghiền nó chi phối con người hết mọi khả năng. Chúng ta tự hỏi, ai đem bịnh ghiền ấy đến cho chúng ta. Chính chúng ta tự tập, tập lâu thành ghiền, cái ghiền ấy do mình tự tập, cái ghiền ấy do mình tạo rồi mình chịu. Cái ghiền ấy phải ma lực gì mà đầy đoạ hành hạ con người chăng? Hẳn không phải ma lực gì, chẳng qua tập lâu ngày thành thói quen, thói quen càng lâu sức càng mạnh. Đã tự chúng ta thành bệnh, khi muốn hết bệnh cũng tự chúng ta gan dạ bỏ nó không ai có thể bỏ thế cho chúng ta. Khả năng của bệnh ghiền giống hệt khả năng nghiệp chi phối chúng ta trong  lục đạo luân hồi. Vậy chúng ta tạo nghiệp lành hay dữ tạo càng lâu thì sức mạnh càng lớn, đến cuối cùng chúng chi phối dẫn dắt chúng ta đi vào con đờng lành hay dữ tuỳ chỗ gây tạo của mình, không phải Hoá Công đầy đoạ, không phải Thượng Đế bày ra, chính chúng ta tự tạo rồi tự thọ, khi đã thành nghiệp chúng ta khó cưỡng được nó. Thế nên biết chọn nghiệp lành đã tạo là tự gây một sức mạnh đưa mình đến cõi lành, cố tình gây nghiệp ác là tạo áp lực lôi mình vào cõi dữ. Chính đây là quyền chọn lựa của con người,  quyền định đạt số phận ở mai sau. Nếu cứ sống say chết ngủ không biết tỉnh thức đẩy đâu đi đó, những kẻ này về sau than trời trách đất nào có ích gì. Chúng ta có đủ thẩm quyền quyết định đời mình hiện tại và vị lai. Tại sao chúng ta lại bỏ  mất cái giá trị cao cả ấy? Những kết quả tốt, xấu  dỡ hay ở  hiện tại và mai sau đều nằm trong tay chúng ta. Chúng ta có quyền phán quyết chọn lựa một hoàn cảnh tốt hoặc xấu của mình trong đời sống mai sau. Đừng cầu khẩn van xin bất cứ một năng lực nào ngoài chúng ta. Nghiệp và chúng ta không phải là hai. Nếu chúng ta khôn ngoan khéo léo lo tạo nghiệp lành, chúng ta dại khờ ngu muội gây tạo nghiệp ác, khổ vui sẽ tuỳ nghiệp mang đến với chúng ta một cách chân thành.
     Tất yếu của luân hồi: Tạo nghiệp là nhơn, thọ báo là quả. Tất yếu của sự luân hồi là nhơn quả - lăn lộn trong ba cõi sáu đường đều thuộc nhơn quả. Mình đã gây nhơn nhất định mình phải chịu quả, quả khổ vui là do gây nhơn khổ vui. Nhơn quả là lẽ công bằng chân thật bởi mỗi cá nhân gây tạo khác  nhau, nên sự thọ nhận cũng sai biệt, sự công bằng từ nhân đến quả không phải sự công bằng do ai khác áp đặt cho mình. Nếu do kẻ khác áp đặt cho mình là đã bất công rồi. Ngày nay chúng ta tạo nhận ngày mai chúng ta thọ quả, thật là rõ ràng rành mạch biết bao. Song nói tới nhân quả là căn cứ trên thời gian suốt cả quá khứ, hiện tại vị lai. Cũng thế,  khiến có những kết quả xảy đến mà đương sự không bao giờ nhớ. Lại có những sự kiện mà không thấy kết quả. Do đó nhơn quả trở thành rắc rối khó khăn, người ta khó tin khó nhận. Nhưng sự thực lúc nào cũng thực bởi khả năng nhớ hiểu của con người quá giới hạn, nên có những thắc mắc như thế. Nếu người hiểu sâu về lý nhơn quả thì cuộc sống này đã có tiêu chuẩn nhắm đến và an ổn vô cùng. Vì mọi kết quả nhận chịu trong đời đều do nhơn gây ra từ thuở trước. Nên khổ không oán hờn, vui không ngạo mạn- mình làm mình chịu, chỉ quý ngang đây phải chọn lấy nhơn tốt mà làm, để mai kia khỏi phải thọ quả đau khổ, cho nên trong kinh nói: Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ quả. Kẻ trí thì sợ nhơn người ngu thì sợ quả. Do cái nhìn thấu suốt và cái nhìn nông cạn, nên có chia Bồ Tát và cúng sanh. Nhơn có thiện ác thì quả cũng có khổ vui.
      Những kẻ gây tạo nghiệp ác phải thọ quả khổ trong ba đường dữ. Địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh. Nghiệp ác là mình làm cho kẻ khác khổ, cân xứng với nhân mình gây, thọ quả khổ một nơi trong ba đường dữ. Nhơn khổ có khi không thành quả, do nữa chừng mình biết hối cải hoặc chuyển đổi. Nhơn khổ nhất định thọ quả khổ, do sự nuôi dưỡng một cách sung mãn, ví như có người uống rượu mà không ghiền vì họ biết giới hạn chừa bỏ. Có người uống rượu nhất định phải ghiền rượu, vì họ mãi tiếp tục và say mê. Có nhơn khổ mà không thọ  quả khổ, hoặc nhất định phải thọ quả khổ cũng như thế.
   Người gây tạo nghiệp thiện ác thọ quả vui trong cõi người, cõi A tu la và cõi trời, cân xứng với nghiệp lành mình đã tạo nhiều ít cao thấp, kết quả cũng có hơn kém thấp cao. Có khi người tạo nghiệp lành mà không hưởng quả lành hoặc người tạo nghiệp lành nhất định hưởng quả lành. Từ nhơn đến quả có lúc bị sai khác là do ảnh hưởng duyên, nếu nhân mà có duyên đầy đủ thì đưa đến quả tương xứng, còn nếu nhân mà thiếu duyên thì quả  nếu có sẽ không sung mãn hoặc không đưa đến qủa, cho nên từ nhân đến quả còn cần có sự kiện trợ giúp đầy đủ mới được viên mãn (Điều kiện trợ giúp gọi là duyên) cho nên không thể có nhận định tất nhiên rằng có nhơn là có quả. Bởi vì thời gian từ nhơn đến quả là giai đoạn biến động, hoặc được tăng cường hoặc bị tiêu mòn, tuỳ theo những sự kiện trợ giúp. Bởi thê chúng ta có thể chuyển nhân xấu thành tốt, hoặc nhân tốt trở ra xấu.
      Sự kiện tất yếu của luân hồi tuỳ thuộc nhân quả, không có kẻ nào khác áp đặt khổ vui cho chúng ta, cũng không có bàn tay nào lôi kéo chúng ta phải đi đường này hay lối khác, mọi sự kết quả đều cân xứng với nhân mình gây tạo. Nắm vững yếu tố này mới thấy chúng ta trọn quyền định đoạt số phận của chúng ta. Nếu cuộc đời của chúng ta hiện nay được tươi sáng hay đen tối đều do sự khéo léo hay vụng về của ta ngày xưa, can đảm nhận lấy trách nhiệm của mình, không oán trách kêu ca, không than thân, trách phận, chúng ta gan dạ trong cuộc sống hiện tại, song phải khôn ngoan chọn lấy lối đi của ngày mai.

4-  THOÁT  LY  LUÂN  HỒI:

Đạo Phật giải rõ lý luân hồi, nhưng không phải để mãi chịu luân hồi. Đúng như ý nghĩa biết khổ, chúng ta mới tìm cách thoát khổ. Luân hồi là vòng lanh quanh lẩn quẩn nhào đi lộn lại không thể thoát ra, chấp nhận trong vòng quanh quẩn do con người không tìm được manh mối thoát ra, hoặc không đủ khả năng để thoát ra, như các nhà khoa học phát minh ra được sức hút của trái đất, mọi vật đều cam chịu trong vòng vọt lên rớt xuống không sao thoát ra ngoài được. Từ đó các nhà khoa học chế ra các phi thuyền có khả năng vượt ra ngoài vòng sức hút của trái đất. Đức Phật cũng thế, Ngài biết rõ lý luân hồi, mới dạy phương pháp thoát ly sinh tử luân hồi, không chấp nhận sự loanh quanh trong vòng sinh tử. Còn trong vòng sanh tử dù dài, dù ngắn khổ vui, đạo Phật đều kết luận là đau khổ, vì cùng một số phận vô thường, chỉ thoát được luân hồi mới là an vui giải thoát.

    5- KẾT LUẬN:

      Đạo Phật nói lý luân hồi cũng là phát minh một sự thật của vạn vật và con người. Vì đối tượng của đạo Phật là con người, nên chung quy đặt nặng về sự luân hồi của con người. Con người nhận hiểu thấu đáo về lý luân hồi, nếu họ có khả năng thoát ly luân hồi, do sự hiểu biết lý luân hồi rồi tiến tu đạo giải thoát. Biết được lý luân hồi, chúng ta biết được lẽ công bằng của con người, cũng nhận lấy sự tự do căn bản nơi chúng ta. Mọi mê tín ỷ lại đều tiêu tan do biết ta là người quyết định thân phận của mình. Tất cả mọi oán hờn tủi hận đều sạch hết,vì có ai áp đặt sự khổ vui cho mình mà than thở. Quả chúng ta là con người độc lập tự do cho chính mình trong hiện tại và vị lại. Dù chưa giải thoát, biết được lý luân hồi chúng ta cũng sáng suốt và an ổn ngay trong đời sống này, mọi tương lai đều nằm trong tay chúng ta, chúng ta trọn quyền chọn lấy một  chọn lấy một tương lai tuỳ theo sở thích 

NHÂN QUẢ- LUÂN HỒI Rating: 4.5 Diposkan Oleh: CHÙA TAM BẢO TAM KỲ