Đạo Phật chủ trương nhất nguyên
hay đa nguyên, duy tâm hay duy vật?
Đứng ngoài đạo Phật thì
"vọng tưởng” rằng đạo Phật là nhất nguyên, là đa nguyên, là duy tâm, hoặc
duy vật. Nhưng bước vào trong đạo Phật, trong rừng giáo lý để quan sát, người
ta sẽ thấy một hiện tượng kỳ lạ. Là khi đứng về hướng này người ta thấy đạo
Phật chủ trương nhất nguyên, nhưng đứng qua hướng kia, lại thấy rằng đạo Phật
chủ trương đa nguyên. Rồi đứng trên miếng đất này người ta thấy đạo Phật chủ
trương duy tâm, nhưng đứng sang miếng đất khác thì rõ ràng đạo Phật chủ trương
duy vật.
Quả thật là một sự kỳ lạ. Kẻ nóng
tính nghe như thế sẽ bực mình và cho đó là một lối chủ trương ba phải. Nhưng
không. Đứng về phương diện triết học, đạo Phật có những hệ thống lý thuyết rất
phong phú, mà tất cả điều đi đến một sự nhất trí vô cùng hoàn mỹ.
Nhiều người nghe câu kinh
"tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”liền chỉ ngay đạo Phật mà bảo rằng:
ấy đấy đạo Phật duy tâm rõ ràng, còn chối cải gì nữa. Thực ra đạo Phật có chối
cải đâu. Đạo Phật chỉ giảng giải chữ tâm của đạo Phật không phải chữ tâm của
thế gian, của triết học. Phật học là một môn tâm học. Nhưng tâm ở đây không
phải là linh hồn, là tất cả những hiện tượng tâm lý, và "tâm học”của đạo
Phật rất khác xa"tâm lý học”của triết học vậy.
Cũng có kẻ thấy đạo Phật chủ
trương bác bỏ thuyết linh hồn tồn tại độc lập (điểm này có thể làm nhiều bạn
giật mình). Không công nhận tạo hoá, thì chỉ vào đạo Phật mà bảo rằng: ấy đấy
đạo Phật duy vật rõ ràng, còn chối cải gì nữa. Thực ra đạo Phật có chối cải
đâu. Đạo Phật chỉ giảng giải rằng cái mà người ta gọi là linh hồn ấy, đạo Phật
gọi là ý và thức, và khi xác thân tiêu hoại, ý và thức ấy không còn tác dụng
nữa, nghĩa là không sinh hoạt như một hồn ma bóng quế như giới ít học hiểu lầm.
Chủ nghĩa Duy Vật là một chủ
nghĩa cho rằng thực tại chỉ là vật chất. Vũ trụ, nhân loại và sinh vật đều là
vật chất, nói một cách tinh vi hơn, đều có nền
tảng chung là vật chất cả đến phần tinh hoa nhất của loài động vật là tư
tưởng, là tình cảm cũng đều do nền tảng vật chất mà có. Những tư tưởng tình cảm
ấy không thể phát hiện nếu không có vật chất. Tinh thần cũng là sản phẩm thượng
hạn của vật chất, duy có tinh tế hơn những sản phẩm khác như: đường, mật, sinh
tố, như thần kinh hệ... mà thôi.
Người chủ trương duy vật thường
lý luận rằng: chỗ nào không có vật chất thì không có tinh thần, do đó tinh thần
là do vật chất mà có, tinh thần là một thuộc tính của vật chất.
Ta không cần mất thì giờ để bác
bỏ quan niệm nông cạn và thiên lệch này trong khi mọi người đã thấy cái vô lý
của nó rồi.
Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng
duy vật luận chỉ chú trọng đến phần ngoại giới, xao lãng hẳn phần nội giới
phong phú sâu xa. Mà ở đấy nhà khoa học chỉ có thể dọi vào những tia sáng ngắn
ngủi nhất. Dù người duy vật có để ý đến nội giới đi nữa thì vẫn xem nội giới
như một đối tượng tầm thường như bao nhiêu đối tượng vật chất khác, dù nhà duy
vật cho nó là "một hình thức tinh tế của vật chất". Tinh thần tự đối
tượng hoá đã là việc khó làm, mà tinh thần tự cho mình là thuộc tính của vật
chất lại là chuyện khó nghe. Đời thuở nào lại có một thuộc tính kỳ quái có thể
"biết”mình là thuộc tính của vật chất.
Còn bảo rằng "chỗ nào không
có vật chất thì không có tinh thần”cũng thật lạ lùng. Làm như tai mắt người có
thể "thấy”được tinh thần tồn tại độc lập vậy. Tai ta mắt ta chỉ có thể
nhận được sự hiện hữu của tinh thần nhờ những dấu hiệu vật chất. Tinh thần vẫn
hiện hữu, nhưng ta không nhận được sự hiện hữu đó nếu ta không nhờ một vài dấu
hiệu vật chất, cũng như lúc nào cũng có làn sóng điện,và những âm thanh chở
trên các làn sóng điện ấy, nhưng ta chỉ nhận được sự hiện hữu của các âm thanh được chở trên các làn sóng điện kia
nếu ta có một chiếc máy thu thanh.
Vậy thì nhà duy vật đừng bắt ta
đi tìm tinh thần ở chỗ không có vật chất. Nhưng nói thì nói thế thôi, chứ đạo
Phật cũng không nhận rằng có cái "hiểu biết”(cái mà thế gian gọi là cái
hồn) tồn tại ngoài xác thân loài động vật. Lát nữa ta sẽ hiểu điểm này.
Chủ nghĩa duy tâm chủ trương
ngược lại rằng vật chất không phải thực có, vật chất không tồn tại ngoài ý thức
chủ quan của con người. Chỉ có ý thức chủ quan là thực tại, còn bao nhiêu ý
thức là sản phẩm của chủ quan, đều là những biểu tượng của ý thức, gọi tắc là
những "ý tượng". Duy tâm luận chủ trương ngoài tâm ý của mình không
còn gì cả, vũ trụ thế giới, những người khác cũng không thực tại.
Người duy tâm cũng như người duy
vật cố tình phủ nhận một mặt của sự thực, người duy tâm cố tình làm ngơ không
nhận những ẩn ảnh hưởng và những tác động của vật chất của sinh lý trên tư
tưởng và tâm lý của mình. Những loại hữu tình sống chung quanh ta cũng có những
cảm tình, những tư tưởng, nói tóm lại,
một chân lý chủ quan của họ trong sinh hoạt thường nhật ai không nhận rõ điều
đó. Ta không thể công nhận có sự tồn tại của tâm lý riêng ta.
Đạo Phật không vướng vào duy tâm,
không vướng vào duy vật, nhưng cũng không phải nhị nguyên thuyết. Duy thức học
đạo Phật chủ trương rằng ngũ uẩn tức là toàn thể những hiện tượng vật lý, tâm
lý, (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều là những thứ phát hiện của "chủng tử”tiềm
lại trong A-lại gia thức mà thôi.
Những hiện tượng tinh thần hay
vật chất (sắc pháp và tâm pháp) đều là đứng về thế hiển phát. Khi chưa hiển
phát chúng đứng về phía tiềm tàng. Đứng về thế tiềm tàng chúng gọi là
"chủng tử”(danh từ của duy thức học). Đứng về thế hiển phát chúng gọi là
hiện hạnh. Chủng tử sanh hiện hạnh, hiện hạnh trở về chủng tử, chủng tử là hiện
hạnh, hiện hạnh là chủng tử, sự phát hiện này được tiếp diễn không ngừng
Điểm này đòi hỏi chúng ta nhiều
kiến thức về duy thức học. Ở đây chúng ta chỉ lược qua đại cương. Chủng tử là
một thứ "năng lực”làm bản chất cho tất cả mọi hiện tượng tâm lý và vật lý,
nghĩa là cho mọi hiện hạnh. Mà toàn thể chủng tử nằm trong A-lại-gia-thức, hoặc
nói một cách khác toàn thể chủng tử là A-lại-gia thức vậy. Vậy A-lại-gia-thức
là căn bản cho mọi hiện tượng Tâm và Vật.
Mỗi hiện tượng (tâm lý hay vật lý)
cũng vậy khi tàn hoại thì trở về chủng tử để rồi phát sinh hiện hạnh khác. Nói
thế cho dễ hiểu, kỳ thực vì mỗi hiện hạnh sinh diệt trong từng giây phút, nên
hiện hạnh luôn luôn trở về chủng tử và chủng tử luôn luôn trở về hiện hạnh. Sự
liên tục mau chóng quá đến nổi ta không nhận ra kịp đó thôi.
Các hiện hạnh sinh khởi thế nào?
Sinh khởi theo luật tương quan tương duyên. Ví dụ: ý thức, lý trí, tình cảm thì
sinh khởi nhờ nương vào các hiện tượng sinh
lý vật lý. Nương vào để được phát sinh mà thôi, chứ không phải các hiện tương
sinh lý vật lý "sinh ra”các hiện tượng tâm lý. Hiểu như thế ta không còn
cho tâm sinh vật hay vật sinh tâm nữa. Chúng nương vào nhau mà tương sanh tương
thành, và do chủng tử ở A-lại -gia. Chủng tử là "thân nhân
duyên"nghĩa là những nhân chính, còn những hiện tượng giúp chúng sinh phát
sinh thì gọi là "tăng thượng duyên”nghĩa là các điều kiện thuận lợi giúp
cho sự phát triển ấy.
Nguyên
nhân chính của mọi hiện tượng như thế tức là chủng tử. Nhưng gọi là nguyên nhân
cũng không đúng hẳn, phải gọi là bản chất.Vậy chủng tử trong duy thức được xem
như một thứ "năng lực”làm nền tảng cho cả hai loại hiện tượng Tâm và Vật.
Tất cả chủng tử, hiện hạnh gom góp lại gọi chung là A-lại-gia.
Sau khi
thân xác tiêu hoại, thiếu điều kiện để "hiện hành"các hiện tượng tâm
lý trở về tiềm phục nơi A-lại-gia. Như thế không có một linh hồn tồn tại ngoài
thể xác. Cái tác dụng tinh thần kia, sự hiểu biết phân biệt yêu ghét kia không
hiện hạnh nữa, thì sao gọi là còn linh hồn được. Tuy nhiên, A-lại-gia-thức sẽ biến
chuyển, chín muồi để đem tất cả năng lực chủng tử mà phát hiện ra một thế giới
mới, một hoàn cảnh mới.
Nghe
nói thế người ta sẽ cho rằng đạo Phật đã rơi vào duy tâm. Nhưng không, không có
một A-lại-gia tồn tại độc lập. Mà có nhiều A-lại-gia của nhiều chúng sanh.
A-lại-gia này tồn tại nhờ sự hiện tồn của A-lại-gia khác, và các A-lại-gia khác
cũng tồn tại nhờ A-lại-gia này.Tất cả đều tuân theo luật tương quan tương duyên
mầu nhiệm.
Ý thức
chủ quan của ta nằm gọn trong A-lại-gia ta. Thế giới khách quan nằm ngoài ý
thức ấy, nhưng không phải chỉ là một thế giới hiện hạnh của riêng A-lại-gia ta,
mà là một thế giới hiện hạnh do vô số A-lại-gia cọng kiến tạo. Điều này ta sẽ
thấy rõ trong giáo lý tự biến cọng biến của duy nghiệp luận. Chỉ khi nào
A-lại-gia trong sạch, sáng suốt do công phu tinh luyện mà trở thành Đại viên
cảnh trí, nó mới tách rời ra khỏi sự cộng đồng ấy và thể nhập về bản thể vô
cùng rộng lớn thanh tịnh và sáng suốt.
Vấn Đề
Linh Hồn Trong Đạo Phật
Đạo lý luân hồi thường được người ta hiểu một cách nông cạn. Hầu hết mọi
người khi nghe đến luân hồi đều nghĩ đến một sự tiếp nối sinh hoạt trong nhiều
xác thân của một chiếc linh hồn cố định. Người ta nghĩ rằng khi chết, linh hồn
sẽ rời khỏi xác thân để đi vất vơ vất vưởng trong hư không, đợi nhập vào một
xác thân mới sinh, hoặc là xuống âm phủ chịu cực hình trước khi đi đầu thai làm
thân người hay thân trâu ngựa...
Thực ra
đạo Phật chủ trương rằng sau khi con người chết, không có cái gì thoát ra ngoài
xác thân để rồi nhập vào một xác thân khác cả. Như chúng ta đã thấy trong bài
trước đạo Phật dạy rằng sinh mạng là sự cấu hợp liên tục của ngũ uẩn, tức là
những yếu tố sinh lý, tâm lý (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Sắc uẩn là phần vật
chất. Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn là phần tinh thần. Những tác
dụng tinh thần này chỉ có thể '' hiện hành'' được khi có căn cứ phát sinh. Căn
cứ phát sinh ấy là phần thể xác, sinh lý, cũng vì thế mà thân xác được gọi là
thân căn. Nếu thân căn tiêu hoại, các tác dụng tâm lý kia không hiện hạnh nữa
mà trở lại thể tiềm phục nghĩa là trở thành chủng tử.
Nếu
thân căn là một cấu hợp của tứ đại chủng, luôn luôn biến chuyển, thì tác dụng
tinh thần kia cũng hợp thành một dòng liên tục biến động không ngừng. Con người
của ta đổi mới từng giây phút, có những cảm giác mới, những tư tưởng mới đến
thay cho những tư tưởng và cảm giác cũ đang phai dần hoặc đang nép sâu vào ký
ức- đang lùi về tiềm thế chủng tử- Vì luôn luôn biến chuyển nên dòng tâm lý ấy
không phải là một cá thể đồng nhất vĩnh cửu. Do đó không thể gọi là một bản ngã
được. Cái mà người ta cho là linh hồn phải là một bản ngã đồng nhất, bất biến,
làm chủ thể cho sinh mạng. Ở đây đạo Phật chủ trương không có bản ngã, nghĩa là
không có linh hồn: những tác dụng tâm lý của con người vẫn chỉ là những tác
dụng tâm lý. Chúng phát hiện và hoạt động khi có điều kiện (thân căn sinh hoạt)
và trở về trạng thái chủng tử tiềm phục khi các điều kiện kia tan rã (thân căn
tiêu hoại).
Nhiều
người quả quyết rằng nấp sau các hiện tượng sinh lý, vật lý luôn luôn biến
chuyển kia, phải là một yếu tố bất biến. Chính yếu tố đó là linh hồn, và chính
linh hồn đó là một bản ngã. Nếu không có linh hồn đó thì làm sao giải nghĩa được cái tính chất đồng nhất nó tồn tại
qua mọi người đều cảm thấy ở tự thân mình hoặc ở bản thân một người khác.
Nhưng
xét kỷ tính chất đồng nhất ấy chẳng cần đòi hỏi sự hiện hữu của một bản ngã,
một linh hồn nào cả.
Năm
ngoái tôi có mua một chiếc ghế ghỗ để ngồi. Năm nay, cái ghế ấy đã cũ đi nhiều.
Vì nó đã gãy mất một chân và tróc lớp sơn ở ngoài. Tuy nhiên, tôi vẫn biết rằng
cái ghế ấy chính là cái ghế mà tôi mua năm ngoái. Vậy thì do đâu tôi nhận được
tính chất đồng nhất của cái ghế trong "lịch trình biến chuyển”của nó? Phải
chăng cái ghế kia có chứa đựng một "yếu tố bất biến". Nếu thế, cái
"yếu tố bất biến”ấy của cái ghế được gọi là gì? Chẳng lẽ gọi là linh hồn
của cái ghế, hay bản ngã của cái ghế? Cho nên không có yếu tố nào bất biến,
nghĩa là không có linh hồn, không có bản ngã. Chỉ có những hiện tượng vật lý và
tâm lý chuyển biến.
Vậy thì
nhờ đâu mà ta cảm thấy tính đồng nhất của sự vật? Theo Phật học: qua sự chuyển biến ta vẫn cảm thấy có một cái
gì đồng nhất là vì ta có một vọng tưởng liên tục gây nên.
Các
hiện tượng luôn luôn biến diệt và sinh thành ấy xảy ra mau chóng quá đến nổi ta
kông nhận thấy kịp và ta tưởng có một tính cách đồng nhất của các vật qua thời
gian biến chuyển. Cũng như khi ta quay một đống lửa thành vòng tròn, ta thấy có
một "vòng tròn lửa”tồn tại, kỳ thực vòng tròn ấy chỉ là một giả tưởng liên
tục, cấu hợp nên do một đốm lửa luôn luôn đổi mới.
Gọi là
đốm lửa luôn luôn đổi mới vì tạo nên vòng tròn lửa đó không phải chỉ là một đốm
lửa mà là vô số đốm lửa. Đốm lửa sau vì cháy trên một chất củi khác nên không
phải là đốm lửa trước nữa. Như thế đốm lửa ở phía trên vòng tròn không phải là
đốm lửa ở phía dưới vòng tròn. Tuy vậy, đốm lửa sau cũng không phải là đốm lửa
khác hẳn đốm lửa trước. Vì nếu không có đốm lửa trước thì sẽ không có đốm lửa
sau. Đốm lửa trước làm nhân cho đốm lửa sau. Dây liên tục đó đã gây nên cho ta
vọng tưởng về tính cách đồng nhất. Để hiểu rõ ta nên đọc đoạn này trong trong
kinh "Di- Lan- Đà vấn đạo”
- “Này
đại vương: Nếu có một người thắp một ngọn đèn lên, ngọn đèn có thể cháy suốt
đêm được không?
- Bạch
ngài ngọn đèn có thể cháy đến sáng.
- Vậy
ngọn lửa đèn lúc canh một có phải là ngọn lửa đèn lúc canh hai không? - Bạch
Ngài không?
- Ngọn
lửa lúc canh hai có phải là ngọn lửa lúc canh ba không?
- Bạch
Ngài cũng không phải.
- Vậy
thì canh một có một cây đèn canh hai có một cây đèn canh ba cũng có một cây đèn
khác nữa chăng?
- Bạch
Ngài: không, ánh sáng suốt đêm chỉ do
một cây đèn toả ra thôi.
- Đại
vương: sự liên tục của một người hay của
một vật cũng thế thôi. Con người của phút này sinh, thì con người của phút
trước diệt, dòng liên tục không ngừng. Con người phút sau không phải là "một”với
con người phút trước, nhưng cũng không phải là khác với con người phút trước.
Như thế con người liên tục mãi cho đến giai đoạn cuối cùng của ý thức bản
ngã".
Ta có
thể tạm ví xác thân ta với cây đèn, bấc, dầu và tinh thần ta với ngọn lửa đèn,
cả hai đều biến chuyển không ngừng, không phải "đồng nhất”mà cũng không
phải sai dị "phi nhất phi dị"
Bản
thân ta "gồm cả tinh thần lẫn vật chất”không phải là một cá thể đồng nhất
bất biến, mà là một dòng liên tục thường biến. Chính cái giả tưởng "một
dòng liên tục"ấy đã cho ta khái niệm về tính cách đồng nhất của mọi vật và
của chính bản thân ta.
Nếu
không có một bản ngã bất biến, một linh hồn thì cái gì đi luân hồi, cái gì đi
đầu thai, cái gì làm chủ thể cho dòng sinh tử?
Câu hỏi
ấy là một thắc mắc lớn lao cho nhiều người. Chúng ta thường thấy trong kinh
Phật có những câu chuyện luân hồi nhân quả, mà trong đó một người chết ở thành
Ba la nại có thể đầu thai ở thành Ca-Tỳ La.. Vậy cái gì thoát khỏi xác thân
người kia để đi đến thành Ca-La-Tỳ nhập vào xác con vật nọ? Làm sao cái chết
của một sinh vật lại được nối tiếp với xác sanh của một sinh vật khác?
Ta đã
thấy rằng đạo Phật không công nhận linh hồn, và do đó không công nhận rằng có
linh hồn di chuyển. Đạo Phật chỉ chủ trương nhân quả; một hậu quả nào phát sinh
cũng có một nguyên do tiền hữu. Còn dục vọng, còn ham muốn thì vẫn còn sự sống.
Trong thời gian dục vọng còn tồn tại, các chủng tử trong A-lại-gia phần nhiều
còn là hữu lậu, nghĩa là còn khuynh hướng phát hiện sinh tử.
Nếu sau
khi đời sống chấm dứt mà dục vọng đều đã tiêu diệt hết, vô minh không còn hiện
hữu và các chủng tử đã trở thành vô lậu, A-lại-gia trở về với bản thể sáng
suốt, thì dòng sinh mạng không còn tiếp diễn nữa. Nhưng nếu dục vọng vẫn còn,
thì A-lại-gia còn nằm trong trạng thái ô nhiểm, chưa có thể giải thoát luân hồi
được.
Trong
cuốn "The Dhamma of Buddha", Đại đức Jagdish Kasyapa có viết một đoạn
đại ý như sau về vấn đề luân hồi: Ai cũng biết trận giặc trăm năm giữa Pháp và
Anh. Gọi là trận giặc trăm năm, nghĩa là có nhiều trận giặc nối tiếp nhau trong
vòng một trăm năm, chứ không phải là một trận kéo dài trong vòng một trăm năm.
Các trận giặc nhỏ kia xảy ra ở những thời gian khác nhau ở những địa điểm khác
nhau, và với những chiến binh cụ luôn luôn đổi mới. Nhưng sao tất cả những trận
nhỏ ấy được gom lại trong trong một ý niệm “trận giặc trăm năm"? Tai sao
đánh một vài trận rồi người ta không thôi đi, để cứ tiếp tục đánh thêm nhiều
trận khác? Có phải là do ý tưởng thù nghịch giữa hai nước đang còn không?
Vậy “ý
tưởng thù nghịch”kia là nguyên do cho cuộc chiến tranh và cho sự tiếp nối liên
tục của các trận đánh. Còn ý tưởng ấy thì các trận đánh vẫn còn tiếp diễn. Cũng
như thế, còn dục vọng thì còn phải tiếp tục sinh tử, với một thân căn mới, một
hoàn cảnh mới, một thế giới mới.
Một đợt
sóng ở đây xuất hiện. Vì đâu? Vì một sức đẩy ở đàng kia. Đợt sóng này lên rồi
xuống, và khi xuống tạo thành một sức đẩy mới.
Do sức
đẩy này mà đàng xa kia phát sinh một đợt sóng khác: chính đợt sóng khác ấy là
kết quả của đợt sóng này, tiếp nối do đợt sóng này vậy. Giai đoạn sinh mệnh
trước tạo nghiệp nhân mê lầm sinh tử cho giai đoạn sinh mệnh sau, giai đoạn
sinh mệnh sau tạo nghiệp nhân cho giai đoạn sinh mệnh sau nữa, và cứ như thế
mãi.
Tất cả
những nghiệp nhân của ta về ngôn ngữ, ý nghĩ, hành vi, cùng tất cả những cảnh
tượng, cảm giác đều trở về tiềm phục trong A-lại-gia của ta. Không hề mất di đâu cả. Chúng tạo thành một động lực,
gọi là”nghiệp lực”đẩy chúng ta vào một đoạn sinh mệnh mới, một kiếp sống mới.
Vấn đề
luân hồi trong đạo Phật là một vấn đề sâu xa, cần phải tìm hiểu lâu dài. Bài
này chỉ có thể gợi được một vài ý niệm căn bản đủ để độc giả có thể phá bỏ
những thành kiến từ xưa về luân hồi mà thôi vậy.
{—]–{